François Cheng: Năm Trầm Tư về Cái Đẹp, Hà Vũ Trọng chuyển ngữ (P.1)
NĂM TRẦM TƯ VỀ CÁI ĐẸP
François Cheng (Trình Bão Nhất 程抱一) sinh năm 1929 tại Giang Tây, sang Pháp năm 1949, là nhà thơ, nhà văn, nhà thư pháp. Ông đã sống ở Paris hơn 60 năm, tác giả của nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp: gồm 10 tập thơ và nhiều sách về hội hoạ, mĩ học, thi pháp Trung Hoa, và nhiều tiểu thuyết, cũng là dịch giả của một số nhà thơ lớn của Pháp sang tiếng Trung. Năm 2001, Francois Cheng được tặng Giải thưởng Lớn của Cộng đồng Pháp Ngữ (Grand Prix de la Francophonie), sang năm 2002 ông trở thành Viện sĩ gốc Á đầu tiên của Viện Hàn lâm Pháp (L’Académie française).
Trong tác phẩm Năm trầm tư về cái đẹp (Cinq Méditations sur la Beauté), François Cheng kết hợp những cảm nhận sống độc đáo của mình, từ một góc nhìn vượt Đông-Tây, bắt đầu từ truyền thống nghệ thuật hàng ngàn năm của Trung Quốc với lí thuyết nghệ thuật, và mĩ học từ thời Phục hưng châu Âu, để nói về cái đẹp và mối liên hệ nội tại giữa cái đẹp và sự tồn tại của đời sống.

Năm trầm tư về cái đẹp mang màu sắc của bài phát biểu với tiến triển theo hình xoắn ốc, kết quả của một hành trình sống độc đáo với nhiều lần gặp gỡ, vượt ra ngoài phạm trù tri thức thuần tuý, đi vào sâu thẳm trong suy tư. “Cái đẹp thực sự không chỉ tồn tại trong những thứ đã được công nhận là đẹp; nó gần như trước hết nằm trong khát vọng và xung động hướng tới cái đẹp. Nó thường là một sự hiện diện bất ngờ. Do đó, chiều kích tinh thần hoặc tâm hồn là vô cùng quan trọng. Điều chi phối nó ở phía sau chính là nguyên tắc sống rộng lớn. Vì vậy, trong tất cả các tiêu chuẩn có thể, nguyên tắc duy nhất có thể đảm bảo tính chân thực của cái đẹp chính là: cái đẹp phù hợp với Đạo mới là cái đẹp thực sự. Đạo là gì? Đó là hành trình không thể ngăn cản hướng tới đời sống khai phóng. Nói cách khác, đó là giữ lời hứa, đảm bảo nguyên tắc sống cho tất cả những khả thể mở ra.”
***
TRẦM TƯ THỨ NHẤT
Trong một thời đại đầy dẫy khổ đau, bạo lực mù quáng, thiên tai và thảm hoạ sinh thái toàn cầu, việc nói về cái đẹp có thể trở nên không thích hợp, không đúng đắn, thậm chí khiêu khích—gần như giật gân. Nhưng chính vì lí do đó chúng ta thấy rằng cái đẹp, như là điều đối lập với cái ác, cái đẹp thực sự nằm ở cực đối diện của một thực tại mà chúng ta phải đối mặt. Tôi tin rằng nhiệm vụ khẩn cấp và thường xuyên của chúng ta là phải nhìn thẳng vào hai bí ẩn này vốn tạo thành hai cực của thế giới đời sống: ở một đầu là cái ác; ở đầu kia là cái đẹp.
Chúng ta biết cái ác là gì, đặc biệt cái ác mà con người gây ra cho đồng loại. Do trí thông minh và tự do của mình, khi con người rơi vào hận thù và tàn bạo, họ có thể chìm xuống những vực thẳm không đáy, mà ngay cả loài thú dữ nhất cũng không làm được. Trong đó có một bí ẩn ám ảnh lương tâm của chúng ta, gây ra một vết thương dường như không thể chữa lành.
Cái đẹp, chúng ta cũng biết là gì. Tuy nhiên, chỉ cần suy ngẫm một chút, chúng ta không thể không ngạc nhiên: thế giới không bắt buộc phải đẹp, thế nhưng nó vẫn đẹp. Dựa trên quan sát này, vẻ đẹp của thế giới, bất chấp mọi thảm hoạ, cũng hiện ra với chúng ta như một bí ẩn.
Sự tồn tại của cái đẹp có ý nghĩa gì đối với sự tồn tại của chính chúng ta? Và trước cái ác, câu nói của Dostoyevsky, “Cái đẹp cứu rỗi thế giới,” có ý nghĩa gì? Cái ác và cái đẹp: đó là hai thách thức mà chúng ta phải đối diện. Đừng quên rằng cái xấu và cái đẹp không chỉ nằm ở hai cực đối lập: chúng đôi khi còn đan xen vào nhau. Bởi vì chỉ ở cuối trục của nó, cái đẹp mới không thể bị cái ác biến thành một công cụ của sự lừa dối, thống trị, hoặc cái chết. Khi một cái đẹp không được xây dựng trên cái thiện thì nó có còn được coi là “đẹp” không? Liệu cái đẹp chân chính có phải là cái thiện? Một cách trực giác, chúng ta biết rằng việc phân biệt cái đẹp thật với cái đẹp giả là một phần nhiệm vụ của chúng ta. Những gì đang bị de doạ không gì khác ngoài sự thật về số phận con người, một số phận liên quan đến những sự kiện cơ bản về tự do của chúng ta.
Có lẽ đáng để tôi dừng lại một chút ở đây để đưa ra lí do sâu xa hơn khiến tôi đề cập đến vấn đề cái đẹp và không bỏ qua vấn đề cái ác. Bởi vì ngay từ khi còn nhỏ, trong khoảng ba, bốn năm, tôi đã bị “sét đánh” bởi hai hiện tượng cực đoan này. Cái đẹp đã đến trước.
Tổ tiên tôi có quê gốc ở tỉnh Giang Tây, nơi có dãy Lư Sơn. Mỗi năm vào mùa hè, cha mẹ tôi đều dẫn chúng tôi đến đó để nghỉ mát. Lư Sơn thuộc một dãy núi, có độ cao gần một nghìn năm trăm mét, nằm ở vị trí cao, một bên nhìn ra sông Dương Tử và bên kia là hồ Bà Dương.
Do địa thế đặc biệt, nơi đây được coi là một trong những địa điểm đẹp nhất Trung Quốc. Do đó, trong suốt khoảng mười lăm thế kỉ, nơi đây đã thu hút các thiền sư, hoà thượng, thi nhân và hoạ sĩ. Khi được người phương Tây phát hiện, đặc biệt là các nhà truyền giáo Tin Lành, vào cuối thế kỉ 19, nơi đây đã trở thành khu nghỉ dưỡng của họ. Họ tập trung quanh một ngọn đồi trung tâm, rải rác những ngôi nhà gỗ và nhà nghỉ. Mặc dù có những di tích cổ và những ngôi nhà hiện đại, Lư Sơn vẫn tiếp tục có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Những ngọn núi xung quanh vẫn giữ nguyên vẻ đẹp nguyên sơ, một vẻ đẹp mà truyền thống mô tả là huyền bí, đến mức câu nói của người Trung Quốc, “vẻ đẹp Lư Sơn” mang nghĩa “sự huyền bí khôn dò.”
Tôi sẽ không mô tả vẻ đẹp này dài dòng. Nói ngắn gọn rằng nó bắt nguồn từ một vị trí đặc biệt, như vừa đề cập, điều này khiến mang lại nhiều góc nhìn mới mẻ và những trò chơi ánh sáng biến hoá vô tận. Vẻ đẹp của nó cũng bắt nguồn từ những lúc mây mù sương che khuất hoặc hiển lộ một “Lư Sơn chân diện mục”; từ những tảng đá kì dị hoà quyện với thảm thực vật dày đặc và đa dạng, từ những thác nước và dòng suối chảy tạo ra một bản nhạc không ngừng suốt ngày đêm qua bốn mùa. Vào những đêm hè giữa dòng Trường Giang và dải Ngân Hà, đom đóm thắp sáng, núi rừng toả nồng hương tinh dầu của mọi loại cây cối; những con thú hoang say sưa bừng dậy đắm mình trong ánh trăng, những con rắn cũng trải dài lớp da lượt là của chúng, lũ ếch rải những hạt ngọc trai, giữa hai tiếng kêu, đàn chim phóng ra như những mũi tên đen tuyền…
Tôi không có ý mô tả phong cảnh. Tôi chỉ muốn nói rằng Thiên nhiên, qua Lư Sơn, với tất cả sự hiện diện đáng sợ của nó, đã phô bày trước đứa bé sáu hoặc bảy tuổi là tôi khi ấy, như một bí mật vô tận, và trên hết, như một cơn mê đắm không thể cưỡng lại. Dường như nó gọi tôi tham gia vào cuộc phiêu lưu của nó, và tiếng gọi đó đã làm tôi choáng ngợp, khiến tôi gục ngã. Dù tôi còn trẻ, tôi cũng nhận thức được rằng Thiên Nhiên cũng ẩn chứa nhiều bạo lực và tàn nhẫn. Tuy nhiên, làm sao tôi lại không nghe thấy thông điệp vang vọng bên trong mình: cái đẹp tồn tại!
Một lần nữa trong cái thế giới gần như nguyên sơ này, thông điệp đó sẽ sớm được xác nhận bởi vẻ đẹp của thân thể con người, hay cụ thề hơn là thân thể phụ nữ. Khi lang thang trên đường núi, tôi bắt gặp những cô gái phương Tây mặc đồ bơi, họ đang đi tới những hồ nước được tạo thành bởi thác nước để tắm. Những bộ đồ bơi vào thời đó rất kín đáo. Nhưng nhìn cảnh đôi vai trần và cặp đùi trần dưới ánh nắng mùa hè, thật là sốc! Chưa kể tiếng cười vui vẻ của những cô gái trẻ đó đáp lại tiếng gầm thét của thác nước! Có vẻ như ở đây, Thiên nhiên đã tìm thấy một ngôn ngữ riêng để ca ngợi nó. Ca ngợi—đó chính là chiếc chìa khoá. Con người cần phải tạo ra thứ gì đó từ vẻ đẹp này mà Thiên nhiên đã ban tặng.
Tôi đã sớm khám phá ra điều kì diệu đó mang tên Nghệ thuật. Mắt mở to, tôi bắt đầu nhìn chăm chú hơn vào hội họa Trung Quốc, chúng tái hiện một cách tuyệt vời những cảnh mây và sương mù trên núi. Và, một khám phá trong những khám phá: tôi đã sớm tình cờ phát hiện ra một loại hội hoạ khác. Một trong những người dì của tôi trở về từ Pháp, đã mang đến cho chúng tôi những ấn bản tranh từ Bảo tàng Louvre và những nơi khác. Tôi bị sốc một lần nữa khi nhìn thấy hình ảnh phụ nữ khoả thân được thể hiện một cách đầy nhục cảm và lí tưởng: những nữ thần Vệ nữ Hi Lạp, những người mẫu của Botticelli, Titian và đặc biệt, gần gũi hơn với chúng tôi, là Chassériau, Ingres. bức “Nguồn suối” (La Source) của Ingres mang tính biểu tượng đã thấm sâu vào trí tưởng tượng của đứa bé, khiến nó rơi nước mắt, làm xao động dòng máu.
Lúc đó là cuối năm 1936. Chưa đầy một năm sau, chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ. Những kẻ xâm lược Nhật Bản dự tính cuộc chiến sẽ ngắn ngủi, nhưng sự kháng cự của người Trung Quốc đã khiến họ bất ngờ. Khi, sau vài tháng, họ chiếm được thủ đô, một cuộc thảm sát kinh hoàng ở Nam Kinh diễn ra. Tôi vừa tròn tám tuổi.
Chỉ trong hai hoặc ba tháng, quân đội Nhật Bản, điên cuồng, đã thành công trong việc giết chết ba trăm nghìn người, bằng những phương thức tàn bạo và khác nhau: xả súng máy vào những đám đông đang chạy trốn; hành quyết hàng loạt bằng cách chém đầu bằng kiếm; ném thường dân vô tội xuống những cái hố lớn rồi chôn sống.
Những cảnh kinh hoàng khác: lính tù binh Trung Quốc bị bắt trói đứng vào các cột để lính Nhật tập dùng lưỡi lê. Lính Nhật, xếp thành một hàng, đối mặt với họ. Lần lượt, từng người lính bước ra khỏi hàng, hét lớn và đâm lưỡi lê vào máu thịt người sống…
Cũng kinh khủng không kém là số phận dành cho phụ nữ: hiếp dâm cá nhân, hiếp dâm tập thể thường kèm theo hành vi cắt xẻo, và giết người. Một trong những cơn cuồng trí của lính hiếp dâm: chụp ảnh người phụ nữ bị cưỡng hiếp và bắt cô ta phải đứng trần truồng cạnh mình. Một số bức ảnh đó đã được công bố trong các tài liệu Trung Quốc tố cáo tội ác của Nhật Bản. Từ đó trở đi, trong tiềm thức của đứa trẻ tám tuổi như tôi, chồng thêm lên hình ảnh vẻ đẹp lí tưởng bức tranh “Nguồn suối” của Ingres là hình ảnh người phụ nữ bị xâm hại, bị thương tật bởi kẻ bạo hành.
Khi gợi lên những sự kiện lịch sử này, tôi hoàn toàn không muốn ám chỉ rằng những hành động tàn bạo là riêng biệt của một dân tộc nào. Sau đó, tôi có thời gian để tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc và thế giới. Tôi biết rằng cái ác, khả năng làm điều ác, là một thực tế phổ quát thuộc về toàn thể nhân loại.
Hai hiện tượng nổi bật và cực đoan này giờ đây liên tục ám ảnh nhận thức của tôi. Sau này, tôi dễ dàng nhận ra rằng cái ác và cái đẹp là hai thái cực của thế giới đời sống, tức là thực tế. Vì vậy, tôi biết rằng, từ nay trở đi, tôi sẽ phải chấp nhận cả hai đầu thái cực này: nếu chỉ xử lí một đầu này mà bỏ qua đầu kia, chân lí của tôi sẽ không có giá trị. Bằng trực giác, tôi hiểu rằng nếu không có cái đẹp, cuộc đời có lẽ không đáng sống, và mặt khác, một hình thức cái ác nhất định xuất phát chính từ việc sử dụng cái đẹp một cách vô cùng bại hoại.
*
Đây là lí do tại sao hôm nay tôi đến trước mặt các bạn, rất muộn màng trong cuộc đời tôi, để xem xét vấn đề về cái đẹp, mà không quên sự tồn tại của cái ác. Tôi biết đây là một nhiệm vụ khó khăn và bạc bẽo. Trong thời đại hỗn loạn về những giá trị, người ta cho rằng thà giễu cợt, hoài nghi, châm biếm, thất vọng hoặc thờ ơ. Sự can đảm đối mặt với nhiệm vụ này, tôi cho rằng, xuất phát từ mong muốn của tôi để thực hiện một nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đang đau khổ, cũng như những người trong tương lai.
Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng mình đầy nghi ngại, nếu không muốn nói là khắc khoải. Đứng trước mặt các bạn, tôi lo sợ rằng những câu hỏi mà các bạn đặt ra mặc dù tôi thấy hợp lí, như: “Bạn đang trình bày từ quan điểm nào? Bạn xuất phát từ vị trí nào? Bạn dựa vào sự hợp pháp nào?” Đối với những câu hỏi như vậy, tôi trả lời một cách rất đơn giản rằng tôi không có tư cách đặc biệt nào. Tôi chỉ tuân theo một quy tắc duy nhất: không bỏ qua bất cứ điều gì tạo nên một phần của đời sống; không bao giờ từ chối lắng nghe người khác, và suy nghĩ độc lập.
Không thể phủ nhận rằng tôi đến từ một vùng đất và một nền văn hoá nhất định. Hiểu rõ hơn về về nền văn hoá này, tôi tự giao cho mình nhiệm vụ trình bày mặt tốt nhất của nó. Nhưng do đời sống lưu vong đã khiến tôi trở thành một người không thuộc về nơi nào, hoặc thuộc về mọi nơi. Vì vậy, tôi không nói dưới danh nghĩa cho một truyền thống hay một lí tưởng nào đó được truyền lại từ những bậc tiền bối mà danh sách có giới hạn, càng không phải là một siêu hình học đã được định sẵn, hoặc một niềm tin cố định.
Thay vào đó, tôi tự nhận mình là một nhà hiện tượng học có phần ngây thơ, người quan sát và chất vấn không chỉ những sự kiện đã được lí tính phát hiện và xác định, mà còn về những gì ẩn giấu và bao hàm, chúng nảy sinh theo những cách không tiên liệu và bất ngờ, hiện xuất như một món quà và lời hứa. Tôi nhận thức rằng, trong thế giới vật chất, người ta có thể và cần phải thiết lập các định lí. Nhưng mặt khác, tôi biết rằng trong lĩnh vực đời sống, chúng ta nên học cách nắm bắt các hiện tượng khi chúng xảy ra, mỗi lần là độc nhất, khi chúng tự hiển hiện thuận theo Đạo, tức là đang hướng tới đời sống khai phóng. Bên cạnh việc suy tư, công việc tôi phải hoàn thành bao gồm việc đào sâu trong bản thân khả năng tiếp thu. Chỉ có một thái độ tiếp nhận – “làm khe nước cho thế giới” (vi thiên hạ khê) như Lão Tử nói – chứ không phải thái độ chinh phục, mới cho phép chúng ta, tôi tin chắc, tiếp nhận được một phần chân lí từ đời sống khai phóng.
Khi phát âm từ này, chân lí, một câu hỏi hiện lên trong đầu: Tôi đề xuất suy tư về cái đẹp, tốt lắm, nhưng liệu có chính đáng khi trình bày nó như là biểu hiện tối cao của thế giới được sáng tạo? Nếu chúng ta dựa vào truyền thống Plato, thì chẳng phải sự thật—hay chân lí—trong thế giới Ý niệm, phải chiếm vị trí cao nhất hay sao? Và lập tức theo sau chân lí, chẳng phải dành cho cái thiện hoặc sự tốt lành hay sao? Câu hỏi này dù chính đáng đến đâu, vẫn phải theo cùng chúng ta trong suốt những suy tư. Trong quá trình phát triển các ý tưởng về cái đẹp, chúng ta sẽ phải cố gắng biện minh cho nó dựa trên các khái niệm về sự thật và sự tốt lành.
Bây giờ, hãy bắt đầu bằng cách tiến hành điều sau đây. Rằng sự thật, hay chân lí là điều cơ bản dường như hiển nhiên với chúng ta. Bởi vì thế giới đời sống tồn tại nên phải có một chân lí tồn tại cho thực tại ấy, về tổng thể, có thể hoạt động. Còn về cái thiện, hay sự tốt lành, chúng ta cũng hiểu sự cần thiết của nó. Để thế giới đời sống này tiếp tục tồn tại, phải có một mức độ tối thiểu của sự tốt đẹp, nếu không, chúng ta có nguy cơ giết nhau đến người cuối cùng, và mọi thứ sẽ trở nên vô nghĩa. Còn cái đẹp thì sao? Nó tồn tại, mà sự tồn tại của nó ngay khi thoạt nhìn dường như không cần thiết chút nào. Nó hiện diện khắp nơi, kiên trì, thấm nhuần, trong khi vẫn tạo ra ấn tượng là thừa thãi. Đó là bí ẩn của nó: nó ở đó, trước mắt chúng ta, là bí ẩn lớn nhất.
Chúng ta có thể tưởng tượng một thế giới chỉ có sự thật mà không hề chạm tới một chút ý niệm nào về cái đẹp. Đây sẽ chỉ là một thế giới chức năng, nơi các yếu tố không phân biệt, đồng nhất, chuyển động theo cách hoàn toàn có thể hoán đổi cho nhau. Chúng ta sẽ phải đối phó với một trật tự của những “robot” chứ không phải trật tự của đời sống. Thực tế, các trại tập trung của thế kỉ hai mươi đã cho chúng ta một hình ảnh khủng khiếp về thứ “trật tự” này.
Để đời sống tồn tại, phải có sự phân hoá của các yếu tố. Khi nó tiến hoá, bằng cách trở nên ngày càng phức hợp, sự phân hoá này dẫn đến tính độc nhất của mỗi sinh vật. Điều này phù hợp với quy luật của đời sống, có nghĩa rằng mỗi sinh vật tạo thành một đơn vị hữu cơ cụ thể và đồng thời sở hữu tiềm năng phát triển và biến đổi. Đây là cách mà cuộc phiêu lưu bao la của đời sống đã tạo ra từng ngọn cỏ, từng bông hoa, mỗi người chúng ta, mọi người, đều độc đáo và không thể thay thế. Sự thật này quá hiển nhiên đến nỗi chúng ta không còn ngạc nhiên nữa. Tuy nhiên, cá nhân tôi vẫn là người luôn thấy ngạc nhiên. Khi tuổi tác tăng lên, thay vì cảm thấy thất vọng, tôi vẫn tiếp tục ngạc nhiên. Tại sao tôi không nói ra điều đó: nó không bao giờ ngừng làm tôi vui sướng, bởi vì tôi biết rằng tính độc đáo của những sinh vật, của mỗi sinh vật, là một món quà quý giá.
Đôi khi tôi tưởng tượng mọi thứ diễn ra hơi khác một chút, tự nhủ rằng sự phân hoá các nguyên tố có thể đã được thực hiện theo những hạng mục lớn. Chẳng hạn, có thể có hạng mục hoa, nhưng với tất cả các loại hoa giống nhau, hoặc hạng mục chim, nhưng với tất cả các loài chim giống nhau, hạng mục đàn ông, hạng mục đàn bà, vv…
Nhưng không, có bông hoa này, con chim này, người đàn ông này, người phụ nữ này. Do đó, theo trật tự vật chất, ở cấp độ chức năng, chúng ta có thể thiết lập các định lí; đối với trật tự của đời sống, mọi sự thống nhất luôn luôn là độc nhất. Chúng ta phải nói thêm ở đây rằng nếu mỗi cá thể là độc nhất, thì ở mức độ mà tất cả những cá thể khác cũng là độc nhất. Nếu tôi là cá thể độc nhất, và nếu mọi cá thể khác đều giống hệt nhau, thì tôi sẽ chẳng là gì hơn một mẫu vật kì lạ, thích hợp để trưng bày trong tủ kính bảo tàng. Tính độc nhất của mỗi cá nhân chỉ có thể hình thành, khẳng định, dần dần bộc lộ và cuối cùng có được ý nghĩa nhờ vào tính độc nhất của những cá thể khác. Đó chính là điều kiện cho một đời sống khai phóng. Chính trong điều kiện này mà một đời sống khai phóng không bị nguy cơ nhốt kín trong một chủ nghĩa ái kỉ chết người. Mọi tính độc nhất thực sự đều kêu nài những sự độc nhất khác, nó chỉ mong mỏi những sự độc nhất khác.
Tính độc đáo được xác nhận cả trong không gian lẫn thời gian. Trong không gian, các cá thể nhận ra nhau và phân biệt nhau qua sự độc đáo của chúng. Trong thời gian, mỗi giai đoạn, mỗi trải nghiệm của mỗi cá thể, đều mang dấu ấn của sự độc đáo. Ý niệm về những khoảnh khắc độc nhất này, nếu chúng hạnh phúc và đẹp đẽ, đánh thức trong chúng ta những cảm xúc sâu sắc đi kèm với nỗi hoài niệm vô tận. Chúng ta phải chấp nhận rằng sự độc nhất của mỗi khoảnh khắc gắn liền với thân phận chúng ta là những sinh linh hữu hạn; đó là lời nhắc nhở chúng ta liên tục. Đó là lí do tại sao vẻ đẹp dường như luôn mang tính bi kịch, vì chúng ta bị ám ảnh bởi nhận thức rằng mọi vẻ đẹp đều phù du. Đây cũng là cơ hội để chúng ta nhấn mạnh mọi vẻ đẹp đều có mối liên hệ chặt chẽ với sự độc nhất của khoảnh khắc. Một vẻ đẹp thực sự không thể là một trạng thái đóng băng vĩnh viễn. Sự xuất hiện của nó, sự hiện diện của nó, luôn tạo thành một khoảnh khắc độc nhất; đó là cách tồn tại của nó. Vì mỗi cá thể là độc nhất, mỗi khoảnh khắc của nó cũng độc nhất. Bởi vì mỗi cá thể là độc nhất, mỗi khoảnh khắc của nó cũng độc nhất, vẻ đẹp của nó nằm trong sự thúc đẩy tức thời hướng tới cái đẹp, được làm mới không ngừng, và mỗi lần đều mới mẻ.
Trong mắt tôi, tính độc đáo chính là nơi bắt đầu khả thể của cái đẹp: hữu thể không còn là một cỗ máy giữa những cỗ máy khác, cũng không chỉ là một hình bóng giữa những hình bóng khác. Sự độc đáo biến mỗi hữu thể thành một hiện diện, giống như một bông hoa hay một cái cây, theo thời gian, luôn hướng tới sự lộng lẫy trọn vẹn của nó, đó chính là định nghĩa về cái đẹp.
Khi hiện diện, mỗi hữu thể đều tiềm ẩn khả năng đạt được cái đẹp, và đặc biệt là “khao khát cái đẹp”. Nhìn thoáng qua, thế giới chỉ là một tập hợp những hình tượng đông đảo; trên thực tế, nó đông đảo bởi một tập hợp những sự có mặt. Tôi gần như nghĩ rằng mỗi sự có mặt không thể bị giảm thiểu thành bất cứ điều gì khác, thể hiện sự siêu việt. Đối với hình tượng con người một cách cụ thể hơn, tôi yêu thích và chấp nhận ý tưởng này của Henri Maldiney:
Từ mỗi khuôn mặt con người toả ra một sự siêu việt không thể trở thành sở hữu, nó bao trùm và xuyên thấu chúng ta. Sự siêu việt này không phải là một biểu hiện tâm lí đặc thù, mà do phẩm chất tồn tại của mỗi khuôn mặt, chiều kích siêu hình của nó mang lại. Đó là sự siêu việt của thực tại, đang tự hỏi trong nó, ánh chiếu trong nó, và chính trong câu hỏi, nó là chiều kích kêu gọi của sự Khai phóng (l’Ouvert).
Từ thực tại này, khả năng nói “tôi” và “bạn” được ra đời, khả năng ngôn ngữ được hình thành, và có lẽ cũng là khả năng yêu thương.
Nhưng để giữ vững chủ đề về cái đẹp, chúng ta nhận thấy rằng bên trong sự hiện diện của mỗi hữu thể, và từ sự hiện diện này sang sự hiện diện khác, hình thành một mạng lưới phức hợp của vòng tuần hoàn và kết nối. Chính trong mạng lưới này là khát vọng mà mỗi hữu thể cảm nhận để mở ra với sự trọn vẹn về sự hiện diện của mình trong thế giới. Một hữu thể càng ý thức nhiều thì khát vọng này càng trở nên phong phú: khát vọng cho bản thân, khát vọng cho tha nhân, khát vọng cho sự chuyển hoá theo nghĩa của sự biến hình. Và theo một cách bí ẩn và huyền bí hơn, một khát vọng khác—khát vọng trở về tái hợp với cái Khát vọng khởi thuỷ mà từ đó thế giới dường như phát sinh, trong chừng mực mà vũ trụ này xuất hiện như một sự hiện diện trọn vẹn đầy vẻ lộng lẫy hiển lộ hoặc ẩn giấu. Trong bối cảnh này, sự siêu việt của mỗi hữu thể mà chúng ta vừa nói đến chỉ được phơi mở, chỉ có thể tồn tại trong mối quan hệ nâng cao và vượt qua nó. Sự siêu việt thực sự, một cách nghịch lí, nằm ở giữa, trong những gì bùng nổ mạnh mẽ nhất khi sự trao đổi quyết định giữa các hữu thể và sự Hữu (l’Être) diễn ra.
*
Nguyên tác: François Cheng, Cinq méditations sur la beauté, Éditions Albin Michel, 2006
Hà Vũ Trọng dịch theo bản tiếng Anh: François Cheng, The Way of Beauty- Five Meditations for Spiritual Transformation, do Jody Gladding dịch, Inner Traditions, 2009