Bùi Văn Phú: Triển lãm – Hội thảo về Cải cách ruộng đất và Di cư 1954
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954.
Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển.
Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
Năm nay là kỉ niệm 70 năm ngày kí Hiệp định Geneve 1954 chia đôi nước Việt tại Vĩ tuyến 17 với sự kiện gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam. Nguyên do nào đã tạo nên làn sóng di cư này, rồi 20 năm sau, 1975 lại có làn sóng người Việt bỏ nước ra đi là “thuyền nhân” kéo dài trong hai thập niên để hàng triệu người Việt có mặt tại Hoa Kỳ hôm nay.
Cải Cách Ruộng Đất và những hậu quả kinh hoàng
Vì sao chúng ta có mặt tại đất nước này? Giáo sư Alex-Thái Võ từ Đại học Texas Tech, là con của một gia đình H.O. đã từng tự hỏi. Ông kể lại trong phần giới thiệu chương trình:
“Tại làm sao tôi lại ở Hoa Kỳ. Điều gì đã đưa tôi đến đây? Câu trả lời có thể là dễ. Đó là vì cuộc chiến Việt Nam và hậu quả quả nó. Nhưng khi nghiên cứu sâu vào thì thấy lịch sử có những móc dây chuyền với nhau, không phải là cái gì đứng một mình hay một động thái riêng, mà là những yếu tố dính chùm với nhau để rồi có ảnh hưởng đến chúng ta. Tôi nghĩ lại thì có Nhân văn Giai phẩm, nghiên cứu thêm tôi nhận ra Nhân văn Giai phẩm là phát xuất từ những sự phẫn uất nổi lên từ giai đoạn của cải cách ruộng đất mà ra. Vì thế tôi đã chọn chủ đề Cải cách Ruộng đất để nghiên cứu từ hơn 20 năm qua, đi tìm tư liệu về cải cách ruộng đất từ Hoa Kỳ, từ Việt Nam. Đọc 65 tập Văn kiện Đảng…”
Tốt nghiệp tiến sĩ sử từ Đại học Cornell và là người đồng phối hợp tổ chức sự kiện cuối tuần này với Giáo sư Vũ Tường, giám đốc US-VN Research Center tại Đại học Oregon, Eugene và giám đốc Vietnamese Heritage Museum Châu Thụỵ, giáo sư Thái có nhận định về Cải cách Ruộng đất và Di cư 1954 như sau:
“Đó là hai sự kiện lịch sử Việt Nam quan trọng bị che lấp, bóp méo hay xoá mờ dù ở Việt Nam hay ở một nước tự do dân chủ như Hoa Kỳ. Bằng cách đào sâu vào những câu chuyện lịch sử này chúng tôi không muốn gây hận thù, gây chia rẽ. Chúng tôi chỉ muốn khẳng định quyền của con người, quyền của người Việt Nam, quyền của người tị nạn được định hình tương lai của mình bằng một sắc thái thông thái…”
Sự việc người Việt bỏ quê từ bắc vào nam năm 1954, rồi từ Việt Nam ra nước ngoài vào năm 1975 là bắt nguồn từ những hậu quả kinh hoàng trong cải cách ruộng đất do cộng sản chủ trương, đưa đến cái chết của hàng trăm nghìn người dân, bị qui cho là địa chủ mà phần lớn là qui sai nên đã chết oan. Một văn kiện đảng ngày 4/5/1954 qui định mỗi 1000 dân thì xử tử một người. Mỗi xã qui định là có 5% địa chủ. Vì thế nhiều người bị cho là địa chủ và bị đấu tố, làm nhục, hành hạ oan trái. Nhiều người khác thấy thế, sợ quá mà tự tử. Theo dẫn chứng của giáo sư Thái.
Giáo sư Nguyễn Văn Canh, học giả về cộng sản Việt Nam tại Hoover Institute của Đại học Stanford, qua các nghiên cứu từ ngày còn ở quê nhà, cho biết nhiều thành phần trong xã hội bị qui chụp là địa chủ, có ông đồ dạy chữ nho, hay ông Phó lý tên Khoa ở xóm Chuối, Ninh Bình là một người có chức quyền ở nông thôn, ông chết rồi mà cán bộ còn định đem bà vợ ra xử thay khiến bà sợ quá mà tự vẫn. Ông nhận định rằng lãnh đạo cộng sản chủ trương vô sản chuyên chính, dùng bạo lực để thống trị và tiêu diệt văn hoá, xoá đi lịch sử, đưa giai cấp vô sản lên nắm chính quyền. Họ kích động người vô sản vùng lên giành quyền lợi trong cải cách ruộng đất, lấy ruộng của điền chủ chia cho dân. Khi chiếm được chính quyền thì áp dụng chính sách hộ khẩu, tổ chức làng xã bị đảo lộn, không còn phép vua thua lệ làng. Với những chính sách hà khắc, người nông dân lại bị ép buộc vào hợp tác xã đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước.
Một người nêu câu hỏi vì sao cộng sản tàn ác mà người dân miền Nam không được dạy cho biết. Giáo sư Canh trả lời đó là một thiếu sót và sai lầm của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Cho đến năm 1974, lúc ông làm phụ tá khoa trưởng Đại học Luật khoa Sài Gòn thì ông đã đưa chương trình giảng dạy về cộng sản vào đại học.
Giáo sư Vũ Tường trình bày về ý nghĩa của cuộc triển lãm với hình ảnh, sách báo và di vật là nguồn tài liệu phong phú nhất có được ở bên ngoài nước Việt Nam về hai chủ đề của hội thảo và triển lãm hôm nay. Giáo sư chia sẻ về lý do tại sao ông theo đuổi việc học tập và nghiên cứu về cộng sản Việt Nam:
“Tôi sống ở Việt Nam 15 năm. Tôi biết cộng sản. Ngoại trừ ông Alec Holcombe ngồi đây, còn ở trong nước thì cho rằng Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp là người yêu nước. Họ theo Nga Tầu để giành độc lập cho đất nước chứ họ không phải là cộng sản. Trong thời chiến tranh các học giả thiên tả cho rằng cộng sản là yêu nước. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là có chính nghĩa, còn Việt Nam Cộng hoà chỉ là bù nhìn của Mỹ. Nhiều sử gia và nhà báo Mỹ hiểu sai về người cộng sản Việt Nam nên đã thúc đẩy tôi nghiên cứu về câu hỏi này, thu thập nhiều bằng chứng và đưa ra lập luận vững chắc để bác bỏ những hiểu biết sai trái đó… Nhiều người đã sống dưới chế độ cộng sản nhiều chục năm, tôi sống 15 năm và ước gì các giáo sư người Mỹ cũng biết được câu trả lời như chúng ta.”
Về hệ quả của cải cách ruộng đất, theo giáo sư Tường thì phương pháp dùng bạo lực đã dẫn đến rất nhiều sai lầm và đổ vỡ. Ông Hồ Chí Minh khóc lóc xin lỗi, ông Trường Chinh từ chức. Nhưng họ vẫn tiếp tục làm hợp tác xã nông nghiệp, chủ trương làm chủ tập thể và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Họ biết là sai nhưng vẫn làm, cho đến khi họ chết.
Giáo sư Alec Holcombe từ Đại học Ohio đã trình bày bằng tiếng Việt nguyên nhân đưa tới việc lãnh đạo Hà Nội cho thi hành chính sách Cải cách Ruộng đất:
Trong cuộc chiến chống Pháp, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cần ba thứ quan trọng nhất: lương thực, lao động và binh lính.
Sau khi giành chiến thắng vang dội trong Chiến dịch Biên giới thu đông (1950) với sự góp sức của cố vấn Trung Quốc và vũ khí viện trợ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp tục khó khăn trong việc huy động lương thực để nuôi quân và bộ máy chính quyền.
Theo Giáo sư Holcombe, trong thời gian này, cố vấn La Quý Ba của Trung Quốc đã gây áp lực buộc lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải sử dụng cải cách ruộng đất để giải quyết các vấn đề của họ.
Giáo sư Holcombe cho rằng ông Hồ Chí Minh “có niềm tin thực sự rằng cần phải tuân theo công thức hai giai đoạn chính thống của chủ nghĩa Lenin: cải cách ruộng đất nên được hoãn lại cho đến sau khi chiến tranh kết thúc.
Tuy nhiên, với mong muốn có thêm viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã đồng ý thực hiện chương trình cải cách ruộng đất của La Quý Ba ngay trong chiến tranh.
“Sau nhiều năm suy nghĩ, tôi thấy Cải cách Ruộng đất giống như một màn trình diễn kinh hoàng do nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa áp đặt lên toàn bộ người dân nông thôn,” Giáo sư Holcombe nói.
“Đó là một chương trình yêu cầu mọi người trong cộng đồng phải đóng một vai trò nào đó. Để vở kịch có hiệu quả, mỗi làng phải có đủ số đối tượng để tố cáo và trừng phạt. Nói cách khác, phải có đủ số lượng địa chủ.”
Tuy nhiên, theo Giáo sư Holcombe, thực tế ở nông thôn Việt Nam “không có nhiều người đủ tiêu chuẩn làm địa chủ”.
Tài liệu do giáo sư Holcombe đưa ra cho biết con số địa chủ được ấn định là 5,68% dân số. Tuy nhiên, theo kiểm tra dân số ở hai xã của tỉnh Nghệ An thì chỉ có 0,3% là địa chủ. Vì thế, nhiều người bị qui oan vì thực sự họ không phải là địa chủ.
Chiến dịch Cải cách Ruộng đất bắt đầu năm 1953. Tới sau khi kí kết Hiệp định Genève vào ngày 21 tháng 7 năm 1954, để tiếp tục cải cách ruộng đất mà không bị gắn mác vi phạm hiệp định, các nhà lãnh đạo Đảng đã chuyển chiến dịch sang các vùng miền Bắc Việt Nam xa bờ biển hơn, nơi người dân khó trốn vào Nam hơn.
Lúc bấy giờ, người dân sống ở vùng biển từ Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định tới Thanh Nghệ Tĩnh đã nghe biết về những vụ đấu tố, những người bị xử tử hay phải tự tử vì quá sợ hãi.
Sự kinh hoàng này đã khiến gần một triệu người di cư vào Nam, theo nhận định của Giáo sư Alex-Thái Võ, và khi cộng sản tiến vào Sài Gòn thì nhiều người cũng bỏ nước ra đi vì sợ cộng sản.
Cuộc Di Cư 1954 để lánh nạn Cộng sản
Ngày thứ hai của hội thảo là về Cuộc Di cư 1954. Diễn viên Kiều Chinh đã đọc một đoạn trong hồi ký về hoàn cảnh cô phải xa rời bố và anh, giã từ Hà Nội trong cơn hoảng loạn để vào Nam khi cô mới 15 tuổi và những hình ảnh đó cũng như cảnh di tản khỏi Sài Gòn vào tháng Tư 1975, mà khi tham gia đóng vai trong bộ phim “The Sympathizer” của Nguyễn Thanh Việt thì cô như được sống lại với thời điểm ở phi trường Gia Lâm 70 năm trước.
Giáo sư Trần Huy Bích, lúc đó 18 tuổi và đang ở Nam Định nhưng một mình đã quyết định di cư, bỏ lại bố, chị và bà nội vì biết rằng không thể sống với cộng sản qua trải nghiệm của một thanh niên từng sống trong vùng Việt Minh kiểm soát. Trong lớp học ông góp ý với cán bộ giảng dạy mà bị đề nghị báo cáo lên cấp trên. Ông kinh hoàng khi nghe cán bộ ca ngợi Liên Xô vĩ đại, nơi có nhà máy biến con bò thành hộp thịt và ngược lại cũng có thể biến hộp thịt trở lại thành con bò.
Cuộc trò chuyện giữa nhà văn Trần Phong Vũ và giáo sư Joseph Nguyễn của Đại học Cal State Long Beach về những gì ông đã trải qua ở miền Bắc trước 1954 và nguyên do khiến ông vào Nam là một hình mẫu cho thế hệ trẻ có cơ hội tìm hiểu về những gì mà ông bà, cha mẹ của các em đã trải qua.
Giáo sư Hoàng Anh Tuấn từ Đại học Pepperdine chuyên nghiên cứu về sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, đặc biệt là những cộng đoàn công giáo di cư trong những năm 1954 đến 75 và cả khi đã ra nước ngoài. Những tuyển tập trong cuộc thi “Viết về nước Mỹ” do nhật báo Việt Báo tổ chức hằng năm từ 2006 đến nay là nguồn tài liệu phong phú về hành trình vượt biên, vượt biển; về tiến trình hội nhập và buồn vui trong đời sống của người Việt hải ngoại.
Song song với hội thảo là phần chiếu phim “Chúng tôi muốn sống” được sản xuất tại miền Nam vào năm 1956 về các chiến dịch đấu tố và hệ luỵ của cải cách ruộng đất và phim tài liệu “Di cư 1954” về hành trình của gần một triệu người từ Bắc vào Nam định cư lánh nạn cộng sản.
Trước khi vào hội thảo, ban tổ chức cũng đã cho diễn vở kịch làm sống lại cảnh đấu tố trong cải cách ruộng đất do ban tù ca Xuân Điềm phụ trách, là cảnh toà án nhân dân xét xử địa chủ, một người làm việc cho Pháp, bất mãn nên bị cho thôi việc, nhưng lại bị cán bộ cải cách qui là thành phần địa chủ, đem ra trước toà án nhân dân và bị xử bắn. Đó là câu chuyện thật về ông Trần Bá Cường ở làng Quát, tỉnh Thái Nguyên.
Cho đến nay, sự kiện cải cách ruộng đất vẫn còn là điều nhạy cảm đối với lãnh đạo Hà Nội. Năm 2014, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia có cuộc triển lãm với chủ đề này, dự trù kéo dài ba tháng nhưng mới mở cửa được ba ngày thì phải đóng cửa với lý do có sự cố về điện và không mở lại.
Tác phẩm The Mountains Sing (Sơn ca) của Nguyễn Phan Quế Mai [Nxb Algonquin Books, 2020] là hồi ức về gia đình trong những năm từ 1930 đến sau chiến tranh, qua chuyện kể của bà ngoại của tác giả và có nhắc đến cải cách ruộng đất với những hệ quả đau buồn. Tuy tác phẩm đạt nhiều giải thưởng văn chương quốc tế, đã được dịch ra hơn mười ngôn ngữ nhưng đến nay bản tiếng Việt vẫn chưa được phép xuất bản ở Việt Nam.
Cải cách ruộng đất, di cư 1954, rồi di tản 1975 và hành trình vượt biên trong hai thập niên sau đó vẫn còn là những đề tài không được nhắc đến trong nước hay bị bóp méo sự thực khi được đề cập tới.
Chính vì thế mà đã có hai ngày triển lãm và hội thảo vừa qua. Ông Châu Thuỵ, giám đốc Vietnamese Heritage Museum đã phát biểu khi khai mạc:
“Những biến cố lịch sử nêu trên đã đặt ra rất nhiều câu hỏi cần được làm sáng tỏ qua những tài liệu chuyên môn đang được lưu trữ tại các trung tâm quốc tế. Hôm nay chúng ta họp mặt, cùng tìm hiểu những lí do sâu xa về hai sự kiện lịch sử này. Lịch sử luôn cần được tìm hiểu hầu đưa ra ánh sáng những bí ẩn để từ đó chúng ta rút tỉa ra những kinh nghiệm, gìn giữ một cách trung thực nội dung di sản trí thức dành cho thế hệ con cháu của chúng ta ngay tại đây, bây giờ và mai sau.”
Bùi Văn Phú