Đinh Trường Chinh: Đi thăm Viên Linh

Nhà văn, nhà báo Viên Linh (trái) và tác giả bài viết – nhà thơ, họa sĩ Đinh Trường Chinh.

Một chiều mùa xuân, tháng Hai. Khoác chiếc áo lạnh dày, tôi quyết định đi thăm Viên Linh. Buổi chiều xuống thấp. 

Một khu nhà dành cho người già. Great Falls, Virginia. Con đường đến đây vòng quanh, chập chùng lên xuống như Đà Lạt. 

Tôi rủ thêm G. cùng đi. 

Khi chúng tôi đến, ông đã mặc sẵn chiếc áo thẳng thớm, màu mỡ gà, nằm trên chiếc giường nhỏ nhìn ra ngoài nắng. Không biết ông đã nhìn như thế bao lâu, chờ đợi như thế bao lâu. Không biết ông có nhớ cái hẹn chiều nay có người bạn trẻ đến thăm (lại) ông. Viên Linh cứ nằm thế, nghiêng một bên, nhìn ngày qua bên ngoài khung cửa hẹp.

Có thể là ông nhớ. Vì ông đã để sẳn đôi giày đẹp ở chân giường, và cái nón béret màu đen, trên bìa bàn cạnh giường. 

Gõ cửa. Phòng ông “Nam Nguyễn”. Khi tôi đến chỗ ở dành cho người già, mới sực nhớ tên thật ông. 

Viên Linh ngồi dậy, lựng khựng. Ai đây? Giữa nhớ và quên, phản ứng ông vẫn giang tay ôm chầm chúng tôi thân thiết. Có lẽ, chúng tôi đã hiện diện trong ký ức mịt mùng của ông đâu đó. 

Viên Linh của một thời, đẹp, tài hoa, đầy nhiệt huyết đây. Viên Linh nhà báo, nhà thơ, văn sĩ, hoạ sĩ, chủ tịch hội văn bút, v.v… Viên Linh, giữa chập chùng văn chương chữ nghĩa. Viên Linh, giữa muôn trùng gai kẽm nhân gian. Giang hồ văn chương âu cũng gió tanh mưa máu. Có khi ông cũng là gió, là mưa.

Nhưng Viên Linh chiều nay trước mặt tôi, hiền lành và buồn vời vợi. Mắt ông long lanh khi được dìu ra xe, đi bát phố một vòng. Một vòng phố xa lạ hơn là thân quen. Vì đã quá lâu ông chỉ nằm trên chiếc giường đơn trong căn phòng đơn ấy, nhìn ra nắng mưa. Bát phở 75 chiều nay ngon miệng ông. Ông tấm tắc. Lâu quá mới ăn lại. 

Căn phòng đơn ấy, trong khu toàn người già, bệnh, lại đầy hình ảnh Viên Linh, chính ông. Hình ảnh những ngày trẻ đẹp mang chiếc thẻ nhà báo đứng cạnh những vị tướng trận oai phong. Chính ông, ngày lãnh giải thưởng văn chương toàn quốc. Viên Linh, đứng cạnh cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, hay Viên Linh, bắt tay những nhà văn quốc tế. Viên Linh, những ngày lưu vong đi dự rất nhiều những cuộc họp lớn của văn bút quốc tế. Căn phòng ấy đầy sách báo. Sách báo là oxy của ông hơn 60 năm nay mà.

Và dĩ nhiên là căn phòng nhỏ ấy đầy ắp thơ. Viên Linh là thơ, một cõi lục bát rất riêng, hay những bài thơ tự do đẫm sầu từ “Hoá Thân” đến “Thuỷ Mộ Quan” trải dài hơn 60 năm. Bài nào cũng là một kỹ càng từng dấu chữ.

Đã từ lâu, tôi đã thuộc:

“Cơn mơ chia biệt tháng ngày

Vẫn rơi tầm tã lòng này đêm đêm

Chuông không tiếng đã bao ngày

Nghe quen, em tưởng chiều đầy

âm thanh.”

hay những:

“Ở đây sầu đã tan tành

Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi …

chiều nay mưa dưới Âm Ty

Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.”

Và nữa:

“Ba sinh hương lửa có gần

Gửi em đầy đủ

Thân

Tâm

Ý

Lời.

Gửi em tiếng khóc câu cười

Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v…”

Ôi chao, đã ai đưa “v.v..” vào thơ như ông đâu nhỉ. Cuộc đời “vân vân” dài ngoẳng vẫn như đang đeo bám ông. Từ tuổi mới lớn, ông đã thoả chí giang hồ, từ năm 17 tuổi với “Bài Ca Của Những Người Giang Hồ”: 

“Ba năm không về thăm mẹ

Nằm đây chiều xuống sương phong

Bốn năm không về thăm chị

Sầu ngửa nghiêng dâng trong lòng.

Nghe giữa chiều sang pháo nổ

Mây còn nổi ở đầu sông

Còn có ai về gõ cửa

Mà vói tay vào trong không?

Ba năm không về thăm Mẹ

Còn theo mộng lớn muôn phương

Còn xem trời xanh gió nổi

Ðường đi mây bay chập chùng.

Về thì nhớ núi nhớ sông

Về thì làm sao tang bồng”

Viên Linh, “Bắc kỳ” di cư vào Sài Gòn 1954, của một thời thân thiết anh em nghèo khó với văn nghệ, với Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Nhã Ca ở khu Chi Lăng – những người bạn tài hoa, một thế hệ tài hoa của ông. Những ngày văn nghệ trong chiến tranh, phân tán …

Trong tập thơ đầu tay, “Hoá Thân” của Viên Linh, Nhã Ca đã viết: 

“…Phải rồi, Chi Lăng, miền ngoại ô ấy, con ngõ hẻm ấy, căn nhà trôi nổi ấy, là nơi mà chúng tôi đã sống, đã suy nghĩ, đã viết. Những bài lục bát của Viên Linh. Tập Dạ Khúc của Trần Dạ Từ. Và những bài Nhã Ca Thứ Nhất của tôi …Chúng tôi ba đứa với một lô bạn bè, và chúng tôi cứ sống. Căn nhà hai phòng. Một tấm màn gió. Một ít giấy vụn. Một ít sách vở luộm thuộm. Cuốn Thánh Kinh, cuốn Kiều rách bìa. Tường vôi loang lở. Vài tấm bột màu của Duy Thanh, những nét vẽ chằng chịt, bẩn thỉu của Hoán, của Viên Linh. Chúng tôi sống ngông cuồng, điên khùng và ngây thơ ở đó.

Những ngày mưa, nếu không có bạn bè, chúng tôi ba đứa ngồi khoanh tay ba nơi, hoặc ngâm thơ, hoặc viết. Chúng tôi cũng có một bếp lửa suốt mùa mưa, gặp những lẻ củi tươi như thanh kiếm quý đốt hoài không đỏ. Rồi những đêm thức suốt sáng, hoặc ngủ chập chờn. Cũng có những hôm chúng tôi tản mác mỗi đứa mỗi nơi. Từ lên mấy tòa báo. anh Linh vào trong một nghĩa địa gần đó nằm vùi trong nhà mồ nghe mưa, và mình tôi ở nhà. Chúng tôi như thế và chúng tôi cứ sống …”

(trích Nhã Ca, lời bạt tập thơ Hoá Thân của Viên Linh)

Đẹp quá, một thời, đau thương nghèo khó nhưng giàu có với văn chương chữ nghĩa. Họ là những con người mà sau này là những gương mặt lớn của nghệ thuật miền Nam, đã khởi đi từ những ngày như thế. 

Rồi chiến tranh, rồi tản mác, chia lìa. 

Rồi Viên Linh với một “Thuỷ Mộ Quan”, về hành trình vượt biển. Những cái chết dưới lòng biển bao la, hàng vạn cái chết, những nấm mộ hoang dưới biển. Phạm Duy đã phổ Thuỷ Mộ Quan … 

“Trên Huyết Hải thuyền trôi về một chiếc

Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương…”

Thơ Viên Linh ở hải ngoại nhuốm buồn hơn, cô đơn hơn. Ắt thế.

“Không biết bao giờ. Biết có chăng.

Biết đâu ngày tháng. Biết đâu năm.

Hoàng hôn nào biết. Đêm nào biết.

Thời khắc lưu cầm. Phút hỗn man”

(Thủy Mộ Quan)

văn chương / 

hạnh phúc /

cuộc đời 

có lẽ ông nếm đủ. Ngày cưới vợ, ông viết:

“…Hôm nay ngày của hai người,

Có khung cửa sổ khép đời chung quanh,

Có ơn cha mẹ sinh thành,

Ơn anh em đến chúc mình bền lâu.

Tim hồng, ý biếc ơn nhau,

Ngón tay ơn nhẫn, đêm thâu ơn đèn.

Em tin trời có ban sơ,

Em nghi đến nắng, em ngờ cả mưa,

Em tin tôi, sự tình cờ

Như ai tơ nhện đợi chờ mối ai….

Rượu nồng chúc mọi người say,

Thời gian đã chậm, tháng ngày đang nhanh.”

Những câu thơ óng mật của một Viên Linh đó, cuối cùng vẫn là thơ, trên tất cả mọi thứ khác. Có lẽ chỉ có thơ mới hoá giải được ông trong vây hãm cuộc đời. Những vần thơ buồn của kiếp lưu vong chưa một lần nhìn lại được quê nhà.

“Quê người cơm áo đau vô tận

Sống tưởng chừng như chỉ bấy nhiêu.”

(Thủy Mộ Quan)

cuộc đời

v.v.

nên cuộc đời vẫn trên lưng ông với nhiều khổ luỵ. 

Chiều nay, chiều lưu vong. Viên Linh vẫn da diết nhớ về. Ông kể cho chúng tôi về thời của cậu bé Viên Linh với căn nhà ở cách Hà Nội đúng 40 cây số, vì ngay trước nhà ông là cột cây số ấy: “40km đến Hà Nội”. Gần ga Đồng Văn, thị xã Duy Tiên, Hà Nam. Dễ chừng 48km về Hà Nội. Ông kể những kỷ niệm ở Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Ông kể về một lần cứu một người phi công Pháp, rớt máy bay gần nhà ông mà ông đã giúp đi ra đường lộ. Viên Linh miên man kể. Nhiều quá tôi cũng không nhớ hết. 

Cứ thầm nghĩ phải chi ông đang là Benjamin Button của F. Scott Fitzgerald lúc này, sống và lớn lên ngược với thời gian, như cách ông già Viên Linh đang kể nghe những chuyện từ thuở thiếu thời, rồi di cư vào Nam, rồi làm báo Ngôn Luận (từ năm 17 tuổi), Chính Luận, Văn Nghệ, Khởi Hành, rồi đi sâu vào văn học nghệ thuật, ngồi vào những chiếu văn chương. 

Lúc này đây, thời gian như đang dắt ông theo về.

Nhưng tiếc là thời gian không còn nhiều. Đúng như ông đã viết: “Thời gian đã chậm, tháng ngày đang nhanh”.

Ông không lão hoá ngược như Benjamin Button. Chiều nay là một Viên Linh buồn, thèm hơi quán cũ. Ông vói dặn: lần tới đến sớm hơn, mình ra quán cà phê ngồi lâu, nói chuyện văn chương (hạnh phúc, cuộc đời)

v.v…

Trước khi chia tay, tôi hỏi ông Nguyễn Nam:

– tại sao là Viên Linh?

Ông cười, mắt vẫn còn đầy chữ nghĩa: ngày xưa, từ ngoài Bắc, định lấy là Viễn Linh đấy – những linh hồn viễn vong, viễn xứ. Nên chỉ lấy chệch ra thành Viên Linh khi bước vào văn nghệ. 

Viên là Viễn. Như ông đã vĩnh viễn lưu vong. Trong cõi thơ văn lộng lẫy của mình. Rồi không trở về nữa. 

(viết không thứ tự, ngày lạnh 22.2.2024)

Đinh Trường Chinh 

——————

Tiểu sử vắn tắt nhà thơ, nhà văn, nhà báo Viên Linh:

Viên Linh tên thật là Nguyễn Nam, sinh tại ga Đồng Văn, Hà Nam, có truyện ngắn đăng trên trang xã hội nhật báo Tiếng Dân, Hà Nội, năm 14 tuổi.

Cũng tại Hà Nội, ông đã cùng nhà văn Dương Nghiễm Mậu xuất bản một tờ bán nguyệt san in hai màu, khổ nhỏ, vào năm 1953.

Viên Linh di cư vào Nam đêm 25 Tháng Mười Hai, 1954. 

Từ năm 1954-1975 làm Thư ký và Tổng thư ký Tòa soạn cho nhiều tờ báo như Tuần báo Điện Ảnh, Kịch Ảnh, Nhật báo Dân Ta (chủ nhiệm Nguyễn Vỹ), Nhật báo Đất Tổ, Nhật báo Tiền Tuyến của Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Tuần báo Khởi Hành của Hội Vàn Nghệ Sĩ Quân Đội…cho đến khi tự xuất bản nguyệt san Thời Tập, từ 1973 tới Tháng 4.75.

Trong thời gian từ 1954 tới 1975, cho xuất bản gần 20 tác phẩm bao gồm thơ, tập truyện, tiểu thuyết, tiểu luậnn, kịch… trong đó cuốn Gió Thấp, bản đánh máy, được trao Giải Nhất Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc 1974 (danh xưng của giải thưởng lúc đó).

Chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, 1991-1995.Chủ nhiệm, chủ bút Khởi Hành tại California từ 11.1996 cho tới khi đóng cửa vào năm 2018 (22 năm). Hiện sống tại Virginia, Hoa Kỳ.