Lam Nguyên: Đọc Thơ Tuyệt Cú

Chúng tôi còn nhớ rõ đêm Trăng rằm năm Nhâm Sửu được hầu chuyện với các bậc Túc Nho yêu Thơ Đường tại Lâm Gia Trang Diêu Trì ở Bình Định.  Cụ Ấm Đào đang thưởng thức bánh Trung Thu với trà Tàu được chủ nhân hậu đãi đêm hôm đó. Cụ Ấm nhìn trăng một cách say sưa rồi buột miệng ngâm bài thơ Ngũ Ngôn 五 言 là bài Tĩnh Dạ Tư 靜 夜 思 của thi hào Lý Bach 李 白:

Sàng tiền khan nguyệt quang,

牀  前  看  月  光,

Nghi thị địa thượng sương.

疑  是  地  上  霜.

Cử đầu vọng minh nguyệt,

擧  頭  望  明 月,

Đê đầu tư cố hương.

低  頭  思  故  鄉.

Lý Bạch

李   白

Quý Cụ cho rằng nhờ bài thơ thể Ngũ Ngôn này mà sau này các vị Túc Nho đã chú ý đến thể này! Ta thử xem bài Tĩnh Dạ Tư chỉ vỏn vẹn có 20 chữ, nhưng Lý Bạch đã vẽ lên một bức tranh Thủy Mặc (Thủ Mạc) có hồn và đẹp tuyệt vời: 3 câu thì 1 câu đầu tả ánh trăng và 2 câu tả lòng xúc động của Thi nhân. Câu cuối Lý Bạch 李  白 tự cho Trăng là người bạn Tri âm của mình nên hạ bút: Đê đầu tư cố hương 低  頭  思 故  鄉!

    Cũng có một số rất đông người thích viết và thích đọc thơ “tuyệt cú 絕 句”, vì thơ tuyệt cú có những nét độc đáo. Theo một số nhà nghiên cứu văn học, nghệ thuật bảo rằng: “Thơ Tuyệt– cú là linh hồn của Thơ Đường…”. Theo ông Dương Thuận đời nhà Minh bên Tàu cho rằng Tuyệt cú mỗi câu là một tuyệt tác (Tuyệt cú giả, nhất cú nhất tuyệt dã …= 絕 句 者, 一 句 一 絕 也 …). Nay chúng tôi xin giới thiệu một trong những bài tuyệt cú mà nhiều bậc tiền bối của chúng ta đã ưa thích là bài “Nam Hành Biệt Đệ 南 行 別 弟” của Vi Thừa Khánh 韋 承 慶 nhưng có một số sách Trung Hoa cho rằng bài này có tên là “Ký Nhân 寄 人” mà tác giả là Thôi Đạo Dung 崔 道 融 như sau:

Ký Nhân

Đạm đạm Trường giang thủy

Du du viễn khách tình

Lạc hoa tương dữ hận

Đáo địa nhất vô thanh.

Thôi Đạo Dung  

寄  人

淡 淡  長 江 水

悠 悠 遠 客 情

落 花 相 與 恨

到 地 一 無 聲.

催 道 融

 Cụ Bùi Khánh Đản dịch bài Nam Hành Biệt Đệ 南 行 別 弟 của Vi Thừa Khánh 韋 承 慶 như sau:

Nam Hành Biệt Đệ

Trường giang trôi lặng lẽ

Tình viễn khách ngùi ngùi

 Hoa cũng chung lòng hận

 Âm thầm cánh nhẹ rơi.

Bùi Khánh Đản

Và Cụ dịch bài 2:

Lững lờ dòng nước Trường Giang

Ngậm ngùi tình khách mênh mang một trời

Hoa kia cũng hận theo người

Đầy trên mặt đất cánh rơi âm thầm.

Bùi Khánh Đản

Dịch thơ 3:

Đầu giường ánh trăng rọi,

Ngỡ mặt đất phủ sương.

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương.

Tương Như

Còn nhà thơ Tuấn Việt đã phỏng dịch bài Ký Nhân 寄 人 của Thôi Đạo Dung 催 道 融 :

Gởi Người

Mênh mông dòng Trường giang

Viễn khách lòng mang mang

Hận tình theo hoa rụng

Chạm đất không tiếng vang.

Tuấn Việt

Và bài dịch 2 của Tuấn Việt:

Nhìn sông nước bao la

Mang mang tình viễn khách

Hận lòng rụng theo hoa

Không tiếng vang chạm đất.

Tuấn Việt

Người xưa thường bảo thơ “Tuyệt Cú” phải lấy “thần vị” làm chủ –  vị là màu, là mùi hương. Còn ông Dương Ngư Vương lại gọi là “thần vận”–  vận là tiếng đồng thanh với nhau. Thơ tuyệt cú bị hạn hẹp trong 4 câu nên thi nhân phải khéo léo mới tìm ra được câu ngắn mà chứa đựng ý thâm sâu. Phê bình gia Tẩy Đắc Lâm gọi là “cú đoản ý thâm” (câu ngắn mà ý sâu). Thơ “thất tuyệt” đã khó mà làm thơ “ngũ tuyệt” lại khó hơn  –  xin đừng lầm với “ngũ ngôn 五 言” vì ngũ ngôn có thể dài hơn 4 câu. 

Trong bài “Ký Nhân 寄 人” thi sĩ Thôi Đạo Dung 崔 道 螎đã lấy 2 chữ “giang thủy 江 水” làm cảm hứng. Sở dĩ họ Thôi 催 dùng “đạm đạm 淡 淡” là để tả thể nước đầy mà không chảy xiết nên nhà phê bình Tẩy Đắc Lâm 洗 得 霖 khi đọc xong bài Ký Nhân đã viết: “Trường giang chi thủy, nhất vọng vô tế” (Nước Trường – giang nhìn không thấy bến bờ đâu cả). Thi sĩ họ Thôi đã dùng 3 chữ “viễn khách tình 逺 客 情 để tả tâm trạng lữ khách nhìn nước mà chợt nhớ đến thân phận lưu lạc của mình. Thường đối cảnh hay sanh tình nên thi nhân đã hạ bút “trường giang thủy 長 江 水” trước, rồi mới tiếp 3 chữ “viễn khách tình 遠 客 情” sau. Tác giả dùng điệp tự “du du 悠 悠” để tả lòng mình như nước mênh mang vậy! Cho nên câu đầu của thơ “tuyệt cú” gọi là “khởi”, câu thứ 2 là “thừa” mà “ý 意” phải hỗ trợ cho nhau; không thể đơn điệu được vì phải nói lên được “nội dung” một cách minh bạch. Còn câu thứ 3 phải chuyển tả cảnh huống tâm tình như trong bài “Ký Nhân” này: “Lạc hoa tương dữ hận = 落 花 相 與 恨” (Hoa rơi, hận cũng rơi theo!). 

Trong thi văn Trung Hoa thường dùng chương pháp “Phiên tiến nhất tằng” – nghĩa là tiệm– tiến như lật từng trang giấy, phương pháp “Thiền liên nhi hạ 蟬 聯 而 下 ” như ve kêu trầm bổng, tiếng này liên tiếp tiếng kia. Bài “Tuyệt cú” trên thi sĩ Thôi Đạo Dung đã dùng chương pháp “Thiền liên nhi hạ” vì ta thấy từ chũ “thủy 水” dẫn xuống chữ “tình 情” rồi tình đưa đến chữ “hận 恨” và cuối cùng thi sĩ họ Thôi đã kết bài thơ bằng 2 chữ “vô thanh 無 聲” nên khi đọc xong bài thơ ta có cảm giác man mác buồn! Tác giả dùng “lạc hoa 落 花” để đưa đến “hận 恨” qua trung gian 2 chữ “tương dữ 相 與” để chỉ tình cảnh của hoa lạc này cũng là tình cảnh của thi nhân; hận vì không có người thân bên cạnh, hận vì lưu lạc trên đất khách quê người như tâm trạng của chiếc hoa rơi xuống đất không một tiếng động hay nói đúng hơn không một tiếng than! Từ câu đầu dắt lần xuống câu thứ tư – tức câu kết – “Đáo địa nhất vô thanh 到 地 一 無 聲”, thật là lặng lẽ buồn thảm vô cùng! Một bài thơ hay như vậy nên được tiền nhân khen là “thần bút 神 筆” cũng không lấy gì làm ngoa!

Lam Nguyên  藍 源

Seattle, nhớ những buổi hầu trà Tiên phụ!

—————-

Ghi chú:

Trong quyển dịch Đường Thi của Cụ Trần Trọng Kim thì bài thơ này mang tựa đề “Nam Hành Biệt Đệ” và tác giả là Vi Thừa Khánh. Còn trong quyển “Thi Từ Bình Thưởng” của Tẩy Đắc Lâm (Trung Hoa Thư Cục Ấn Hành) thì mang tựa đề là “Ký Nhân” và tác giả là Thôi Đạo Dung. Ngoài ra 2 chữ “đạm đạm 澹 澹” trong quyển Đường Thi của Cụ Trần khác với chữ “đạm đạm 淡 淡” của họ Thôi. Vậy kính mong quý thức giả bổ túc nghi vấn văn học này để chúng tôi được thọ giáo, cảm ơn!

Lam Nguyên