Nguyễn Gia Kiểng : Nhìn rõ vấn đề lớn nhất của đất nước

Cuộc nội chiến và những chính sách sai lầm của Đảng Cộng Sản trong hơn 80 năm qua đã gây ra bao nhiêu bi kịch đau thương và sự chia rẽ nặng nề trong dân tộc Việt Nam. Từ trái qua phải: Cải Cách Ruộng đất ở miền Bắc sau năm 1954 (nguồn: Hình ảnh Lịch sử), Chôn cất 300 nạn nhân vô danh trong vụ thảm sát Mậu Thân 1968 (nguồn: Wiki Commons), Một trại cải tạo sau tháng 4.1975 (nguồn: Hình ảnh Lịch sử), Thuyền nhân Việt Nam sau tháng 4/1975 (nguồn: Wiki Commons)

Dịp kỷ niệm 50 năm ngày 30/04/1975 vừa qua đã kích động nhiều cuộc thảo luận về hòa giải và hòa hợp dân tộc. Đáng mừng, vì hòa giải và hòa hợp dân tộc phải là cố gắng lớn và cần thiết nhất của chúng ta hiện nay và trong nhiều thế hệ sắp tới nhưng vẫn chưa được nhìn rõ. Những cuộc thảo luận này đã cho thấy vài điều cần được làm sáng tỏ hơn.

Hòa giải dân tộc là gì?

Nhận xét đầu tiên là nhiều người hình như vẫn chưa phân biệt hòa giải và thỏa hiệp dù đó là hai khái niệm rất khác nhau. Một gia đình sau một cuộc xung đột có thể hòa giải mà không cần một thỏa hiệp nào cả, ngược lại trong một cuộc chiến hai bên có thể thỏa hiệp ngừng bắn trong 24 giờ để thu dọn chiến trường rồi sau đó đánh nhau tiếp, nghĩa là không hề có hòa giải. Sự lẫn lộn này đã khiến nhiều người nói rằng không thể hòa giải với cộng sản vì Đảng Cộng Sản không chấp nhận một nhượng bộ nào cả, họ muốn tất cả một cách tuyệt đối và họ cũng không giữ lời hứa. Những người này thực ra muốn nói là khó có thể thỏa hiệp với cộng sản.

Một lẫn lộn khác -do Đảng Cộng Sản cố tình tạo ra- là giữa hai khái niệm hòa giải và hòa hợp khiến nhiều người, kể cả một số trí thức chống cộng, nghĩ rằng hai cụm từ hòa giải và hòa hợp dân tộc’ hòa hợp hòa giải dân tộc’ có cùng một nghĩa. Thực ra cụm từ ‘hòa hợp hòa giải dân tộc’ mà Đảng Cộng Sản thỉnh thoảng nhắc tới hoàn toàn vô nghĩa. Nó chỉ là một sự đánh tráo khái niệm để phủ nhận tầm quan trọng của cố gắng hòa giải dân tộc. Hòa giải phải đi trước hòa hợp bởi vì hòa hợp sau một xung đột chỉ có được sau khi đã hòa giải xong.

Những lẫn lộn này đến từ một khó khăn về ngôn ngữ và văn hóa chính trị của chúng ta. Khái niệm hòa giải không hề có trong ngôn ngữ chính trị Việt Nam cho đến gần đây. Trong suốt dòng lịch sử nước ta, ít nhất từ đời nhà Trần, sau mỗi cuộc xung đột quyền lực chu di tam tộc và nhổ cỏ tận gốc luôn luôn là phương pháp được phe thắng cuộc dùng thay cho hòa giải, để đánh gục hẳn đối phương và khỏi phải hòa giải; trong xã hội lớp người quyền thế giầu sang sống cách biệt hẳn với quần chúng nghèo khổ uất hận nhưng bất lực nên vấn đề hòa giải dân tộc cũng chưa hề được đặt ra. Danh từ hòa giải chỉ xuất hiện gần đây, nhất là từ Hội Nghị Paris (1968 – 1973), để dịch khái niệm reconciliation trong tiếng Pháp và tiếng Anh. Conciliation có nghĩa là gắn kết những khác biệt để đi chung và hành động chung, Reconciliation như vậy có nghĩa là gắn kết lại sau sau một xung đột, hay đổ vỡ, để lại đi chung và hành động chung. Cũng tương tự hòa hợp được dùng để dịch khái niệm concord (hay concorde trong tiếng Pháp). Concord có nghĩa là chung sức chung lòng, sống chung và hành động chung trong sự hòa thuận hoàn toàn; như vậy trong một tình trạng thù hận hay sau một xung đột hòa hợp (concord) chỉ có thể có nếu đã có hòa giải (reconciliation).

Tóm lại, hòa giải thể hiện một tình cảm và một ước vọng lâu dài để có thể hòa hợp, nghĩa là sống chung và hành động chung trong sự tương kính tương ái. Hòa hợp là thành quả của hòa giải; còn thỏa hiệp chỉ phản ánh một tương quan lực lượng nhất thời khiến người ta đồng ý trên một số điểm cụ thể sau những tính toán về lợi và hại.

Sự chia rẽ nghiêm trọng của dân tộc ta thể hiện rõ ràng trong một lẫn lộn khác, giữa ‘hòa giải dân tộc’ ‘hòa giải với Đảng Cộng Sản’. Nó khiến nhiều người, rất may ngày càng ít đi, phản bác lập trường hòa giải dân tộc vì quá căm thù đảng và chế độ cộng sản. Nhưng dân tộc Việt Nam đâu phải chỉ là Đảng Cộng Sản Việt Nam? Hoàn toàn không. Hòa giải dân tộc trong lúc này là hòa giải giữa mọi người Việt Nam, sau một cuộc nội chiến đẫm máu tiếp nối bởi một chính sách phân biệt đối xử tàn nhẫn, để cùng chung sức chung lòng xây dựng và chia sẻ một tương lai Việt Nam chung. Dân tộc gồm tất cả mọi người Việt Nam, dĩ nhiên kể cả các đảng viên cộng sản, trong khi Đảng Cộng Sản là một tổ chức lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm lý tưởng. Chúng ta không thể chấp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin vì nó vừa sai vừa độc ác lại vừa bất chấp dân tộc nhưng chúng ta vẫn có thể hòa giải với các đảng viên cộng sản nếu họ chỉ theo đảng cộng sản vì ngộ nhận -hay chỉ giản dị là để tránh bị chèn ép- chứ trong thâm tâm vẫn là những người lương thiện. Ai cũng có thể sai và ai cũng có thể tỉnh ngộ, như những trường hợp Trần Độ, Phạm Quế Dương, Nguyễn Hộ, La Văn Liếm, Nguyễn Văn Trấn, Lữ Phương, Trần Xuân Bách v.v. đã bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và ủng hộ lập trường dân chủ đa nguyên. Hòa giải với Đảng Cộng Sản là vấn đề rất khó nhưng hòa giải với các đảng viên cộng sản để quên đi quá khứ đau buồn và nhìn lại nhau là anh em để cùng xây dựng một tương lai chung trong một nước Việt Nam dân chủ là điều hoàn toàn có thể được, nhất là ngày nay hầu hết các đảng viên cộng sản đã từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin trong lòng.

Hòa giải dân tộc cần thiết như thế nào?

Để trả lời câu hỏi này trước hết hãy cùng nhau bình tĩnh nhìn lại bài học của cuộc nội chiến 1945 – 1975 và thắng lợi của Đảng Cộng Sản.

Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức được thành lập tháng 02/1930 tại Hồng Kông như là một thành viên của Quốc Tế Cộng Sản (hay Quốc Tế 3) gần hai năm sau khi Đại Hội 6 của Quốc Tế Cộng Sản tại Moskva năm 1928 đã khẳng định các đảng cộng sản chỉ có một tổ quốc duy nhất là Liên Bang Xô Viết. Đảng này nổi dậy lần đầu tiên tại Việt Nam năm 1931 dưới danh xưng ‘Xô Viết Nghệ Tĩnh’ và khẩu hiệu ‘Vạn Tuế Xô Nga!’ không có gì là Việt Nam cùng với một chủ trương ghê rợn hoàn toàn không có tình cảm dân tộc là ‘trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ!’. Cuộc nổi dậy này đã bị đàn áp đẫm máu sau khi đã phạm những tội ác đẫm máu, đã giết rất nhiều người chỉ vì họ có học hay giầu có hay là địa chủ hoặc chỉ vì có chút tiếng tăm. Năm 1945 nó có khoảng hai nghìn đảng viên trong đó tuyệt đại đa số chưa học xong tiểu học.

Một đảng như vậy -gồm toàn những người vô học đã phủ nhận tổ quốc Việt Nam và đã tàn sát rất nhiều người vô tội- bình thường không thể có một hy vọng nào, thậm chí không thể có. Tuy vậy nó đã thành công và cướp được chính quyền. Không những thế sau đó nó còn phát động được cuộc nội chiến kéo dài 30 năm và giành được thắng lợi dù ngay sau khi cướp được chính quyền nó đã thẳng tay tàn sát những người yêu nước trong các đảng quốc gia như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt, rồi đã phạm những tội ác lớn trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1955, vụ Nhân Văn Giai Phẩm ngay sau đó, rồi cuộc tàn sát tại Huế năm 1968. Tại sao? Đó là vì nó đã khai thác được sự căm thù -căm thù giai cấp- của quần chúng nghèo khổ đã tích lũy và dồn nén trong suốt dòng lịch sử, từ cả ngàn năm. Sự căm thù lại càng bùng nổ sau nạn đói đầu năm 1945 khiến gần hai triệu người chết đói. Như đã nói ở phần trên, trong lịch sử nước ta không hề có hòa giải cũng không hề có liên đới xã hội. Nếu trước đó đã có những cố gắng hòa giải đất nước với quần chúng cùng khổ thì lịch sử nước ta đã khác hẳn. Chúng ta vẫn chưa rút ra được bài học quan trọng nhất của cuộc Cách Mạng Tháng 8-1945. Đó là chúng ta rất cần hòa giải dân tộc bởi vì không thể có lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong một đất nước chất chứa hận thù. Trong một đất nước như vậy những thảm kịch vô lý nhất cũng có thể xảy đến và Cách Mạng Tháng 8-1945 đã là bằng chứng.

Lịch sử của các dân tộc đều đã chứng tỏ rằng không có gì tàn phá một quốc gia bằng nội chiến, dù là một cuộc nội chiến ngắn và sau đó đã có một cố gắng hòa giải thành khẩn và tận tình. Lý do là vì ngoài những thiệt hại về vật chất và sinh mạng của mọi cuộc chiến tranh nội chiến còn tàn phá tình cảm dân tộc. Cố gắng hòa giải có thể phải kéo dài trong nhiều thế kỷ. Pháp và Mỹ là hai trong nhiều thí dụ. Hai nước này đã có một cuộc nội chiến ngắn -cách đây hơn hai thế kỷ tại Pháp và gần hai thế kỷ tại Mỹ- nhưng dù họ đã tận tình hòa giải chia rẽ vẫn còn đó, và đó cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến Donald Trump đắc cử tổng thống Mỹ hai lần.

Hãy nhìn lại nước ta. Từ năm thế kỷ qua, kể từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, chúng ta gần như đã chỉ có nội chiến -phù Lê diệt Mạc, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, Tây Sơn Nguyễn Ánh, sau cùng là nội chiến Quốc Cộng- và không hề có cố gắng hòa giải sau đó. Các khoảng thời gian hòa bình xen kẽ ngắn ngủi cũng chỉ là những cuộc nội chiến một chiều trong đó kẻ thắng mặc tình chà đạp kẻ thua. Tình cảm dân tộc của chúng ta chẳng còn bao nhiêu, chúng ta là một trong vài dân tộc cần hòa giải nhất.

Nhu cầu hòa giải của chúng ta không chỉ giới hạn trong cố gắng hàn gắn những đổ vỡ của cuộc nội chiến 30 năm 1945 – 1975 và giai đoạn đàn áp và hạ nhục vẫn còn đang tiếp tục sau 50 năm. Chúng ta còn phải hòa giải người Kinh với các sắc tộc thiểu số đã có mặt trên đất nước này từ hàng ngàn năm nhưng đã bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chúng ta cần hòa giải người Phật Giáo với người Công Giáo, hai tôn giáo này về bản chất gần như chỉ là hai phiên bản Đông và Tây của cùng một tôn giáo nhưng đã bị chia rẽ bởi các mưu đồ tranh giành quyền lực. Chúng ta cần hòa giải người dân hai miền Nam và Bắc đã trải qua hai cuộc nội chiến dài và đẫm máu. Chúng ta cần hòa giải đất nước với cộng đồng người Việt hải ngoại đã phải bỏ người thân, tài sản, mồ mả tổ tiên ra đi vì không thể chấp nhận được một chính quyền tham bạo, đã phải chịu đựng những khổ đau và mất mát rất lớn do hải tặc, sóng gió và công an. Chúng ta cũng cần hòa giải người Việt Nam với đất nước Việt Nam. Phải nhìn nhận rằng làm người Việt Nam cho đến nay đã là một điều không may; mộng ước của rất nhiều người Việt Nam hiện nay chỉ giản dị là được rời Việt Nam để làm công dân một nước khác.

Chúng ta cũng cần ý thức rằng trong một thế giới thay đổi dồn dập như hiện nay, quốc gia nào cũng phải chịu những xáo trộn không ngừng khiến các xung đột quyền lợi và căng thẳng luôn luôn xảy ra. Hòa giải đã trở thành một mệnh lệnh và một bắt buộc thường trực, một triết lý điều hành quốc gia. Hòa giải để có thể hòa hợp trong cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương lai chung, điều kiện tối cần để một đất nước có thể phồn vinh và trường tồn. Một nước chất chứa hận thù và bất mãn cũng không khác một ban hợp ca nhốn nháo trong đó mỗi người hát một bài ca của mình.

Và nếu hòa giải và hòa hợp dân tộc cần thiết như vậy thì những người yêu nước bắt buộc phải đẩy mạnh, càng phải đẩy mạnh hơn nếu Đảng Cộng Sản chống lại.

Nhưng tại sao Đảng Cộng Sản không chấp nhận hòa giải dân tộc?

Đây là một câu hỏi lớn đòi hỏi một câu trả lời chân thật. Quả thực là Đảng Cộng Sản không muốn nói tới hòa giải dân tộc. Trong bài viết ngày 27/04 với tựa đề “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” (tựa đề này là một khẩu hiệu chiến tranh của ông Hồ Chí Minh trước đây khẳng định quyết tâm đáng gục Việt Nam Cộng Hòa và thống nhất đất nước dưới chế độ cộng sản bằng mọi giá) ông Tô Lâm chỉ nói tới hòa hợp dân tộc. Trong diễn văn ngày 30/04 ông chỉ nhắc tới hòa giải dân tộc một lần một cách ngược ngạo qua cụm từ “hòa hợp, hòa giải dân tộc”. Nhưng làm sao có thể có hòa hợp sau xung đột và thù hận trước khi đã có hòa giải? Làm sao có thể tới đích trước khi ra đi? Hơn nữa ông vẫn coi cuộc nội chiến vừa qua là cuộc “chiến tranh chống Mỹ cứu nước” hàm ý rằng những người trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đây chỉ những tay sai của đế quốc Mỹ. Và ông vẫn nhấn mạnh Việt Nam phải đặt dưới quyền “lãnh đạo tuyệt đối” của Đảng Cộng sản. Như thế hòa hợp đối với Tô Lâm chỉ là phục tùng Đảng Cộng Sản. Vài ngày sau ông Phạm Minh Chính nói thêm rằng chính sách giúp đỡ nhà ở cho người nghèo phải “dành ưu tiên cho các gia đình cách mạng và hoặc có công với cách mạng”. Rõ ràng là vẫn phân biệt đối xử. Rõ ràng là không có hòa giải dân tộc.

Nhưng tại sao Đảng Cộng Sản không muốn hòa giải dân tộc dù đó là điều kiện bắt buộc để đất nước có thể động viên mọi sinh lực và vươn lên? Đó là vì hòa giải là một tình yêu trong khi tín ngưỡng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo của Đảng Cộng Sản, là căm thù. Đó cũng là vì hòa giải đòi hỏi đặt quyền lợi đất nước lên trên hết và nhìn nhận chỗ đứng ngang nhau và các cơ hội đồng đều cho mọi công dân trong khi Đảng Cộng Sản tự đặt mình lên trên đất nước và dân tộc. Đối với họ một nước Việt Nam chia rẽ và tụt hậu nhưng do Đảng Cộng Sản độc quyền thống trị vẫn còn hơn một đất nước Việt Nam đoàn kết và phồn vinh nhưng Đảng Cộng Sản có thể mất chính quyền. Điều này có thể thấy rõ. Hiện nay trong bộ máy nhà nước và trong các công ty quốc doanh tất cả các chức vụ từ cấp phó phòng trở lên đều chỉ dành cho đảng viên cộng sản, trong công an và quân đội các cấp bậc từ hạ sỹ quan trở lên cũng đều phải là đảng viên. Đảng Cộng Sản hành xử như một lực lượng chiếm đóng. Họ chỉ muốn khuất phục và thống trị chứ không muốn hòa giải với dân tộc Việt Nam.

Một lý do khác, trực tiếp hơn nhiều, là họ cảm thấy không thể hòa giải với nhân dân Việt Nam. Điều kiện cốt lõi của hòa giải là phải sòng phẳng với quá khứ, phải chấp nhận để mọi sự thực được phơi bày trong khi Đảng Cộng Sản đã chất chứa quá nhiều dối trá và tội ác. Kinh nghiệm Liên Xô và các nước Đông Âu đã cho thấy ngay khi các sự thực được phơi bày các đảng cộng sản đều đã bốc hơi sau chỉ vài ngày dù những dối trá và tội ác của họ không thấm vào đâu so với Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Tương lai đất nước sẽ ra sao?

Chúng ta không thể chờ đợi một thiện chí nào nơi Đảng Cộng Sản. Nó sẽ chỉ nhượng bộ khi bị bắt buộc phải chọn lựa giữa cáo chung trong hòa giải dân tộc hay trong hỗn loạn mà chính nó là nạn nhân. Tuy vậy chúng ta không có lý do để bi quan vì ngày đó không còn xa. Chế độ cộng sản đã đạt được tất cả những gì mà nó có thể đạt được sau khi chấp nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là hy sinh một nửa chủ nghĩa Mác – Lênin, từ bỏ kinh tế độc quyền nhà nước nhưng vẫn giữ chế độ độc tài đảng trị. Nó đã tích lũy đủ mâu thuẫn và đã đến lúc phải bỏ nốt nửa còn lại chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là bỏ chế độ độc tài đảng trị, dù muốn hay không. Những phát ngôn và hành động của Tô Lâm từ một năm qua đã chứng tỏ Đảng Cộng Sản đang cố loay hoay tìm cách cải tổ mà vẫn giữ nguyên chế độ toàn trị nhưng đó chỉ là những loay hoay tuyệt vọng khiến chế độ tan nát nhanh chóng hơn.

Các đảng cộng sản không khác một tôn giáo lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kinh thánh, khi kinh thánh bị vất bỏ thì tôn giáo lập tức phải bốc hơi. Thực tế là hiện nay không còn một đảng viên cộng sản Việt Nam nào tin ở chủ nghĩa này nữa, ngay cả ông Tô Lâm. Người cộng sản ngoan cố cuối cùng, Nguyễn Phú Trọng, đã ra đi rồi. Vũ khí duy nhất mà các cấp lãnh đạo cộng sản còn có thể sử dụng để cố kéo dài thêm chế độ là khẩu hiệu “còn đảng còn mình”, nghĩa là đe dọa khối đảng viên rằng nếu để chế độ cáo chung thì họ sẽ mất hết quyền lợi và còn có thể lâm nguy sau tất cả những gì mà Đảng đã làm. Cuộc chuyển hóa về dân chủ sẽ nhanh chóng hơn và tốt đẹp hơn nếu chúng ta tước đi vũ khí này.

Muốn như thế chúng ta cần khẳng định không một ai phải lo âu trước những bước tiến của cuộc Cách Mạng Dân Chủ bởi vì cuộc cách mạng này không hề nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai, trái lại nó là một cuộc cách mạng để giải phóng và tôn vinh mọi người. Sẽ tuyệt đối không có trả thù báo oán bởi vì chúng ta đã hiểu rằng thảm kịch của dân tộc đến từ hận thù và chia rẽ, và trả thù chỉ tăng thêm hận thù. Chúng ta tin rằng đất nước sẽ chỉ có tương lai nếu thành công trong một cố gắng hòa giải dân tộc toàn diện, thành khẩn và tận tình. Hòa giải và hòa hợp dân tộc sẽ phải là cố gắng lớn nhất và quan trọng nhất của đất nước ta trong nhiều thế hệ.

Nguyễn Gia Kiểng
             (08/06/2025)

Quê hương, tranh Đinh Trường Chinh