Nguyễn Văn Tuấn: Những ngày tháng không quên sau 1975
Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là ‘Thời Bao Cấp’. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v.
Tem phiếu




Tem phiếu thời sau 1975. Ví dụ: Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành), nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tuỳ theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là ‘chế độ tem phiếu’. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.
Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành), nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tuỳ theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.
Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dâ bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.
Danh từ ‘ăn độn’ có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70% để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quí hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quí, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.
Đổi tiền
Ngày 22/9/1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”
Đốt sách

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu huỷ. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.
Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh ‘lạc hậu’ về ‘tình yêu ủy mị’ và ‘tìm kiếm niềm vui thể xác’ đã bị đốt bỏ.
Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80,000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt ‘văn hóa tư sản’.
Đánh tư sản
Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.
Đợt X1 khởi động sáng 9/9/1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.
Đợt X2 bắt đầu từ tháng 3/1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền VNCH hỗ trợ.
Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TP.HCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.
Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.
Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”
“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. “
Kinh tế mới
Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ ‘Kinh tế mới’, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19/5/1976):
• Người thất nghiệp
• Người cư ngụ bất hợp pháp
• Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân VNCH
• Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
• Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.
Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc VNCH tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Cư dân thành thị bị di dời đi vùng Kinh Tế Mới. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.
Theo tài liệu trong nước: “Chỉ trong vòng vài năm, chúng ta đã đưa được 1,300,000 người từ các nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới và đã khai hoang, phục hóa được ngót một triệu hecta đất. Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn vạch kế hoạch đưa trên trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng vùng kinh tế mới. Hơn một năm sau, đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức cho gần 30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập thành 94 xã, trong đó 82 xã ổn định về đất canh tác và thổ cư.” (Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 282.) Một thống kê khác cho thấy từ năm 1976 đến năm 2000 (25 năm), có 5 triệu người bị cưỡng bách di dân đi vùng kinh tế mới. (Lâm Văn Bé, bđd. tr. 134.)
Tù cải tạo
Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ VNCH tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.
Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại.
Theo một bài báo: “Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.
‘Thuyền nhân’
Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.
Chế độ mới áp dụng ‘chủ nghĩa lí lịch’, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong qui chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lí lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của ‘gia đình cách mạng’ và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của ‘những sĩ quan cao cấp, hay là sĩ quan công giáo’.
Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: vượt biển.
Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưnh theo Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800,000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100,000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là ‘cao trào’ của làn sóng vượt biển.
Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50%) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10% người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, ‘vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa’. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100,000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.
***
Sau năm 1975, miền Nam Việt Nam trải qua những biến đổi sâu sắc và đau thương dưới các chánh sách mới. Chế độ tem phiếu đẩy người dân vào cảnh thiếu đói, đặc biệt tại các đô thị, nơi gạo trở thành hàng hiếm ngay cả ở vùng lúa gạo như miền Tây. Chiến dịch đốt sách phá hủy di sản văn hóa miền Nam, với hàng ngàn (?) tấn sách bị nghiền nát, xóa bỏ dấu ấn của một nền văn hóa tự do. Các đợt “Đánh tư sản” (X1, X2, X3) triệt tiêu nền kinh tế tư nhân, tịch thu tài sản, buộc hàng ngàn người rời bỏ thành phố đến vùng Kinh tế Mới trong điều kiện khắc nghiệt.
Chánh sách di dời dân, tù cải tạo, và chủ nghĩa lí lịch gây ra sự phân biệt đối xử nặng nề, đẩy hơn một triệu người vào các trại giam, trong đó hàng chục ngàn người thiệt mạng. Hậu quả là làn sóng vượt biên ồ ạt, với khoảng 1 triệu thuyền nhân, nhưng ít nhứt 100.000 người đã bỏ mạng trên biển.
Những tổn thất về vật chất này để lại một vết thương tinh thần và xã hội, khiến hàng triệu người mất đi cơ hội xây dựng tương lai trên chính quê hương mình.
Cũng may vì từ giữa thập niên 1980, Việt Nam bắt đầu quá trình Đổi Mới (thật ra là quay về cách làm đúng, chứ chẳng ‘mới’), đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong việc chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Chánh sách này đã mở ra cơ hội phục hồi kinh tế và cải thiện đời sống người dân.
Các hạn chế từ chế độ tem phiếu dần được gỡ bỏ, người dân được tự do kinh doanh, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp nhẹ khởi sắc trở lại. Nông dân được giao quyền sử dụng đất, sản lượng lương thực tăng, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu đói trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Nhìn vào quá trình phát triển sau ‘Đổi Mới’ ai cũng nghĩ rằng Việt Nam đã bỏ lỡ một cơ hội phát triển hơn ngày nay. Đáng lí ra Việt Nam ta đã khá hơn nhiều.
Việc tập trung vào tăng trưởng kinh tế ngắn hạn thay vì đầu tư dài hạn vào giáo dục, công nghệ, và cơ sở hạ tầng chất lượng cao khiến Việt Nam chưa thể sánh ngang với các ‘“con rồng’ châu Á như Nam Hàn hay Singapore. Ngoài ra, sự lệ thuộc vào Tàu và xuất khẩu thô và gia công, đã hạn chế khả năng cạnh tranh toàn cầu. Dù vậy, với dân số trẻ và hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam vẫn còn cơ hội vươn lên nếu tập trung vào đổi mới sáng tạo, giáo dục, và quản trị hiệu quả trong tương lai.
Nói thêm:
– Chưa nói ở nông thôn thì nông dân cũng khốn khó với chánh sách hợp tác xã. Với chủ trương “ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do nhà nước quản lí”, tất cả ruộng đất tư nhân đều bị quốc hữu hóa và nông dân, điền chủ đều phải vào hợp tác xã nông nghiệp. Gia đình tôi cũng mất cả 200 công đất và 3 chiếc máy cày cho hợp tác xã.
– Dạo đó (1978), Nhà nước lên một kế hoạch đưa người Hoa vượt biên theo cách thức có tên là “Phương Án II”. Theo đó, Nhà nước thu vàng và tiền của dân để đóng tàu cho họ vượt biên, với lời hứa là công an sẽ không ngăn cản hay bắn khi họ còn trong vùng biển Việt Nam. Sự ra đời của Phương Án II (PA2) này được ghi lại trên giấy trắng mực đen của Ban 69:
“Cay cú trước thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cách mạng giải phóng Miền Nam, thống nhất tổ quốc của nhân dân ta, bọn bành trướng Bắc Kinh sử dụng bọn Pôn-pốt đánh phá ta từ phía Tây Nam, đồng thời âm mưu dùng đội quân thứ năm để gây bạo loạn lật đổ từ bên trong phối hợp với hành động chiến tranh từ bên ngoài, gây ra vụ ‘nạn kiều’ tạo nguyên cớ cho cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Bắc. Phối hợp với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế, chúng mở chiến dịch tuyên truyền nói xấu ta; vừa kích động người Hoa chạy về Trung Quốc với cái chúng gọi là ‘nạn kiều’. Để phá tan một nguy cơ có thể gây ra tình hình phức tạp về chính trị, Trung ương chủ trương giải quyết đối với người Hoa với ba phương án: cho họ ra nước ngoài theo con đường Liên Hợp Quốc HCR (gọi tắt là PA1); cho họ ra nước ngoài làm ăn (gọi tắt là PA2); cho họ đi các địa phương sản xuất theo khả năng của họ (gọi tắt là PA3). Nhưng họ chọn con đường đi làm ăn ở nước ngoài, Trung ương giao cho Bộ Nội vụ trực tiếp tổ chức thực hiện PA2 này”.
Chỉ non 1 năm (từ 8/1978 đến 6/1979) có 15 tỉnh thành tổ chức vượt biên theo PA2. Số người ra đi là khoảng 134000 người, và Nhà nước thu được 16181 kg vàng cùng 164505 USD, 538 xe hơi, 4154 căn nhà hay gian nhà. (Tuy nhiên, địa phương báo cáo chỉ có 60,000 người đi, và Nhà nước đã thu về 5612 kg vàng cùng 57000 USD, 235 xe hơi, 1749 nhà và gian nhà). Báo cáo láo đã có từ thời đó.
Một trong những sự kiện bi thảm nhứt trong những chuyến tàu vượt biên bán chánh thức này là vụ Cát Lái. Giữa tháng 7/1979, dưới sự canh gác của công an, một nhóm người chờ lên tàu vượt biên. Chiếc tàu vượt biên mới đóng có 3 tầng, dài 30 m và rộng chỉ 10 m. Những người mua vé tầng dưới thì do diện tích quá nhỏ, nên cảm thấy ngột ngạt, và họ phải trèo lên tầng trên. Số người ở tầng trên quá nhiều làm cho con thuyền bị mất cân bằng, chao đảo, dẫn đến hỗn loạn trên thuyền, và sau cùng là chìm. Đa số những người đi trên tàu là người Hoa làm nghề buôn bán, nên họ không biết bơi lội. Thật ra, dù biết bơi lội thì họ vẫn khó sống sót, nhứt là khi ở trong 2 tầng dưới của tàu.
Phải đến 3 ngày sau, nhà chức trách mới kéo con tàu lên. Nhà chức trách đếm được 227 người chết, chỉ có chừng 40 người sống sót. Một viên sĩ quan cứu hộ kể về những trường hợp mẹ con cùng chết:
“Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử”.
Nhưng Cát Lái không hẳn là sự kiện duy nhứt, vì trong thực tế có vài sự kiện Cát Lái khác ở các tỉnh Bến Tre (1 tàu chìm, 54 người chết); Long An (1 tàu chìm, 38 người chết); Nghĩa Bình (1 tàu chìm, 78 người chết); và bi thảm nhứt là Tiền Giang (3 tàu chìm, 504 người chết). Tính chung, Phương Án II đã trực tiếp hay gián tiếp gây cho 902 cái chết.
Câu chuyện trên được Huy Đức viết trong Bên Thắng Cuộc.
Nguyễn Văn Tuấn