Nguyên Việt: Thân Phận Người Quốc Gia trong Thế Kỷ Hòa Giải

Từ trái qua phải: Quân đội VNCH trong trận An Lộc, 1972; Quân Việt Nam Cộng hòa chiến đấu ở Sài Gòn trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, năm 1968; Nghĩa trang quân đội Biên Hòa và bức tượng Thương Tiếc, nơi an nghỉ của 16 ngàn tử sĩ quân đội VNCH, giờ đã bị đổi tên và xuống cấp bao năm nay. Ảnh: Sài Gòn Nhỏ; Chương trình Tri Ân Thương Phế Binh VNCH của Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế 38 Kỳ Đồng bị nhà nước VN ép phải dừng lại tháng 4/2024, sau 12 năm hoạt động. Ảnh: Tin Mừng Cho Người Nghèo.

Giữa thế kỷ 21 – thời đại của hội nhập, ngoại giao và đối tác chiến lược – những quốc gia từng là cựu thù trong chiến tranh đang ngày càng xích lại gần nhau. Hình ảnh Tổng thống Mỹ đứng tại Hà Nội bắt tay lãnh đạo Việt Nam không còn là điều gây chấn động. Các bản hiệp định thương mại, các chuyến thăm ngoại giao cấp cao, các cuộc tập trận chung… tất cả tạo ra ấn tượng về một thế giới hậu chiến đang học cách sống chung.

Nhưng ở giữa những cái bắt tay đó, có một thành phần bị bỏ quên: những người Việt Nam từng đứng trong hàng ngũ quốc gia chống cộng, những người lính của miền Nam, những thuyền nhân, những trí thức đã rời bỏ quê hương vì lý tưởng tự do.

Họ không thuộc về Hà Nội – vì đã từng bị giam, bị cải tạo, bị phủ nhận.

Họ cũng không còn được Hoa Kỳ xem là đồng minh – vì vai trò lịch sử của họ đã hết hiệu dụng.

Và vì thế, họ mắc kẹt – giữa quá khứ chưa được giải minh và hiện tại không dành chỗ.

Hòa giải không đồng nghĩa với lãng quên. Khi Hoa Kỳ và Việt Nam bình thường hóa quan hệ năm 1995, và đặc biệt khi ký kết quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” vào năm 2023, cả hai bên đều chọn cách nói về tương lai: về thương mại, công nghệ, an ninh khu vực. Quá khứ – với những trại cải tạo, những cái chết trên biển, những năm tháng tù đày – bị gói lại trong cụm từ “khép lại quá khứ”.

Nhưng quá khứ không thể bị khép lại nếu những vết thương chưa từng được chạm đến bằng sự thật và trách nhiệm.

Những người Việt lưu vong, những người lính VNCH, không chống hòa giải. Họ chỉ đòi hỏi một hòa giải có đạo lý – tức là: Thừa nhận sự hiện hữu hợp pháp và chính danh của VNCH trong lịch sử. Không xóa bỏ ký ức tập thể của hàng triệu người đã chọn ra đi thay vì sống dưới một thể chế toàn trị. Không biến chiến bại của miền Nam thành “bài học quên lãng” để phục vụ các lợi ích chiến lược.

Họ mắc kẹt giữa hai thế lực viết lại lịch sử, một bên là nhà nước cộng sản, độc quyền diễn ngôn “giải phóng, thống nhất”. Một bên là Hoa Kỳ, đã rút quân, bỏ lại đồng minh, và giờ nhấn mạnh “khép lại quá khứ”.

Giữa hai trục xoay đó, những người từng cầm súng bảo vệ miền Nam tự do giờ đây trở thành nhân chứng không ai mời, người kể chuyện không ai nghe, và biểu tượng không ai muốn trưng bày.

Không phải họ không có tiếng nói – mà là tiếng nói ấy không còn được phép định nghĩa hiện tại. Không phải họ sống trong hận thù – mà là họ sống trong một ký ức chưa được thừa nhận. Không phải họ cản trở hòa bình – mà là hòa bình đang bỏ quên họ.

Nhiều người trong số họ nay đã già yếu. Người mất trí nhớ, người mang bệnh, người chỉ còn sống trong những cộng đồng nhỏ bé ở hải ngoại. Họ tổ chức tưởng niệm 30/4 như một “Ngày Quốc Hận”, nhưng ngày càng bị coi là bảo thủ, lạc hậu, “không phù hợp với xu thế hội nhập”.

Thế hệ con cháu họ – lớn lên trong xã hội phương Tây – không ít người bắt đầu rời xa lịch sử. Với họ, Việt Nam là quê hương để về du lịch, để đầu tư, để khám phá, chứ không còn là mảnh đất của máu, nước mắt và lý tưởng.

Và thế là, người cha từng vượt biển ôm con vào lòng nay không thể truyền lại ký ức, không thể kể lại nỗi đau, không thể giải thích vì sao ông đã từ chối sống trong một đất nước “hòa bình” để đánh đổi cả mạng sống.

Sự thật không ai muốn đối diện. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà hòa giải thường đồng nghĩa với thỏa hiệp chính trị, không phải với sự minh định đạo lý. Những ai nói lên sự thật lịch sử – nếu không thuận theo diễn ngôn thống trị – sẽ bị gọi là “kẻ không thức thời”, “người níu kéo quá khứ”.

Nhưng nếu sự thật không được nói ra, thì những ký ức chưa thành lời sẽ mục ruỗng trong lòng tập thể, sẽ rỉ máu trong im lặng. Và như thế, chúng ta không có hòa giải – mà chỉ có sự trấn áp lịch sử.

Bấy giờ, trong cuốn sử chưa hoàn tất của người Việt thế kỷ 20, trang cuối chưa ai viết. Bởi vì hòa giải chỉ thật sự diễn ra khi tất cả các tiếng nói được lắng nghe, tất cả các bên được thừa nhận. Vì người lính thua trận cũng có ký ức, người tị nạn cũng có một đất nước trong tim, và người giữ lửa – dù nhỏ nhoi – cũng có quyền được sống như một phần của lịch sử.

Nếu không, chúng ta sẽ chỉ có một hòa bình thiếu đạo lý – và một lịch sử thiếu công bằng.
Và như vậy, hòa giải sẽ không bao giờ là thật.

Yuma, tháng 5 năm 2025

Nguyên Việt