Phạm Đình Bá: Đời sống bấp bênh của công nhân

Hình minh họa: AI generated.

Đảng-nhà nước ở Việt Nam phát triển kinh tế trong hơn 40 năm qua bằng cách bán sức lao động của dân. Năm 2025, có khoảng 5,4 triệu công nhân bên nhà đi làm ở các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các ngành sản xuất, như lắp ráp điện tử, dệt may, da giày và chế biến thực phẩm.

Đảng-nhà nước tự hào rằng cách làm tiền dựa trên FDI và xuất khẩu mang lại vài chuyện khá, như đưa Việt Nam thành một trong những khu chợ bán lao động năng nổ nhất khu vực Đông Nam Á. Đến nay, Việt Nam có hơn 40.000 dự án FDI đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký khoảng 487 tỷ đô Mỹ, trở thành một trong 15 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI.

Khu vực FDI không chỉ góp phần vào tăng trưởng GDP, mà còn thúc đẩy chuyển giao công nghệ và giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đóng góp nầy thường được viện dẫn cho tính chính danh của thể chế đảng-nhà nước.

Nhưng công nhân làm việc cho các doanh nghiệp FDI có đời sống ra sao?

Chuyện chị Lan – Chị Lan, 32 tuổi, làm việc tại một công ty may mặc ở tỉnh Đồng Nai, nhưng quê chị ở Thanh Hóa, hơn 30 giờ xe liên tỉnh. Chị làm việc sáu ngày một tuần, ít nhất chín giờ một ngày, khâu gót và đế giày với mức lương khoảng 1 đô Mỹ một giờ. Mỗi ngày, chị làm việc trên 1.200 đôi giày cho nhiều thương hiệu toàn cầu. Khi chị mang thai một năm trước, chị được giao làm việc trong một nhà kho, đóng hộp giày.

Chị nhớ mình đã nghĩ rằng con trai mình sẽ thích một đôi giày, nhưng chị sẽ không bao giờ đủ khả năng mua dù chỉ một đôi. “Những đôi giày này sẽ vừa vặn với con trai tôi, chúng rất đẹp“, chị nói. “Tôi muốn con trai tôi có những đôi giày như thế này, nhưng tôi không thểBạn biết đấy, một đôi giày mà chúng tôi làm ra có giá trị hơn cả tháng lương của chúng tôi.” (1)

Chuyện chị Minh – Chị Minh, 39 tuổi, sống và làm việc tại một tỉnh nông thôn ở miền Bắc. Nhà máy may mà chị làm việc sản xuất váy và áo khoác cho các thương hiệu thời trang nước ngoài. Trong sáu ngày một tuần và ít nhất chín giờ một ngày, chị may tay áo cho khoảng 500 chiếc áo khoác mỗi ngày, kiếm được khoảng 1 đô la Mỹ một giờ.

Chị đã kết hôn, nhưng chồng chị không thể làm việc do bị bệnh mãn tính. Chị là người có thu nhập duy nhất cho gia đình, bao gồm cả mẹ chồng lớn tuổi và con trai. Chị không còn lựa chọn nào khác ngoài việc làm thêm giờ mỗi ngày để kiếm sống, với rất ít tiền còn lại sau khi chi trả cho những thứ thiết yếu như thức ăn, thuốc men cho chồng và học phí cho con trai. (2)

Câu chuyện của chị Lan và chị Minh là những ví dụ tiêu biểu về đời sống bấp bênh của hàng triệu công nhân. Họ có thể là những người thân hay bạn bè của tôi và bạn.

Đời sống của họ là những chuỗi ngày chịu đựng về sự bóc lột có hệ thống và nỗi khổ, vượt xa vấn đề thu nhập không đủ sống đơn thuần. Ai lo cho đời sống khó khăn của họ?

Nhiều tổ chức lao động đã sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu đa dạng (từ phỏng vấn sâu, quan sát tình huống chi tiết với sự tham gia của công nhân và nhiều bên liên hệ) đã cung cấp bằng chứng vững chắc rằng việc trả lương không đủ sống là một sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người và phẩm giá của công nhân.

Mức lương thấp tại Việt Nam tạo ra những hiệu ứng dây chuyền làm suy yếu sức khỏe, mất ổn định gia đình, tổn thương các mối quan hệ xã hội cũng như xoáy mòn nguồn an ninh kinh tế lâu dài của công nhân. Những người lao động nhận lương ở mức nghèo phải đối mặt với những lựa chọn gian nan giữa các nhu cầu cơ bản, bị buộc phải làm việc trong điều kiện nguy hiểm, và mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của sự bấp bênh về kinh tế dù họ làm việc toàn thời gian trong các ngành công nghiệp được quản lý chính thức.

Mức lương thấp tạo ra các hiệu ứng lan tỏa vượt xa phạm vi cá nhân người đi làm, ảnh hưởng đến cả gia đình, cộng đồng và toàn bộ hệ thống xã hội. Người lao động phải vật lộn để sinh tồn, bị ép vào các điều kiện lao động bóc lột, sức khỏe và các mối quan hệ xã hội bị suy giảm, và phải đối mặt với những rào cản có hệ thống trong việc cải thiện đời sống bấp bênh của họ.

Mức lương thấp cũng đan xen với các hình thức bóc lột khác như phân biệt giới tính và bạo lực nơi làm việc, tạo ra những mạng lưới dễ bị tổn thương phức tạp ảnh hưởng đến nhiều thế hệ trong gia đình.

Oxfam đã ghi lại trải nghiệm thực tế của công nhân may mặc trên khắp các vùng sản xuất của Việt Nam. Kết quả cho thấy hầu hết công nhân được phỏng vấn đều nhận lương thấp hơn nhiều so với chuẩn mức sống, và phải vật lộn với các nhu cầu cơ bản hàng ngày như dinh dưỡng, nhà ở, chăm sóc sức khỏe và giáo dục cho con cái. (2, 3)

Công nhân mô tả việc phải ở lại nhà máy làm thêm giờ dù đã kiệt sức, chạy vội đi vệ sinh và bỏ qua giờ nghỉ để kịp chỉ tiêu sản xuất, cũng như bỏ lỡ thời gian bên gia đình vì yêu cầu công việc. Tình trạng làm nhiều mà lương thấp làm trầm trọng thêm bất bình đẳng giới, khi lao động nữ phải gánh thêm chi phí nhà trẻ đắt đỏ trong các ca tăng ca bắt buộc, và bị giảm quyền lợi bảo hiểm xã hội khi nghỉ thai sản. (2)

Báo cáo “Hướng tới trả lương công bằng ở Việt Nam” của Hiệp hội Lao động Công bằng (FLA) chỉ ra rằng mức lương trung bình của công nhân tại Việt Nam là khoảng 200 đô la Mỹ mỗi tháng, thấp hơn chuẩn mức sống toàn cầu của “Liên minh tiền lương đủ sống toàn cầu” (Global Living Wage Coalition) là 248 đô la Mỹ. Người lao động phải làm thêm giờ quá mức để bù đắp thu nhập, thường làm việc vượt xa tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn FLA chỉ để đạt mức sống tối thiểu. (4)

Báo cáo của FLA cũng chỉ ra rằng việc phụ thuộc vào làm thêm giờ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của người lao động và khả năng chu cấp cho gia đình. Người lao động kiếm được 15% tổng thu nhập từ làm thêm giờ để đưa tổng thu nhập lên trên chuẩn mức sống, nhưng thông qua lịch làm việc không bền vững. Người lao động mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn, nơi để có thu nhập đủ sống họ phải hy sinh sức khỏe, thời gian cho gia đình và hạnh phúc cá nhân. (4)

Dữ liệu thu thập trực tiếp từ công nhân các hãng FDI chỉ ra nguy cơ lao động cưỡng bức, với các chi tiết như giờ làm việc dài, buộc phải làm thêm giờ, từ chối nghỉ ốm và đe dọa trả thù của chủ hãng nhắm vào những người làm cố gắng lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của họ. Các cuộc phỏng vấn với 21 công nhân tại ba nhà máy lớn ở cả miền Bắc và miền Nam cho thấy thiếu sự bảo vệ về mặt thể chế đối với các quyền của công nhân tại nơi họ làm việc. (5)

Luật pháp Việt Nam không được thực thi đúng cách và do đó không giúp ích gì cho việc tiếp cận các quyền của người lao động tại nơi làm việc. Việc người làm dễ bị bóc lột trở nên tồi tệ hơn do văn hóa sợ hãi, cũng như sự đe dọa và kiểm soát mà ban quản lý áp đặt lên họ. Người lao động luôn sợ mất việc. Họ thường không có việc làm thay thế nếu họ quyết định lên tiếng đòi tăng lương. (5)

Trọng tâm của thể chế đảng-nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi để thu hút FDI và bảo vệ nguồn hàng rẻ cho xuất khẩu. Cách phát triển kinh tế theo kiểu nầy đặt gánh nặng lên công nhân, cụ thể bằng cách duy trì mức lương tối thiểu không đủ sống cho công nhân trên khắp vùng miền. Đời sống bấp bênh của công nhân có vẻ như bắt nguồn từ thể chế.

Mức lương tối thiểu do thể chế hiện nay đặt ra thấp hơn đáng kể so với mức lương tối thiểu chuẩn toàn cầu. Mức lương tối thiểu trung bình toàn quốc chỉ bằng khoảng 64% mức lương chuẩn của “Liên minh Lương đủ sống toàn cầu” và chỉ bằng 37% “Mức lương sàn châu Á”. Điều này có nghĩa là mức lương tối thiểu của Việt Nam chỉ bằng khoảng hai phần ba mức lương đủ sống toàn cầu và chỉ hơn một phần ba so với mức lương đủ sống chuẩn toàn châu Á. (2)

Nên nhớ rằng doanh nghiệp FDI có khả năng chi trả lương đủ sống cho công nhân. Điều nầy dễ dàng xảy ra nếu đảng-nhà nước thể hiện một chút quan ngại cho đời sống của giai cấp lao động.

Lấy ví dụ, chỉ bốn phần trăm giá của một món đồ quần áo sản xuất bởi công nhân Việt Nam được dùng để trả lương cho họ. Ngay cả khi các công ty lớn chuyển toàn bộ chi phí trả lương đủ sống cho công nhân sang người tiêu dùng, điều này chỉ làm tăng giá của một món đồ quần áo bằng 1%. Bạn chỉ cần trích ra 10 xu từ giá 10 đô la của một chiếc áo khoác để đảm bảo người lao động có mức lương đủ sống. (2)

Trên phương diện xã hội, thể chế hiện nay biến Việt Nam thành “… nước… không chịu phát triển!“, theo chuyện kể của nhà kinh tế Phạm Chi Lan. (6) Nhìn theo quan điểm phát triển toàn diện và bền vững, thể chế hiện nay là mối đe dọa lên đời sống bấp bênh của công nhân.

Từ ngày 7 đến 11/2/2022, 5.000 công nhân Công ty Viet Glory ở huyện Diễn Châu, Nghệ An đình công đòi tăng lương cơ bản, bổ sung phụ cấp thâm niên, đảm bảo các chế độ hỗ trợ và tôn trọng người lao động. (7) Phải đối mặt với cuộc đình công tự phát nầy, chủ nhân đã nói là họ không làm gì sai vì đã theo đúng pháp luật Việt Nam, trả lương cơ bản còn cao hơn mức luật ấn định. (8)

Sự vô cảm từ thể chế hiện tại có khi vượt xa mức bình thường. “Hầu hết tiền lương của tôi đều dành cho con cái tôi. Làm sao có thể đủ được?” theo lời kể của một công nhân. Hãy đặt mối lo thiếu thốn hàng ngày của công nhân nầy bên cạnh hành vi của một cán bộ ở Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước – cơ quan quản lý vốn của các doanh nghiệp quốc doanh, tương đương với khoảng 46% GDP của cả nước. (9)

Anh nầy cầu hôn với người yêu bằng hàng trăm chiếc drone và hàng chục người trong ekip vận hành cho những chuyến bay vẽ vời trên bầu trời Hà Nội vào tối 6/12/2023 – “Em làm vợ anh nhé …” cùng hình trái tim và chiếc nhẫn trên bầu trời. Anh chi hơn 1 tỉ đồng cho cái ngông của mình. Số tiền anh bỏ ra trong nữa giờ, chị Lan trong chuyện kể ở trên phải làm gần 25 năm mới trả đủ. (10)

Thể chế hiện nay dàn dựng công đoàn quốc doanh có vẻ chỉ để duy trì kiểm soát mọi nỗ lực tự tổ chức của công nhân. Công đoàn quốc doanh có vẻ không chú tâm đến việc bảo vệ quyền của người lao động.

Dưới áp lực từ nhiều hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam ký kết, luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ 1/1/2021, cho phép thành lập các tổ chức đại diện cho người lao động, cụ thể là “Tổ chức Người lao động Nội bộ”, độc lập với các công đoàn quốc doanh. Thay đổi trong luật lao động phản ánh các cuộc xung đột lao động lan rộng, đặc trưng bởi các cuộc đình công tự phát bất hợp pháp do các đại diện của người lao động không chính thức lãnh đạo khi công đoàn quốc doanh làm việc không hiệu quả. (11, 12) Tuy nhiên, đã hơn bốn năm trôi qua kể từ khi luật được ban hành, chưa có “Tổ chức Người lao động Nội bộ nào” được thành lập cho đến nay. (13)

Có vài nguồn bất ổn đang đe dọa đời sống bấp bênh của công nhân. Nguồn bất ổn thứ nhất là nguy cơ đột quỵ về sức khỏe tinh thần và thể xác, khi công nhân như chị Lan và chị Minh phải làm việc dài giờ với ít ngày nghỉ mỗi tuần và đời sống căng thẳng kéo dài qua tháng năm.

Công nhân trải nghiệm nguy cơ chi tiêu y tế thảm họa ở mức cao. Chi phí khám chữa bệnh có thể vượt quá 40% khả năng chi trả của hộ gia đình. Hiện nay, mỗi năm có khoảng 550.000 hộ gia đình rơi vào tình trạng thảm họa này, trong đó các hộ nghèo là nhóm chịu rủi ro lớn nhất. Nhiều gia đình buộc phải vay mượn hoặc bán tài sản để chi trả tiền chữa bệnh, dẫn đến vòng xoáy nợ nần và gia tăng mức nghèo. (14)

Nguồn bất ổn thứ hai là thuế quan từ Mỹ. Đối với hàng triệu công nhân ở Việt Nam, bài toán mưu sinh vốn đã đủ phức tạp trước khi Tổng thống Trump công bố mức thuế khổng lồ đối với các mặt hàng sản xuất.

Chị Hạnh đã làm hai công việc tại nhà máy, sáu ngày một tuần, suốt gần một năm sau khi chồng chị mất việc vào năm 2023. Chị không còn lựa chọn nào khác để giúp nuôi bốn đứa con và giữ cho các con được tiếp tục đến trường. (15)

Thật sự rất khắc nghiệt,” chị Hạnh, 40 tuổi, chia sẻ. Hiện chồng chị đã đi làm trở lại toàn thời gian ở một nhà máy, nhưng kế hoạch của ông Trump áp mức thuế 46% lên hàng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn đang là nỗi lo lơ lửng trên đầu gia đình chị, vốn sống trong một dãy nhà trọ bê tông ở ngoại ô Sài gòn. (15)

Nguồn bất ổn thứ ba đến từ tự động hóa. Trung Quốc đang định hình lại tương lai sản xuất công nghiệp thông qua mô hình nhà máy tối (“dark factory”) – các cơ sở tự động hóa hoàn toàn không cần công nhân hay hệ thống chiếu sáng truyền thống. Hãng Xiaomi ở Trung Quốc đã chứng minh hiệu quả của mô hình này tại nhà máy Changping (Bắc Kinh), nơi mỗi chiếc điện thoại được lắp ráp trong 3.15 giây nhờ hệ thống robot phối hợp đa tác vụ.

Lối sản xuất dựa vào lao động rẻ mà thể chế hiện nay đang gồng mình xây dựng sẽ bị lay chuyển với tự động hóa càng lúc càng tinh vi. Trong tương lai, lớp lao động trẻ kế tiếp sẽ phải đối mặt với lượng việc làm ít đi, cạnh tranh để xin việc càng thêm gay gắt và nhiều khó khăn trong thu nhập.

Điểm sáng duy nhất trong bức tranh đen tối hiện này là số phận của công nhân Việt Nam hầu như gắn liền với số phận công nhân toàn cầu. Công nhân Việt Nam sẽ không đơn độc. Họ sẽ phải chịu sự tác động của quá trình tự động hóa và những hệ quả xã hội của việc gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng thu nhập ở nhiều nơi, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ.

Bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” của Martin Luther King Jr., được trình bày vào năm 1963 là một dấu mốc quan trọng trong phong trào dân quyền ở Mỹ. Câu nói “Tôi có một giấc mơ” dần trở thành tiếng kêu gọi hội tụ của các phong trào đòi công bằng xã hội trên toàn thế giới.

Tôi cũng có một giấc mơ. Tôi mơ ngày chị Lan, chị Minh, chị Hạnh và những người lao động bên nhà có việc làm đàng hoàng với mức lương đủ sống. Tôi mơ về một ngày nhóm tinh hoa chính trị bên nhà từ bỏ chuyện “làm tiền, làm tiền, làm tiền” bằng mọi giá. Tôi mơ ngày họ bị buộc phải từ bỏ chuyện xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Tôi cũng mơ một ngày không ai trong xã hội được hưởng hàng hóa xa xỉ hoặc dư thừa cho đến khi những yếu tố thiết yếu của cuộc sống được cung cấp cho tất cả mọi người. Những yếu tố thiết yếu này bao gồm giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nhà ở và thực phẩm—những tài nguyên cơ bản đối với phẩm giá con người và cơ hội thăng tiến đồng đều cho mỗi người trong xã hội.

Phạm Đình Bá

——————

Nguồn:

1.       Vietnam’s garment workers dangling on a thread at bottom of income divide: Oxfam 22/01/2018, VnExpress.

2.       The Consequences of Low Wages: A Study on Fashion Suppliers in Vietnam: Hanoi: Oxfam Vietnam; 2019, Oxfam  

3.       “One pair of shoes that we make is valued more than our whole month’s salary” 2024, Oxfam

4.       Association FL. Toward Fair Compensation in Vietnam: Insights on reaching a living wage. FLA[Google Scholar]. 2019.

5.       Sitting on pins and needles: a rapid assessment of labor conditions in Vietnam’s garment sector 2018, Anti-Slavery International

6.       “Việt Nam là mô hình kỳ lạ nhất thế giới: Nước… không chịu phát triển!” 10/08/2015, Infonet

7.       5 ngày nghỉ việc của 5000 công nhân đầu năm mới: “Không tăng lương, chúng tôi không làm” 11-02-2022, CafeF 

8.       Đình công nối tiếp đình công… và vai trò mờ nhạt của Công đoàn 14/02/2022, Việt Nam Thời Báo

 9.      Tiếng Dân. Lê Văn Đoành. Con trai vị Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chơi ngông! 19-12-2023, Tiếng Dân   

10.     Những màn cầu hôn “chấn động” năm 2023, toàn cái tên đình đám ấn tượng 08/12/2023, aFamily

11.     Gần 30 cuộc đình công, ngừng việc tập thể do lương, thưởng Tết 16/2/2022, CVD   

12.     10.000 công nhân đình công ở Ninh Bình, Nghệ An đã đi làm trở lại Thanh Niên; 14/02/2022, Thanh Niên

13.     Cox A, Le Queux S. Towards an independent workers’ voice in Vietnam? Labour and Industry. 2023:1-15.

14.     Haakenstad A, Bintz C, Knight M, Bienhoff K, Chacon-Torrico H, Curioso WH, et al. Catastrophic health expenditure during the COVID-19 pandemic in five countries: a time-series analysis. The Lancet Global Health. 2023;11(10):e1629-e39.

15.     Vietnam’s Factory Workers Are Living in Fear of Trump’s Tariffs 24/05/2025, New York Times