Ru: Tiểu thuyết của Kim Thúy, Nguyễn Quang chuyển ngữ
Trong tiếng Pháp, ru có nghĩa là dòng suối nhỏ và, theo nghĩa bóng, là dòng, dòng chảy – dòng nước mắt, dòng máu, dòng tiền (Le Robert historique).
Trong tiếng Việt, ru có nghĩa là lời ru, ru ngủ.
Tặng người dân đất nước.
Tôi cất tiếng khóc chào đời nhằm biến cố Tết Mậu Thân, vào những ngày đầu năm con khỉ, khi những tràng pháo dài treo trước cửa nhà đua nổ râm ran hòa cùng tiếng súng liên thanh.
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ánh sáng ban ngày là ở Sài Gòn, nơi pháo nổ tan thành ngàn mảnh rải hồng mặt đất như những cánh hoa đào hay như máu của hai triệu người lính được triển khai đều khắp các làng mạc, thành thị của một nước Việt Nam vốn đã bị chia cắt làm đôi trước đó.
Tôi được sinh ra trong bóng đen của những mảnh trời rực rỡ với pháo hoa, và những vòng hoa ánh sáng, rồi bị bắn phá bởi rốc – két và tên lửa. Mục đích tôi sinh ra là để thay thế những sinh mạng đã mất. Nhiệm vụ của đời tôi là kéo dài cuộc sống của má tôi.
Tôi tên Nguyễn An Tịnh, má tôi tên Nguyễn An Tĩnh. Tên của tôi chỉ đơn giản là một biến thể của tên má bởi vì chỉ có một dấu nặng dưới chữ i để khu biệt, phân biệt, tách biệt tôi với má. Tôi là phần mở rộng của má, ngay cả trong ý nghĩa của tên tôi. Trong tiếng Việt, tên má có nghĩa là “nơi chốn yên bình” còn tên tôi là “cõi lòng yên bình”. Với hai cái tên gần như có thể hoán đổi cho nhau đó, má tôi minh định rằng tôi là phần tiếp nối của má và sẽ tiếp tục câu chuyện của bà.
Lịch sử Việt Nam, được ghi bằng chữ LS viết hoa, đã phá hỏng kế hoạch của má tôi. Lịch sử đã hất bỏ những dấu thanh trên tên của chúng tôi xuống nước khi nó đưa chúng tôi qua Vịnh Xiêm La ba mươi năm trước. Nó cũng tước đi ý nghĩa của tên chúng tôi, ngay lập tức biến chúng thành những âm thanh xa lạ, xa lạ đối với tiếng Pháp. Đặc biệt, khi tôi lên mười, vai trò của tôi như là phần kế tục của má đã kết thúc.
***
Vì cuộc sống lưu vong của chúng tôi, các con tôi chưa bao giờ là phần mở rộng của tôi, của câu chuyện đời tôi. Tên chúng là Pascal và Henri, và chúng trông không giống tôi. Chúng có mái tóc sáng màu hơn tôi, da trắng, lông mi dày. Tôi không được trải nghiệm cảm giác làm mẹ tự nhiên mà tôi mong đợi khi chúng áp vào ngực tôi lúc ba giờ sáng, lúc nửa đêm. Bản năng làm mẹ đến với tôi muộn hơn nhiều, sau khi đã trải qua những đêm mất ngủ, những chiếc tã bẩn, những nụ cười bất ngờ, những niềm vui bất chợt.
Chỉ lúc đó tôi mới hiểu được tình thương của người mẹ ngồi đối diện tôi trước mũi thuyền, tay giữ cái đầu đầy ghẻ chốc hôi hám của đứa con bé bỏng. Hình ảnh đó hiện ra trước mắt tôi nhiều ngày và có lẽ nhiều đêm. Cái bóng đèn nhỏ lủng lẳng trên sợi dây dẫn gắn vào một cái đinh hoen gỉ phát ra thứ ánh sáng lờ mờ, không thay đổi. Ở sâu dưới thuyền không thể phân biệt được ngày hay đêm. Thứ ánh sáng bất biến đó bảo bọc chúng tôi khỏi cái bao la của biển cả và bầu trời vây quanh. Những người ngồi trên boong nói với chúng tôi rằng không thấy được ranh giới giữa màu xanh của trời và màu xanh của biển. Không ai biết liệu chúng tôi đang hướng tới thiên đường hay đang lao xuống vực sâu đại dương. Thiên đàng và địa ngục quấn lấy nhau trong lòng con thuyền. Thiên đàng hứa hẹn một bước ngoặt trong cuộc đời chúng tôi, một tương lai mới, một trang sử mới. Thế nhưng, địa ngục phô bày những nỗi sợ hãi của chúng tôi: sợ cướp biển, sợ chết đói, sợ bị nhiễm độc bởi bánh quy ướt đẫm dầu máy, sợ hết nước, sợ không thể đứng dậy được, sợ phải đi tiểu trong cái xô màu đỏ, chuyền từ tay người này sang người khác, sợ cái ghẻ trên đầu đứa bé lây lan, sợ không bao giờ được đặt chân lên mặt đất được nữa, sợ không bao giờ được nhìn thấy mặt ba má đang ngồi trong bóng tối với hai trăm con người vây quanh.
***
Trước khi thuyền chúng tôi nhổ neo giữa đêm trên bờ biển Rạch Giá, hầu hết mọi người chỉ có một nỗi sợ: sợ Cộng sản, lý do khiến chúng tôi bỏ trốn. Nhưng ngay khi con thuyền bị bao quanh, vây bọc bởi đường chân trời xanh một màu duy nhất, nỗi sợ hãi đã biến thành con quái vật có trăm bộ mặt, cưa đứt chân chúng tôi và khiến chúng tôi không cảm thấy tê cứng trong những cơ bắp bất động của mình. Chúng tôi đông cứng trong sợ hãi, vì sợ hãi. Chúng tôi không còn nhắm mắt khi nước tiểu của cậu bé ghẻ lở phun vào mình. Chúng tôi không còn bịt mũi trước chất nôn của người bên cạnh. Chúng tôi bị tê dại, bị giam cầm bởi vai của người này, chân của người kia, và sợ hãi của tất cả mọi người. Chúng tôi bị làm cho tê liệt.
Câu chuyện về bé gái bị biển nuốt chửng sau khi trượt chân lúc nó đang đi dọc theo mạn thuyền lan truyền qua lòng con thuyền đầy mùi hôi thối như một thứ thuốc mê hoặc khí cười, biến cái bóng đèn đơn độc thành ngôi sao bắc cực, và bánh quy ướt dầu máy thành bánh quy bơ. Vị dầu trong cổ họng, trên lưỡi, trong đầu đưa chúng tôi chìm vào giấc ngủ theo nhịp hát ru con của người phụ nữ bên cạnh tôi.
Ba tôi đã lên kế hoạch, nếu chẳng may gia đình chúng tôi bị Cộng sản hoặc cướp biển bắt giữ, sẽ đưa chúng tôi vào giấc ngủ vĩnh hằng, giống như Người đẹp ngủ trong rừng, bằng những viên thuốc xyanua. Một thời gian dài sau đó, tôi vẫn thắc mắc tại sao ba không nghĩ đến việc cho chúng tôi lựa chọn, tại sao ba lại tính tước đi của chúng tôi cơ hội sống sót.
Tôi không còn tự hỏi mình câu hỏi đó nữa khi tôi trở thành người mẹ, khi bác sĩ Vinh, một bác sĩ phẫu thuật được đánh giá cao ở Sài Gòn, kể cho tôi nghe bằng cách nào ông đã lần lượt đưa năm đứa con của mình, từ cậu bé mười hai tuổi đến cô bé năm tuổi, một mình, lên năm con thuyền khác nhau, vào năm thời điểm khác nhau, mang chúng ra khơi, tránh xa những cáo buộc của nhà cầm quyền Cộng sản treo trên đầu ông. Ông đoan chắc rằng mình sẽ chết trong tù vì bị buộc tội giết một số đồng chí Cộng sản bằng cách làm phẫu thuật cho họ, ngay cả khi họ chưa bao giờ đặt chân vào bệnh viện của ông. Ông hy vọng sẽ cứu được một, có thể là hai đứa con của mình bằng việc thả chúng xuống biển theo cách này. Tôi gặp bác sỹ Vinh trên bậc thềm nhà thờ, mùa đông ông hốt tuyết, mùa hè ông quét dọn để cảm ơn vị linh mục đã làm cha nuôi các con ông, đã nuôi nấng cả năm đứa tuần tự khôn lớn, cho đến khi ông ra tù.
***
Tôi đã không gào to và không khóc khi được thông báo rằng con trai Henri của tôi là một tù nhân trong thế giới của chính nó, khi người ta xác nhận rằng nó là một trong những đứa trẻ không nghe được, không nói được với chúng tôi, mặc dù chúng không điếc cũng không câm. Nó cũng là một trong những đứa trẻ mà chúng ta phải yêu thương từ xa, không được chạm vào, không được hôn, không được cười với chúng bởi vì mọi giác quan của chúng sẽ bị công kích bởi mùi da thịt, bởi cường độ giọng nói của chúng ta, bởi độ mượt của mái tóc, nhịp đập của trái tim chúng ta. Có lẽ con sẽ không bao giờ gọi tôi là má một cách âu yếm, ngay cả khi nó có thể phát âm từ “poire” (quả lê) với tất cả sự tròn trịa và gợi cảm của âm “oi” (oa). Nó sẽ không bao giờ hiểu tại sao tôi lại khóc khi thấy nó cười lần đầu tiên. Nó sẽ không biết rằng, nhờ có nó mà mọi tia sáng niềm vui đã trở thành phước lành và tôi sẽ tiếp tục tiến hành cuộc chiến chống lại căn bệnh tự kỷ, ngay cả khi tôi thừa hiểu rằng tôi sẽ bất khả chiến thắng.
Tôi đã bị đánh bại, bị lột trần, bị hạ gục.Khi tôi nhìn thấy những bông tuyết đầu tiên của mình qua ô cửa sổ của máy bay ở Sân bay Mirabel, tôi cũng cảm thấy mình trần trụi, nếu không muốn nói là khỏa thân hoàn toàn. Bất chấp chiếc áo chui đầu ngắn tay màu cam mua ở trại tị nạn Mã Lai trước khi chúng tôi sang Canada, và cả chiếc áo len rộng thùng thình màu nâu do phụ nữ Việt Nam đan, tôi vẫn có cảm giác trần như nhộng. Một số người trong chúng tôi trên máy bay lao tới cửa sổ, há hốc miệng, vẻ mặt sửng sốt. Sau một thời gian dài ở những nơi không có ánh sáng, một khung cảnh trắng xóa, trinh nguyên như vậy chỉ có thể làm chúng tôi lóa mắt, quáng mắt, khiến chúng tôi say sưa.
Tôi ngạc nhiên bởi tất cả những âm thanh xa lạ chào đón chúng tôi cũng như kích thước của tác phẩm điêu khắc băng trong khi để mắt đến một chiếc bàn ngập các món ăn: bánh mỳ nướng, món khai vị, những món ngon, món nào cũng sặc sỡ hơn món trước. Tôi không nhận ra món ăn nào, nhưng tôi biết rằng đây là một nơi thú vị, một vùng đất bình dị. Tôi giống như con trai Henri của tôi: không nói được, không nghe được, mặc dù tôi không điếc cũng không câm. Lúc này, tôi không có điểm tham chiếu, không có công cụ cho phép tôi mơ ước, phóng chiếu bản thân vào tương lai, để có thể trải nghiệm hiện tại, trong hiện tại.
***
Người thầy đầu tiên của tôi ở Canada đã đi cùng chúng tôi, bảy người trẻ nhất trong nhóm người Việt Nam, qua cây cầu dẫn đến hiện tại. Cô giáo đã theo dõi sự hội nhập của chúng tôi với tất cả sự nhạy cảm của một người mẹ dành cho đứa con sinh non của mình. Chúng tôi bị thôi miên bởi động tác lắc chậm rãi và vững vàng của cái hông cân đối, cái mông tròn trịa và hào phóng của cô. Giống như một con vịt mẹ, cô đi trước chúng tôi, bảo chúng tôi theo cô đến thiên đường nơi chúng tôi sẽ lại là những đứa trẻ, chỉ đơn giản là những đứa trẻ, xung quanh là màu vẽ, tranh vẽ và các thứ linh tinh. Tôi sẽ mãi mãi biết ơn cô vì đã cho tôi khao khát đầu tiên với tư cách là một người nhập cư: có thể lắc mông như cách cô đã làm. Không một người Việt Nam nào trong nhóm chúng tôi sở hữu sự phong phú, phóng khoáng, tự tin ở những đường cong như cô. Tất cả chúng tôi đều góc cạnh, xương xẩu, cứng cỏi. Và vì vậy, khi cô ấy cúi xuống, đặt tay lên tay tôi, nói, “Tên tôi là Marie – France, bạn tên gì?” Tôi lặp đi lặp lại từng âm tiết của cô mà không chớp mắt, không cần hiểu, bởi vì tôi được ru ngủ bởi vẻ mát mẻ, sự nhẹ nhàng, và mùi nước hoa ngọt ngào quyện vào nhau. Tôi không hiểu một từ nào cô nói, chỉ hiểu giọng nói êm dịu của cô, nhưng thế là đủ. Quá đủ.
***
Khi về đến nhà, tôi lặp lại chuỗi âm thanh tương tự với ba má: “Tôi tên là Marie – France, bạn tên gì?” Ba má hỏi tôi đã đổi tên rồi à. Chỉ trong nháy mắt, thực tế hiện tại của tôi đã bắt kịp tôi, khi sự câm điếc trong khoảnh khắc ấy đã xóa đi những giấc mơ của tôi và do đó, xóa luôn cả sức mạnh để nhìn về phía trước, để nhìn xa về tương lai.
Ba má tôi, mặc dù đã nói được tiếng Pháp, nhưng cũng không thể nhìn xa về tương lai, vì họ đã bị loại khỏi khóa Nhập môn tiếng Pháp, nghĩa là bị gạch tên khỏi danh sách những người sẽ nhận được khoản trợ cấp bốn mươi đô la một tuần. Họ quá thừa tiêu chuẩn cho khóa học nhưng lại không đủ tiêu chuẩn cho mọi thứ khác. Không thể nhìn về tương lai của chính mình, ba má nhìn về tương lai của chúng tôi, cho chúng tôi, con cái của họ.
***
Vì chúng tôi, ba má không nhìn thấy những tấm bảng đen họ lau sạch, nhà vệ sinh trường học họ cọ rửa, những cái chả giò họ giao. Họ chỉ nhìn thấy những gì ở phía trước. Và vì vậy, để tiến bộ, các anh tôi và tôi đã đi tới nơi mà đôi mắt ba má hướng chúng tôi tới. Tôi đã gặp những bậc cha mẹ mà ánh mắt của họ đã bị dập tắt, một số dưới sức nặng của thân xác của tên cướp biển, những người khác đã trải qua quá nhiều năm trong các trại cải tạo của Cộng sản – không phải trại chiến trong thời chiến, mà là trại thời bình sau chiến tranh.
***
Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng chiến tranh và hòa bình là hai mặt đối lập. Tuy nhiên, tôi đã sống trong hòa bình khi Việt Nam chìm trong máu lửa và tôi không trải qua chiến tranh cho đến khi Việt Nam hạ vũ khí. Tôi tin rằng chiến tranh và hòa bình thực ra là những người bạn vốn hay chế nhạo chúng ta. Chúng đối xử với chúng ta như kẻ thù khi điều đó làm chúng hài lòng, bất kể cái định nghĩa hay vai trò mà chúng ta gán cho chúng. Do đó, có lẽ chúng ta không nên quá coi trọng bề ngoài của người này hay người kia để quyết định quan điểm của mình. Tôi đủ may mắn có được những bậc cha mẹ có thể giữ quan điểm kiên định, bất chấp họ có tâm trạng như thế nào, ở bất kỳ thời điểm nào. Má tôi thường đọc câu ngạn ngữ viết trên bảng đen khi má học lớp tám ở Sài Gòn: Ðời là chiến trận, nếu buồn là thua. “Cuộc đời là một cuộc chiến nơi nỗi buồn dẫn đến thất bại.”
***
Má tôi đánh những trận đầu tiên khá muộn màng, không hề buồn phiền. Má đi làm lần đầu trong đời ở tuổi ba mươi tư, đầu tiên làm công việc dọn dẹp, sau đó làm các công việc ở nhà máy, xí nghiệp, nhà hàng. Trước đây, trong cuộc sống mà má đã đánh mất, là con gái lớn của một tỉnh trưởng, tất cả những gì má làm là giải quyết tranh cãi giữa đầu bếp món ăn Pháp và đầu bếp món ăn Việt trong sân nhà, hay đảm nhận vai quan tòa trong những cuộc tình bí mật giữa những người giúp việc nữ và người giúp việc nam. Ngoài việc đó ra, má dành cả buổi chiều để làm tóc, trang điểm, mặc quần áo để đi cùng ba đến dự các sự kiện xã hội. Nhờ cuộc sống xa hoa mà má đã sống, bà có thể mơ tất cả những giấc mơ mình muốn, đặc biệt là những giấc mơ má mơ cho chúng tôi. Má đang chuẩn bị cho anh em chúng tôi cùng lúc vừa trở thành nhạc sĩ, nhà khoa học, chính trị gia, vừa là vận động viên, nghệ sĩ và là người biết nhiều ngôn ngữ.
***
Tuy nhiên, ở đâu đó xa chỗ chúng tôi, máu vẫn chảy, bom đạn vẫn rơi, nên má dạy chúng tôi biết hạ mình như những người giúp việc. Mỗi ngày, bà bắt tôi chùi bốn viên gạch hoa trên sàn nhà và ngắt từng cái rễ của hai mươi mầm giá đậu. Má đang chuẩn bị cho chúng tôi phòng khi suy sụp. Bà đã đúng khi làm thế, bởi vì rất nhanh sau đó ngay cái sàn nhà dưới chân, chúng tôi cũng không có nữa.
***
Những đêm tị nạn đầu tiên ở Mã Lai, chúng tôi ngủ ngay trên nền đất đỏ, không có sàn nhà. Hội Chữ thập đỏ đã xây dựng các trại tị nạn ở các quốc gia kề cận với Việt Nam để tiếp nhận thuyền nhân – những người sống sót sau hành trình trên biển. Những người khác, những người đã ngã xuống trong cuộc vượt biển, không có tên. Họ đã chết một cách vô danh. Chúng tôi nằm trong số những người đủ may mắn để dạt vào vùng đất khô. Chúng tôi cảm thấy được ban ơn phước khi nằm trong số hai ngàn người tị nạn ở tại một trại dự tính dành cho hai trăm người.
***
Chúng tôi dựng một cái lều trên những cọc gỗ ở một nơi hẻo lánh của trại, bên sườn đồi. Trong nhiều tuần, hai lăm thành viên của năm gia đình làm việc cùng nhau, chặt lén một số cây trong khu rừng gần đó, rồi chôn chúng xuống đất sét mềm, gắn vào sáu tấm ván ép để tạo thành một sàn nhà lớn, và phủ sườn nhà bằng một tấm vải nhựa màu xanh lam. Chúng tôi may mắn tìm được đủ bao đựng gạo bằng vải bố và nylon để che quanh bốn mặt lều, cũng như ba mặt của phòng tắm chung. Bên nhau, hai cấu trúc ấy trông giống như một bảo tàng sắp đặt của một nghệ sĩ đương đại. Ban đêm, chúng tôi ngủ ép sát vào nhau đến nỗi không bao giờ thấy lạnh, kể cả khi không có chăn. Vào ban ngày, sức nóng do lớp vải nhựa màu xanh hấp thụ khiến không khí trong lều của chúng tôi trở nên ngột ngạt. Vào những ngày và những đêm mưa, nước chảy vào qua các lỗ do lá, cành cây và thân cây mà chúng tôi phủ thêm cho mát đâm thủng.
Nếu một nhà biên đạo múa ở dưới tấm vải nhựa vào một ngày hay đêm mưa, chắc chắn sẽ diễn lại cảnh tượng: hai mươi lăm người, già trẻ lớn bé, đứng trên đôi chân của mình, mỗi người cầm một cái lon sắt để hứng nước nhỏ xuống từ mái nhà, đôi khi chảy thành dòng, đôi khi từng giọt, từng giọt. Nếu một nhạc sĩ có mặt ở đó, sẽ nghe thấy bản hòa tấu do tất cả những giọt nước đập vào thành lon sắt tạo nên. Nếu một nhà làm phim có mặt ở đó, sẽ nắm bắt được vẻ đẹp của sự đồng lõa thầm lặng và tự phát giữa những con người khốn khổ. Nhưng ở đó chỉ có chúng tôi, đứng trên một sàn nhà đang dần lún sâu vào đất sét. Sau ba tháng, nó nghiêng hẳn sang một bên đến mức tất cả chúng tôi phải tìm những tư thế ngủ mới, để phụ nữ và trẻ em đang ngủ không bị trượt vào những chiếc bụng béo của những người kế bên.
***
Bất chấp tất cả ngần ấy đêm khi giấc mơ của chúng tôi trôi tuột theo cái sàn dốc, má tôi vẫn nuôi những cao vọng về tương lai của chúng tôi. Má đã tìm thấy một kẻ đồng mưu. Chú ấy còn trẻ và chắc chắn là ngây thơ vì dám phô bày niềm vui và sự thư thái giữa cuộc sống hàng ngày buồn tẻ và trống trải của chúng tôi. Chú và má cùng nhau khởi đầu một lớp học tiếng Anh. Chúng tôi dành cả buổi sáng học với chú, lặp đi lặp lại những từ mà chúng tôi không hiểu. Nhưng tất cả chúng tôi đều có mặt ở đó vì chú đã có thể nâng bầu trời lên và cho chúng tôi thoáng thấy một chân trời mới, cách xa những cái hố toang hoác chứa đầy phân của hai nghìn người trong trại. Không có khuôn mặt của chú, chúng tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được một chân trời không có ruồi, giun và mùi khó chịu. Không có mặt chú, chúng tôi không thể tưởng tượng được có ngày chúng tôi sẽ không còn ăn những con cá ươn người ta quẳng cho mỗi chiều khi phát khẩu phần ăn. Nếu không có khuôn mặt chú, chắc hẳn chúng tôi đã mất đi khát khao vươn tay nắm lấy những ước mơ của mình.
***
Thật không may, sau tất cả các buổi sáng học với giáo viên tiếng Anh ngẫu hứng này, tôi chỉ nhớ một câu: Số thuyền của tôi là KG0338. Hóa ra nó hoàn toàn vô ích vì tôi chưa bao giờ có cơ hội nói ra, kể cả trong buổi kiểm tra y tế của phái đoàn Canada. Người bác sĩ thường trực không nói với tôi một lời nào. Ông kéo giây thun quần của tôi để xác nhận giới tính của tôi thay vì hỏi, Con trai hay con gái? Tôi cũng biết hai từ đó. Vẻ ngoài của một cậu bé mười tuổi và một cô bé mười tuổi chắc hẳn rất giống nhau, bởi vì chúng tôi đều gầy gò. Và thời gian khám rất ngắn: rất đông những người khác đang đợi ở phía bên kia cánh cửa. Trời nóng khủng khiếp trong phòng khám nhỏ có cửa sổ mở ra một con hẻm ồn ào, nơi hàng trăm cái xô lấy nước va chạm vào cái bơm. Chúng tôi người đầy ghẻ và chấy rận và tất cả chúng tôi đều mang vẻ mặt của những kẻ lạc lõng, mông muội…
***
Trong mọi trường hợp, tôi nói rất ít, đôi khi chẳng nói gì cả. Suốt thời thơ ấu, cô chị họ Sao Mai luôn nói giùm tôi vì tôi là cái bóng của chị: cùng tuổi, cùng lớp, cùng giới nhưng mặt chị ở phía sáng còn mặt tôi thì ở phía tối, phía bóng đen, câm lặng.
***
Má tôi muốn tôi phải chuyện trò, học tiếng Pháp càng nhanh càng tốt, cả tiếng Anh nữa, vì tiếng mẹ đẻ của tôi không hẳn là kém cỏi mà là vô dụng. Bắt đầu từ năm thứ hai của tôi ở Quebec, má gửi tôi đến một doanh trại thiếu sinh quân nói tiếng Anh. Má nói với tôi rằng đó là cách mà tôi có thể học tiếng Anh miễn phí. Nhưng má đã nhầm, nó chẳng hề miễn phí chút nào. Tôi đã phải trả giá, mà là giá đắt. Có khoảng bốn mươi học viên, tất cả đều cao lớn, tràn trề năng lượng và quan trọng nhất là, đang tuổi thiếu niên. Họ tỏ ra nghiêm túc khi kiểm tra tới từng chi tiết nhỏ nếp gấp cổ áo, góc đội chiếc mũ nồi, độ bóng của đôi ủng. Đứa lớn mắng đứa nhỏ. Chúng chơi trò chiến tranh, cái trò ngớ ngẩn, mà chẳng hiểu gì. Và tôi thì không hiểu chúng. Tôi cũng không hiểu tại sao tên của học viên hàng xóm ở cùng dãy nhà với tôi lại được cấp trên nhắc đi nhắc lại. Có lẽ ông muốn tôi nhớ tên của cậu thiếu niên cao gấp đôi tôi. Cuộc đàm thoại bằng tiếng Anh đầu tiên của tôi bắt đầu bằng việc tôi nói với nó vào cuối buổi học: “Chào mi, thằng khốn.”
***
Má thường đặt tôi vào những tình huống vô cùng xấu hổ. Một lần, bà sai tôi đi mua đường ở tiệm tạp hóa ngay dưới căn hộ đầu tiên của chúng tôi. Tôi đã đi nhưng không tìm thấy đường. Má bắt tôi quay lại và thậm chí còn khóa cửa sau lưng tôi, nói: “Không mua được đường thì đừng có về!” Má đã quên rằng tôi là người câm điếc. Tôi ngồi trên bậc thềm tiệm tạp hóa cho đến giờ đóng cửa, khi người bán hàng cầm tay và dẫn tôi đến chỗ bịch đường. Ông ấy đã hiểu ra, cho dù đối với tôi từ “đường” là cay đắng.
Trong một thời gian dài, tôi đã nghĩ rằng má thích thú với việc liên tục cho tôi ra rìa. Khi tôi đã có những đứa con của chính mình, cuối cùng tôi cũng hiểu rằng lẽ ra tôi nên nhìn thấy bà đằng sau cánh cửa khóa chặt, dán mắt vào lỗ khóa nhìn theo; Lẽ ra tôi phải nghe má nói chuyện điện thoại với người bán tạp hóa khi tôi đang ngồi trên bậc thềm rơm rớm nước mắt. Sau này tôi cũng hiểu rằng má chắc chắn đã nuôi những ước mơ về tôi, nhưng trên hết má đã cho tôi những phương cách để tôi bén rễ trở lại, và có thể ước mơ.
***
Thị trấn Granby là mái ấm đã che chở cho chúng tôi trong năm đầu tiên ở Canada. Người dân địa phương lần lượt cưu mang chúng tôi. Các bạn học lớp tôi xếp hàng để mời chúng tôi về nhà ăn trưa, thế nên mỗi buổi trưa của chúng tôi đều có gia đình dành chỗ. Và lần nào chúng tôi cũng trở lại trường với cái bụng gần như trống rỗng vì không biết dùng nĩa để ăn cơm. Chúng tôi không biết làm thế nào để nói với họ rằng thứ thức ăn nào đó rất lạ đối với chúng tôi, rằng họ thực sự không cần phải đến mọi cửa hàng tạp hóa để tìm kiếm hộp cơm Minute Rice cuối cùng. Chúng tôi không thể nói chuyện cũng không thể hiểu họ. Nhưng đó không phải là điều chính. Có sự hào phóng và lòng biết ơn trong từng hạt cơm còn sót lại trên đĩa ăn của chúng tôi. Cho đến hôm nay, tôi vẫn tự hỏi liệu lời nói có thể làm vấy hỏng những giây phút phúc lành đó hay không. Và liệu có phải đôi khi tình cảm được hiểu rõ hơn trong im lặng, như tình cảm giữa Claudette và Monsieur Kiệt. Những khoảnh khắc đầu tiên họ ở bên nhau không tả được bằng lời, nhưng Monsieur Kiệt đã đồng ý đặt đứa con của mình vào vòng tay của Claudette mà không hề băn khoăn: một đứa bé, đứa con của ông, mà ông đã tìm thấy trên bờ biển sau khi bị lật thuyền trong cơn sóng dữ. Ông không tìm thấy vợ mình, chỉ có đứa con trai đang được sinh ra lần thứ hai mà không có mẹ. Claudette dang rộng vòng tay với họ và giữ họ bên mình trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm.
***
Johanne cũng chìa tay về phía tôi. Bạn ấy thích tôi mặc dù tôi đội một cái mũ có túp len với logo McDonald, dù tôi đã núp sau thùng một chiếc xe tải cùng với năm mươi người Việt Nam khác để đi làm việc trên những cánh đồng quanh Eastern Townships sau giờ học. Johanne muốn tôi vào học trường trung học tư thục với bạn ấy vào năm sau. Tuy nhiên, bạn ấy biết rằng chiều chiều trong sân ngôi trường đó, tôi đợi những chiếc xe tải của các chủ trại đưa chúng tôi đi làm việc đồng áng bất hợp pháp, hái những bao đậu để kiếm vài đô la tiền công.
Johanne cũng đưa tôi đi xem phim, dù tôi đang mặc một cái áo sơ mi bán giảm giá chỉ 88 xu, bị thủng một lỗ gần một đường may. Sau bộ phim Fame, bạn ấy đã dạy tôi hát ca khúc chủ đề trong phim bằng tiếng Anh, “I sing the body electric,” mặc dù tôi không hiểu lời bài hát hay cuộc trò chuyện của bạn ấy với em gái và cha mẹ mình quanh lò sưởi. Chính Johanne cũng là người đã đỡ tôi sau cú ngã đầu tiên của tôi khi chúng tôi đi trượt băng, người đã vỗ tay và hét tên tôi trong đám đông khi Serge, một người bạn cùng lớp cao gấp ba lần tôi, dang tay ôm tôi cùng với quả bóng và ghi một bàn thắng.
Tôi tự hỏi có thực là tôi đã không hư cấu ra người bạn ấy của tôi. Tôi đã gặp nhiều người tin vào Chúa, nhưng điều tôi tin lại là thiên thần, và Johanne là một thiên thần. Bạn ấy là một trong các thiên thần đã nhảy dù xuống thị trấn để điều trị sốc cho chúng tôi. Hàng chục người đã xuất hiện trước cửa nhà chúng tôi để trao cho chúng tôi quần áo ấm, đồ chơi, lời mời, ước mơ. Tôi thường cảm thấy bên trong chúng tôi không có đủ chỗ để tiếp nhận mọi thứ chúng tôi được cung cấp, để đón nhận tất cả những nụ cười đến với chúng tôi. Làm thế nào chúng tôi có thể ghé thăm Granby Zoo hơn hai lần mỗi cuối tuần? Làm thế nào chúng tôi có thể biết được giá trị của một chuyến cắm trại ở nông thôn? Làm thế nào để thưởng thức món trứng tráng với xi – rô cây phong?
***
Tôi có một bức ảnh chụp ba tôi được những người bảo trợ chúng tôi ôm hôn, một gia đình tình nguyện viên mà chúng tôi được chỉ định. Họ dành những ngày chủ nhật để đưa chúng tôi đi chợ trời. Họ thay mặt chúng tôi thương lượng rất quyết liệt để chúng tôi có thể mua nệm, bát đĩa, giường, ghế sofa – nói cho gọn là những thứ thiết yếu – với khoản trợ cấp ba trăm đô la của chính phủ để trang bị cho ngôi nhà đầu tiên của chúng tôi ở Quebec. Một trong những người bán hàng đã thêm cho ba tôi một chiếc áo len cổ lọ màu đỏ. Ba đã mặc nó một cách tự hào mỗi ngày vào mùa xuân đầu tiên của chúng tôi ở Quebec. Giờ đây, nụ cười rộng mở của ba trong bức ảnh từ thời đó đã khiến chúng tôi quên mất rằng đó là chiếc áo len nữ, thắt ở eo. Đôi khi không biết hết mọi thứ lại hay.
Tất nhiên, có những lúc chúng tôi muốn biết nhiều hơn. Ví dụ, muốn biết trong những cái nệm cũ của chúng tôi có bọ chét không. Nhưng những chi tiết đó không quan trọng vì chúng không hiển thị trong ảnh. Trong mọi trường hợp, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã miễn nhiễm với các vết đốt, rằng không con bọ chét nào có thể xuyên qua làn da rám nắng của chúng tôi dưới ánh mặt trời Mã Lai. Quả thực, gió lạnh và tắm nước nóng đã tẩy sạch chúng tôi, khiến các vết cắn đau không chịu nổi còn vết ngứa thì rỉ máu.
Chúng tôi đã quẳng những tấm nệm mà không cho những người bảo trợ hay biết. Chúng tôi không muốn làm họ thất vọng, vì họ đã dành cho chúng tôi tấm lòng và thời gian. Chúng tôi biết ơn sự hào phóng của họ, nhưng vẫn chưa biết ơn đủ: chúng tôi chưa biết đến giá trị của thời gian, giá trị đích thực và sự khan hiếm cực kỳ của nó.
***
Trong một năm tròn, Granby là hiện thân của thiên đường trên trái đất. Tôi không thể tưởng tượng ra một nơi nào tốt hơn trên thế giới, ngay cả khi chúng tôi bị ruồi ăn thịt giống như ở trại tị nạn. Một nhà thực vật học địa phương đã đưa bọn trẻ chúng tôi đến những đầm lầy nơi mọc chi chít hàng ngàn cây cỏ đuôi mèo và cho chúng tôi xem các loài côn trùng. Ông ấy không biết rằng chúng tôi đã gãi rát vai với bọn ruồi trong các trại tị nạn trong nhiều tháng. Chúng bám vào các cành cây chết khô gần hố phân, bên cạnh cái lều của chúng tôi. Chúng bu quanh cành cây giống như những quả mọng của cây tiêu hay quả lý chua. Chúng nhiều vô kể, và to đến mức chẳng cần phải bay để hiện diện trước mắt chúng tôi, trong cuộc sống của chúng tôi. Chúng tôi không cần phải im lặng để nghe thấy ruồi. Thế mà bây giờ người hướng dẫn thực vật học lại thì thầm bảo chúng tôi hãy lắng nghe tiếng vo ve và tìm cách hiểu chúng.
***
Tôi thuộc nằm lòng tiếng ruồi. Tôi chỉ cần nhắm mắt là nghe thấy chúng lại vo ve xung quanh mình, bởi vì trong nhiều tháng trời, con bé nhỏ thó cao chỉ một mét đã phải ngồi xổm trên một cái hố khổng lồ ngập đầy phân, dưới cái nắng chói chang của xứ Mã Lai. Tôi phải nhìn chằm chằm vào cái màu nâu khó tả ấy không chớp mắt để không bị trượt chân trên hai tấm ván kê sau cánh cửa của một trong mười sáu hố xí mỗi khi đặt chân đến đó. Tôi phải giữ thăng bằng, tránh bị ngất khi phân của tôi hay của người ở hố xí bên cạnh văng tung tóe. Những lúc đó tôi trốn thoát bằng cách lắng nghe tiếng vo ve của ruồi. Một lần, tôi bị rớt mất chiếc dép ở khe hở giữa hai tấm ván khi bước đi quá nhanh. Nó rơi xuống hố mà không chìm, lềnh bềnh ở đó như một chiếc thuyền trôi dạt.
***
Tôi đã đi chân đất nhiều ngày, chờ má tìm thấy một chiếc dép mồ côi của một đứa trẻ khác cũng bị mất một chiếc như tôi. Tôi đặt chân trần lên lớp đất sét nơi mà một tuần trước đó giòi còn bò lổm ngổm. Với mỗi trận mưa lớn, hàng trăm nghìn con lại trồi lên khỏi hố, như thể được triệu tập bởi một đấng cứu rỗi. Tất cả chúng đều hướng về phía ngọn đồi của chúng tôi và leo lên không mệt mỏi, không bao giờ rơi ngã. Chúng trườn lên chân chúng tôi, tất cả cùng một nhịp điệu, biến lớp đất sét đỏ thành một tấm thảm trắng nhấp nhô. Chúng đông đảo tới mức chúng tôi đã bỏ cuộc trước khi bắt đầu chiến đấu. Chúng trở nên bất khả chiến bại, còn chúng tôi thành ra bị tổn thương. Chúng tôi để chúng mở rộng lãnh thổ của mình cho đến khi tạnh mưa, lúc mà đến lượt mình, chúng bị tổn thương.
***
Khi người Cộng sản vào Sài Gòn, gia đình tôi đã giao nộp một nửa tài sản nhà cửa vì chúng tôi đã thành kẻ bị tổn thương. Một bức tường gạch được dựng lên để thiết lập hai địa chỉ: một cho chúng tôi và một cho trụ sở công an địa phương.
Một năm sau, những người chức trách từ chính quyền mới đến để dọn luôn một nửa ngôi nhà còn lại và đuổi chúng tôi đi. Các nhân viên kiểm kê đến sân nhà chúng tôi mà không báo trước, không có sự ủy quyền, không có lý do gì. Họ yêu cầu tất cả những người có mặt tập trung tại phòng khách. Ba má tôi đi vắng nên các nhân viên kiểm tra đợi họ, ngồi trên mép những chiếc ghế trang trí nghệ thuật, lưng thẳng, không một lần chạm vào hai vuông vải lanh trắng có thêu hoa văn tinh xảo trang trí trên tay vịn. Má tôi là người đầu tiên xuất hiện sau cánh cửa sắt rèn có lắp kính. Bà mặc chiếc váy ngắn xếp li màu trắng và đôi giày chạy bộ. Sau lưng bà, ba tôi vừa đi vừa kéo mấy cái vợt tennis, mặt vẫn còn lấm tấm mồ hôi. Chuyến thăm bất ngờ của nhân viên kiểm kê đã ném chúng tôi về với hiện tại trong khi chúng tôi vẫn đang thưởng thức những khoảnh khắc cuối cùng của quá khứ. Tất cả người lớn trong nhà được lệnh ở trong phòng khách trong khi các nhân viên bắt đầu kiểm kê.
Bọn trẻ con chúng tôi có thể đi theo họ từ tầng này sang tầng khác, từ phòng này sang phòng khác. Họ niêm phong các ngăn kéo, tủ quần áo, bàn trang điểm, két sắt. Họ thậm chí còn niêm phong những chiếc ngăn kéo lớn chứa đầy áo ngực của bà tôi và sáu cô con gái của bà mà không mô tả bên trong. Tôi thấy hình như người kiểm kê trẻ thấy xấu hổ khi nghĩ đến tất cả những cô gái ngực tròn trong phòng khách mặc những bộ đồ ren đẹp nhập khẩu từ Paris. Tôi cũng nghĩ rằng anh ta để trống tờ giấy, không có mô tả gì về những thứ bên trong tủ quần áo, bởi vì anh ta lòng đầy ham muốn nên không thể viết mà không run. Nhưng tôi đã lầm: anh ta không biết áo ngực dùng để làm gì. Theo ý anh ta, chúng trông giống như những cái lọc cà phê của mẹ anh, làm bằng vải khâu quanh một vòng kim loại, đầu xoắn lại của vòng này dùng làm tay cầm.
Dưới chân cầu Long Biên bắc qua sông Hồng ở Hà Nội, đêm nào mẹ anh cũng đổ đầy cà phê vào cái lọc rồi nhúng vào cái ấm nhôm pha cà phê để pha vài cốc bán cho khách qua đường. Vào mùa đông, cô ấy đặt cái cốc vừa đủ ba ngụm cà phê vào một cái bát đổ đầy nước nóng để giữ ấm trong khi khách uống ngồi trò chuyện trên những chiếc ghế dài kê cao hơn mặt đất chút ít. Khách hàng của cô nhận ra cô nhờ ngọn đèn dầu nhỏ xíu đặt trên cái bàn chế biến nhỏ xíu, bên cạnh ba điếu thuốc được bày trên đĩa. Mỗi buổi sáng, nhân viên kiểm kê trẻ tuổi, lúc ấy vẫn còn là một đứa trẻ, thức dậy với cái lọc cà phê bằng vải nâu thường được vá lại, đôi khi vẫn còn ướt và treo trên một chiếc đinh đóng cao hơn đầu. Tôi nghe thấy anh ta nói chuyện với các nhân viên khác ở một góc cầu thang. Anh ta không hiểu tại sao gia đình tôi lại có rất nhiều cái lọc cà phê được cất trong ngăn kéo có lót giấy lụa. Và tại sao chúng lại là lọc đôi? Có phải vì chúng tôi luôn uống cà phê với một người bạn?
Người kiểm kê trẻ đã hành quân trong rừng từ năm 12 tuổi để giải phóng miền Nam Việt Nam khỏi “bàn tay lông lá” của người Mỹ. Anh đã từng ngủ trong địa đạo dưới lòng đất, từng có lần ở dưới ao nhiều ngày, núp dưới lục bình, nhìn thấy xác đồng đội hy sinh để chặn những khẩu pháo bị tuột, sống qua những đêm sốt rét giữa tiếng trực thăng và tiếng đạn nổ. Trừ hàm răng nhuộm đen tuyền của mẹ, anh đã quên mất khuôn mặt của bố mẹ mình. Thế thì làm sao anh ta có thể đoán được cái áo ngực dùng để làm gì? Trong rừng, các chàng trai và cô gái có những vật dụng giống hệt nhau: một cái mũ cối màu xanh lá cây, đôi dép làm từ lốp xe cũ mòn, một bộ quân phục và một chiếc khăn rằn quàng cổ hai màu đen trắng. Việc kiểm kê đồ đạc của họ mất ba giây, không giống như của chúng tôi, kéo dài cả năm. Chúng tôi phải chia sẻ không gian của mình bằng cách nhận mười nhân viên kiểm kê nam nữ đó vào nhà. Chúng tôi dành cho họ một tầng của ngôi nhà. Mỗi người chúng tôi sống trong góc của riêng mình, tránh tiếp xúc ngoại trừ những lúc khám xét hàng ngày, khi chúng tôi buộc phải đứng đối mặt với họ. Họ cần đảm bảo rằng chúng tôi chỉ có những thứ thiết yếu, giống như họ.
Một ngày nọ, mười người ấy kéo chúng tôi vào phòng tắm của họ, cáo buộc chúng tôi ăn trộm con cá mà họ được cấp để làm bữa tối. Họ chỉ vào bồn cầu và giải thích với chúng tôi rằng con cá đã ở đó sáng hôm ấy, mạnh mẽ và lành lặn. Điều gì đã xảy ra với nó?
***
Nhờ con cá đó, chúng tôi đã có thể thiết lập liên lạc. Sau đó, cha tôi đã làm họ hư hỏng bằng cách cho họ nghe nhạc một cách kín đáo. Tôi ngồi bên dưới cây đàn piano, trong bóng tối, nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên má họ, nơi những nỗi kinh hoàng của Lịch sử, không do dự, đã khắc sâu những đường rãnh. Sau đó, chúng tôi không còn biết họ là kẻ thù hay nạn nhân, không biết chúng tôi yêu hay ghét, sợ hãi hay thương hại họ. Và họ không còn biết liệu họ đã giải phóng chúng tôi khỏi người Mỹ hay ngược lại, liệu chúng tôi đã giải phóng họ khỏi rừng rậm Việt Nam hay chưa.
Tuy nhiên, rất nhanh, thứ âm nhạc đã mang lại cho họ một chút tự do nào đó đã phải gieo mình vào đám lửa, trên sân thượng của ngôi nhà. Họ đã nhận được lệnh đốt sách, bài hát, phim ảnh – tất cả những gì phản lại hình ảnh của những người đàn ông và phụ nữ với những cánh tay gân guốc giơ cao búa liềm và lá cờ đỏ sao vàng của họ. Rất nhanh, chúng lại một lần nữa lấp đầy bầu trời bằng khói.
***
Những người lính đó sau này ra sao? Nhiều thứ đã thay đổi kể từ khi bức tường gạch được dựng lên giữa chúng tôi và những người Cộng sản. Tôi trở lại Việt Nam để làm việc với những người đã khiến bức tường được xây, những người đã tưởng tượng nó như một công cụ để cắt đứt sinh mạng của hàng trăm nghìn, thậm chí có thể là hàng triệu người. Tất nhiên, đã có những sự đảo ngược kể từ khi những chiếc xe tăng lần đầu tiên lăn bánh trên đường phố chạy ngang qua nhà chúng tôi năm 1975. Kể từ đó, tôi thậm chí còn học được từ vựng Cộng sản của những kẻ từng tấn công chúng tôi vì Bức tường Berlin sụp đổ, vì Bức màn sắt đã được vén lên, vì tôi vẫn còn quá trẻ nên không bị quá khứ đè nặng. Chỉ có điều, sẽ không bao giờ có bức tường gạch trong nhà tôi. Tôi vẫn không chia sẻ tình yêu dành cho những bức tường gạch của những người sống quanh tôi. Họ có luận điệu rằng gạch làm cho căn phòng ấm cúng.
***
Ngày tôi bắt đầu công việc ở Hà Nội, tôi đi ngang qua một căn phòng nhỏ hướng ra phố. Bên trong, một người đàn ông và một người phụ nữ đang xếp gạch xây một bức tường thấp chia căn phòng làm hai. Bức tường cao dần lên từng ngày, cho đến khi chạm trần nhà. Người thư ký nói với tôi rằng đó là vì hai anh em không muốn sống chung dưới một mái nhà. Người mẹ đã bất lực trước sự ngăn chia này, có lẽ vì chính bà đã dựng lên những bức tường tương tự khoảng ba mươi năm trước giữa kẻ chiến thắng và người chiến bại. Bà mất trong thời gian ba năm tôi ở Hà Nội. Theo kế thừa, người anh thì người mẹ để lại cái quạt điện mà không có ổ cắm, người em thì có cái ổ cắm mà không có cái quạt nào.
Đúng là bức tường gạch giữa hai anh em đó không thể so sánh với bức tường đã tồn tại giữa gia đình tôi và những người lính Cộng sản, hai bức tường này cũng không có cùng lịch sử với những ngôi nhà cổ ở Québéc – mỗi bức tường đều có một câu chuyện riêng. Chính nhờ khoảng cách đó mà tôi đã từng được dùng bữa với những người từng là cánh tay phải, cánh tay trái của Hồ Chí Minh mà không thấy hiềm thù lởn vởn, không thấy những người phụ nữ trên tàu lửa ôm những lon sữa bột Guigoz cũ trên tay như thể chúng là những lọ thuốc có ma thuật. Đối với những người đàn ông bị giam trong các trại cải tạo, đó là một liều thuốc kỳ diệu, ngay cả khi những chiếc hộp chỉ chứa thịt rang nâu (thịt chà bông): một cân thịt heo quay xé nhỏ từng sợi, sấy khô cả đêm trên than hồng, ướp mặn, rồi lại ướp mặn với nước mắm mua được sau hai ngày xếp hàng chờ đợi, hai ngày hy vọng và tuyệt vọng. Những người phụ nữ đã dốc lòng, tận tâm làm những sợi thịt heo đó, dù họ không chắc đã tìm thấy cha của con mình trong cái trại mà họ lên đường đến thăm, không biết người ấy còn sống hay đã chết, bị thương hay ốm đau. Để tưởng nhớ những người phụ nữ đó, tôi thỉnh thoảng làm món thịt rang nâu đó cho các con trai của mình, để lưu giữ, để nối lại những cử chỉ yêu thương.
Tình yêu, như con trai Pascal của tôi hiểu, được định nghĩa bằng số lượng trái tim được vẽ trên một tấm thiệp hoặc bằng bao nhiêu câu chuyện về rồng được kể bằng ánh đèn pin rọi dưới một chiếc chăn nhồi lông vịt. Phải đợi thêm vài năm nữa tôi mới có thể kể lại cho con nghe rằng vào những thời điểm khác, ở những nơi chốn khác, những người cha người mẹ đã thể hiện tình thương của mình bằng cách sẵn sàng bỏ rơi con cái, như cha mẹ của Tom Thumb. Tương tự như vậy, người mẹ đã giúp tôi lướt đi trên mặt nước bao quanh là những đỉnh núi cao của vùng Hoa Lư, bằng cách chống một cây sào dài, đã muốn từ bỏ con gái của mình, trao cô bé cho tôi. Người mẹ đó muốn tôi thay chị làm mẹ. Chị thà khóc vì thiếu con hơn là nhìn con chạy theo khách du lịch để bán cho họ những chiếc khăn trải bàn mà chị đã thêu. Khi đó tôi là một cô gái trẻ. Giữa những ngọn núi đá ấy, tôi chỉ thấy một phong cảnh hùng vĩ thay cho tình yêu vô bờ bến của người mẹ. Có những đêm tôi chạy dọc theo những luống đất dài bên cạnh con trâu để gọi chị về, để nắm lấy tay đứa con gái của chị trong tay tôi.
Tôi đang đợi Pascal lớn thêm vài tuổi nữa mới tìm ra mối liên hệ giữa câu chuyện về người mẹ ở Hoa Lư và Tom Thumb. Trong khi chờ đợi, tôi kể cho con nghe câu chuyện về con lợn chui trong quan tài để vượt qua các chốt kiểm soát giữa nông thôn và thành thị. Nó thích nghe tôi bắt chước những người phụ nữ khóc trong đám tang, lao cả xác lẫn hồn vào cái hộp gỗ dài, than khóc, trong khi những người nông dân, mặc toàn đồ tang, đầu quấn khăn tang, cố gắng giữ họ lại, để an ủi trước mặt các kiểm soát viên đã quá quen với cái chết. Khi họ trở lại thị trấn, đằng sau cánh cửa đóng kín của một địa chỉ bí mật luôn thay đổi, những người nông dân giao con lợn cho người hàng thịt, người này sẽ cắt nó thành từng miếng. Sau đó, những người buôn bán sẽ buộc những miếng thịt đó quanh chân và eo lưng của họ để vận chuyển chúng đến chỗ chợ đen, đến các hộ gia đình, đến chỗ chúng tôi.
Tôi kể cho Pascal nghe những câu chuyện này để lưu giữ ký ức về một phần lịch sử mà sẽ không bao giờ được dạy ở bất kỳ trường học nào.
Tôi nhớ một số học sinh ở trường trung học của tôi than phiền về các giờ học lịch sử bắt buộc. Khi còn trẻ, chúng tôi đã không nhận ra rằng môn học này là một đặc ân mà chỉ những quốc gia hòa bình mới có được. Ở những nơi khác, mọi người quá bận tâm đến sự sống còn hàng ngày hơi đâu mà dành thời gian viết lịch sử chung của họ. Nếu tôi không sống trong sự im lặng hùng vĩ của những hồ nước lớn đóng băng, trong cuộc sống yên bình đơn điệu hàng ngày, nơi tình yêu được tán dương với bóng bay, hoa giấy, sôcôla, có lẽ tôi sẽ không bao giờ để ý đến bà cụ sống gần phần mộ ông cố của tôi ở đồng bằng sông Cửu Long. Bà đã già lắm rồi, già đến nỗi mồ hôi chảy dài trên những nếp nhăn của bà như một khe nước chảy dọc theo luống đất. Lưng bà còng, còng đến nỗi bà phải đi hướng lưng về phía trước khi xuống cầu thang để không bị mất thăng bằng mà ngã đập đầu. Bà đã gieo bao nhiêu hạt thóc? Bà đã ngâm chân trong bùn bao lâu rồi? Bà đã ngắm nhìn bao nhiêu lần mặt trời lặn trên đồng lúa của mình? Bà đã gác lại bao nhiêu ước mơ chỉ để thấy mình bị còng lưng dần sau hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm?
Chúng ta thường không nhớ đến sự tồn tại của tất cả những người phụ nữ đã cõng đất nước Việt Nam trên lưng trong khi chồng và con trai họ đang cõng vũ khí. Chúng ta quên họ vì dưới chiếc nón lá họ không nhìn lên được bầu trời. Họ chỉ đợi mặt trời lặn xuống nơi họ để có thể ngất đi thay vì ngủ thiếp. Nếu họ dành thời gian để chờ giấc ngủ đến, họ sẽ tưởng tượng cảnh những đứa con trai bị thổi bay thành ngàn mảnh hay thi thể của những người chồng trôi dạt trên sông lênh đênh như những đồ tạp nhạp lềnh bềnh. Người nô lệ Mỹ đã có thể hát về nỗi buồn của họ trên cánh đồng bông. Người phụ nữ Việt để nỗi buồn lớn dần trong buồng tim mình. Họ bị đè nặng bởi tất cả nỗi đau đến nỗi không thể tự đứng dậy được, không thể duỗi thẳng những tấm lưng cong và còng xuống dưới sức nặng của nỗi buồn. Khi những người đàn ông ra khỏi rừng rú và bắt đầu bước đi dọc theo những con đê đất bao quanh ruộng lúa của mình thì những người phụ nữ lại tiếp tục mang trên lưng gánh nặng của lịch sử câm lặng của đất nước. Thường thường họ qua đời dưới sức nặng đó, trong thầm lặng.
Một trong những người phụ nữ mà tôi biết đã chết khi trượt chân trong nhà cầu nằm chênh vênh trên một cái ao đầy cá da trơn. Đôi dép nhựa của bà bị trượt. Bất cứ ai quan sát bà lúc đó đều sẽ thấy chiếc nón lá của bà biến mất sau bốn tấm phên chỉ che được cái thân hình lom khom, bao quanh bà mà không bảo vệ cho bà được. Bà chết trong nhà cầu của gia đình, đầu chui xuống hố đầy phân giữa hai tấm ván, phía sau túp lều của mình, vây quanh là những con cá da trơn, thịt vàng, không vảy, không ký ức.
Sau khi bà cụ mất, chủ nhật nào tôi cũng ra một đầm sen ở ngoại thành Hà Nội, ở đó luôn có hai ba người phụ nữ lưng còng, tay run, ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ tròn trịa dùng sào chèo chống trên mặt nước và thả lá trà vào hoa sen đang mở. Họ sẽ quay lại vào ngày hôm sau để thu hái từng bông sen một trước khi những cánh hoa tàn úa, sau khi những lá trà bị giam cầm đã hấp thụ mùi hương của nhụy hoa trong đêm. Họ bảo tôi rằng mỗi lá trà đó đều lưu giữ linh hồn của những bông hoa có cuộc sống quá ngắn ngủi.
Những bức ảnh không thể lưu giữ linh hồn của những cây thông Noel đầu tiên của chúng tôi. Những cành cây lấy từ những khu rừng ngoại ô Montréal, được cắm vào vành một cái lốp xe dự phòng phủ một tấm vải trắng, trông có vẻ trơ trụi và thiếu sức hút, nhưng thực ra chúng đẹp hơn nhiều so với những cây vân sam cao hai mét rưỡi mà chúng tôi chưng ngày nay.
Ba má thường nhắc nhở anh em chúng tôi rằng họ không có tiền để chúng tôi thừa kế, nhưng tôi nghĩ họ đã truyền lại cho chúng tôi kho tàng ký ức phong phú của mình, cho phép chúng tôi nắm bắt được vẻ đẹp của một cây tử đằng nở hoa, sự tinh tế của một từ, sức mạnh của điều kỳ diệu. Hơn thế nữa, ba má đã cho chúng tôi đôi chân để vươn tới những giấc mơ của mình, tới vô tận. Đó có thể là hành trang đầy đủ để chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình của riêng mình. Nếu không, chúng tôi sẽ làm con đường đi của mình tắc nghẽn một cách vô ích với những hành trang của cải cần vận chuyển, bảo hiểm và chăm sóc.
Tục ngữ Việt Nam có câu “Sợ kẻ có tóc, ai sợ kẻ trọc đầu”. Và vì vậy tôi cố gắng hết sức có thể để chỉ sở hữu những thứ không vượt quá giới hạn của thân thể mình.
***
Dù sao đi nữa, kể từ khi vượt thoát bằng thuyền, chúng tôi đã học được cách di chuyển thật nhẹ nhàng. Người đàn ông ngồi cạnh chú tôi trong khoang thuyền không hề có hành lý, thậm chí không có lấy một cái túi nhỏ đựng quần áo ấm như chúng tôi. Ông ấy để mọi thứ mình sở hữu lên người. Quần bơi, quần soóc, quần dài, áo phông, áo sơ mi và áo len, và những thứ còn lại nằm trong các lỗ tự nhiên: kim cương gắn vào răng hàm, vàng bọc răng và đô la Mỹ nhét trong hậu môn. Khi ở trên biển, chúng tôi thấy những người phụ nữ mở băng vệ sinh của họ để lấy ra những đồng đô la Mỹ được gấp làm ba theo chiều dọc một cách hoàn hảo.
Về phần tôi, tôi có một chiếc vòng tay bằng acrylic, màu hồng giống như nướu giả nha khoa, nhồi đầy kim cương. Ba má cũng đã đính kim cương vào cổ áo sơ mi của các anh trai tôi. Nhưng răng của chúng tôi không có vàng vì má cấm đụng đến răng của các con mình. Má thường nói với chúng tôi rằng cái răng cái tóc là góc con người, thậm chí có thể là gốc rễ cội nguồn. Má muốn hàm răng của chúng tôi thật hoàn hảo.
Đó là lý do tại sao ngay cả trong trại tị nạn, má vẫn có thể tìm thấy một chiếc kìm nha khoa để nhổ những chiếc răng sữa lung lay của chúng tôi. Má vẫy từng chiếc răng đã nhổ trước mặt chúng tôi dưới cái nắng chói chang của xứ Mã Lai. Những chiếc răng nhuốm máu đó được trưng ra một cách kiêu hãnh trên nền bãi cát mịn và hàng rào dây thép gai. Má nói với tôi rằng có thể làm mắt to ra và thậm chí có thể chỉnh hai tai bị vểnh ra quá nhiều của tôi. Tuy nhiên, bà không thể sửa chữa những khuyết điểm cấu trúc khác trên khuôn mặt tôi, vì vậy ít ra tôi cũng phải có hàm răng không tì vết và trên hết là không đánh đổi chúng để có kim cương. Má cũng biết rằng nếu thuyền của chúng tôi bị cướp biển Thái Lan chặn lại, những chiếc răng vàng và những chiếc răng gắn đầy kim cương cũng sẽ bị nhổ sạch.
***
Cảnh sát được lệnh cho phép tất cả các thuyền chở người Việt gốc Hoa rời đi “trong bí mật”. Người Hoa là những nhà tư bản, do đó chống Cộng sản, vì nguồn gốc dân tộc và vì giọng nói của họ. Nhưng những người giám sát được phép khám xét người họ, tước đoạt mọi thứ họ sở hữu cho đến phút cuối cùng, đến độ làm nhục họ. Gia đình tôi và tôi đã trở thành người Hoa. Chúng tôi đã cầu xin trợ giúp từ gen di truyền của tổ tiên mình để có thể được rời đi với sự đồng ý ngầm của cảnh sát.
***
Ông cố ngoại của tôi là người Trung Hoa. Ông đến Việt Nam một cách tình cờ năm 18 tuổi, kết hôn với một phụ nữ Việt Nam và có 8 người con. Bốn người trong số họ chọn làm người Việt Nam, bốn người còn lại vẫn là người Hoa. Bốn người Việt Nam, trong đó có ông tôi, đã trở thành những nhà chính trị và nhà khoa học. Bốn người Hoa làm ăn phát đạt nhờ kinh doanh lúa gạo. Mặc dù ông nội tôi đã trở thành tỉnh trưởng, ông ấy không thể thuyết phục được bốn anh chị em người Hoa của mình để con cái họ đi học một trường Việt Nam. Và nhánh gia tộc làm người Việt Nam không nói được một từ tiếng Tứ Xuyên. Gia tộc tôi bị chia đôi, đất nước tôi cũng vậy: miền Nam thân Mỹ, miền Bắc thân Cộng.
***
Cậu Chung của tôi, anh trai của má tôi, là cầu nối giữa hai phe chính trị. Thật ra, tên của cậu có nghĩa là cùng nhau, nhưng tôi gọi cậu là cậu Hai vì theo truyền thống của người Nam Việt Nam là thay tên anh chị em bằng thứ tự khai sinh của họ, bắt đầu bằng số hai.
Cậu Hai, con trưởng trong gia đình, từng là dân biểu quốc hội và lãnh đạo phe đối lập. Cậu thuộc về một đảng chính trị gồm những trí thức trẻ tự đặt mình vào thành phần thứ ba, dám đứng giữa hai làn đạn. Chính phủ thân Mỹ đã cho phép sự ra đời của đảng đó để xoa dịu sự tức giận và náo loạn của những người trẻ tuổi có lý tưởng. Cậu tôi đã đạt được vị trí hàng đầu trong tâm trí công chúng. Một mặt, chương trình chính trị của cậu đã thu hút các thành viên trong nhóm mình. Mặt khác, nhờ vẻ ngoài điển trai như một ngôi sao điện ảnh, đối với các cử tri của mình, cậu đại diện cho niềm hy vọng về một cái có vẻ bề ngoài là dân chủ. Là một thanh niên lôi cuốn, vui vẻ, cậu đã phá vỡ ranh giới giữa các gia đình người Hoa và người Việt. Cậu là người có thể thảo luận với một bộ trưởng trong nội các về tác động của tình trạng thiếu giấy in đối với quyền tự do báo chí, đồng thời vòng tay qua eo vợ của người đàn ông đó và dẫn bà ấy nhảy điệu valse – dù người Việt Nam thường không mấy khi nhảy điệu valse.
Suốt thời thơ ấu, tôi có một điều ước thầm kín: được làm con gái của cậu Hai. Sao Mai là công chúa của cậu, cho dù đôi khi cậu quên mất sự tồn tại của chị trong nhiều ngày liền. Sao Mai được ba má tôn sùng như nghệ sỹ xuất chúng. Cậu Hai tổ chức nhiều bữa tiệc tại nhà. Và thường, vào giữa buổi cậu sẽ ngừng mọi cuộc trò chuyện để cho con gái ngồi trên ghế piano và giới thiệu một giai điệu nhỏ chị sẽ chơi. Đối với cậu, trong hai phút ngắn ngủi “Dưới ánh trăng thanh,” không có gì tồn tại ngoài con búp bê có ngón tay mũm mĩm ngân nga một cách thanh thản nhất trước khán giả người lớn. Lần nào tôi cũng ngồi chỗ gầm cầu thang để ghi nhớ cảnh cậu hôn lên mũi chị Sao Mai trong lúc khách vỗ tay hoan hô. Cậu chỉ thỉnh thoảng dành cho con gái hai phút chú ý, nhưng nó đủ để mang lại cho chị họ tôi một sức mạnh nội tâm mà tôi thiếu vắng. Không cần biết bụng đói hay no, Sao Mai không bao giờ ngần ngại chỉ huy các anh lớn của chị và cả tôi nữa.
***
Tôi và Sao Mai lớn lên cùng nhau. Hoặc tôi ở nhà chị hoặc chị ở nhà tôi. Đôi khi ở chỗ của chị thậm chí không có một hột gạo. Khi ba má chị đi vắng, những người giúp việc cũng biến mất – thường thì cả hũ gạo cũng thế. Và ba má chị lại thường vắng nhà. Một ngày nọ, anh trai chị cho chúng tôi ăn một ít cơm nguội dính dưới đáy chảo. Anh ấy đã thêm một chút dầu và một ít hành lá để biến nó thành một bữa ăn. Năm người chúng tôi nhấm nháp thứ bánh gạo rang khô đó. Những ngày khác, chúng tôi bị chôn vùi dưới hàng núi xoài, nhãn, vải, xúc xích Lyon, bánh xốp kem.
Ba má của chị họ tôi thường lựa chọn những thứ cần mua dựa trên màu sắc của trái cây hoặc mùi thơm của một loại gia vị hoặc đơn giản là theo ý thích nhất thời. Thức ăn họ mang về nhà luôn được bao quanh bởi không khí lễ hội, cảm giác phóng túng và sốt sắng. Họ không băn khoăn về hũ gạo rỗng trong bếp hay những bài thơ mà chúng tôi phải học thuộc lòng. Họ chỉ muốn chúng tôi ních nhiều xoài vào, cắn ngập vào trái cây và làm cho nước trái cây phun ra, trong khi quay vòng vòng như con quay theo điệu nhạc của Doors, Sylvie Vartan, Michel Sardou, The Beatles hay Cat Stevens.
***
Ở nhà tôi, bữa ăn luôn đúng giờ, người giúp việc túc trực, bài tập về nhà được giám sát. Khác với ba má Sao Mai, má tôi chỉ cho hai anh và tôi hai quả xoài, mặc dù còn hàng tá nữa nằm trong giỏ. Nếu chúng tôi không đồng ý về khẩu phần đó, má sẽ lấy lại và không cho quả nào cả cho đến khi chúng tôi đạt được thỏa hiệp để chia hai quả xoài cho cả ba chúng tôi. Đó là lý do tại sao đôi khi tôi thích ăn cơm khô với anh chị họ của mình hơn.
***
Tôi cứ muốn mình thật khác biệt với má nhưng rồi một hôm tôi đã thay đổi. Đó là lúc tôi quyết định cho hai con trai ngủ chung phòng, dù trong nhà còn phòng trống. Tôi muốn chúng học cách sát cánh bên nhau như cách mà các anh tôi và tôi đã làm. Có người nói với tôi rằng mối quan hệ được hình thành bằng tiếng cười nhưng thậm chí còn hơn thế nữa bằng sự chia sẻ và sự bực mình khi phải chia sẻ. Có thể nước mắt của người này dẫn đến nước mắt của người kia vào lúc nửa đêm, bởi vì cuối cùng đứa con trai mắc chứng tự kỷ của tôi cũng nhận ra sự hiện diện của Pascal, người anh cả mà nó đã phớt lờ trong ba hoặc bốn năm đầu đời. Hôm nay, nó cảm thấy thích thú rõ ràng khi được cuộn mình trong vòng tay ôm ấp của Pascal, hay nấp sau lưng anh trước mặt những người lạ. Có thể là do giấc ngủ bị gián đoạn đó mà Pascal sẵn sàng đi giày trái trước giày phải để phù hợp với sự cứng nhắc do ám ảnh của em trai mình. Để em trai mình có thể bắt đầu ngày mới mà không cáu kỉnh, không bị đảo lộn quá mức.
***
Chắc là má đúng khi không những bắt tôi phải chia sẻ với anh em ruột mà còn bắt chúng tôi phải chia sẻ với anh chị em họ. Tôi chia sẻ má tôi với chị họ Sao Mai vì má chịu trách nhiệm về việc giáo dục cháu gái của mình. Chúng tôi học cùng trường, cùng lớp như hai chị em sinh đôi, và ngồi cùng cái ghế dài. Đôi khi chị họ tôi thay thế cô giáo của chúng tôi khi cô đi vắng; chị đứng trên bàn cô giáo và vung một cây thước lớn. Chị cũng năm hay sáu tuổi như chúng tôi, nhưng chị không hề mảy may rụt rè sợ hãi trước kẻ mạnh vì, khác với chúng tôi, chị ấy luôn được đặt trên bệ cao. Ngược lại, tôi hẳn sẽ tè ra quần vì không dám đưa tay lên, vì không dám bước ra cửa khi mọi ánh mắt đều đổ dồn vào mình. Chị đã triệt hạ bất kỳ đứa nào chép bài làm của tôi. Chị trừng mắt vào bất cứ ai trêu chọc khiến tôi phải khóc. Chị bảo vệ tôi vì tôi là cái bóng của chị.
Chị kéo cái bóng của mình đi khắp mọi nơi, nhưng đôi khi chị bắt tôi chạy theo sau chị như một con chó, chỉ để cười to.
***
Khi tôi ở bên Sao Mai – mà tôi luôn ở bên Sao Mai – những người phục vụ ở nơi từng là Cung thể thao Sài Gòn không bao giờ mời tôi một ly soda chanh sau khi tôi học đánh quần vợt vì họ đã mang một ly đến cho chị Sao Mai rồi. Bên trong những hàng rào cao lớn của câu lạc bộ sang trọng này là hai hạng người rất khác biệt: tầng lớp tinh hoa và người phục dịch, những vua chúa bé con mặc y phục trắng tinh và những đứa trẻ chân đất nhặt bóng. Tôi không thuộc về bên nào. Tôi chỉ là cái bóng của chị Sao Mai. Tôi đứng sau lưng chị ấy để nghe lén cuộc trò chuyện của ba chị với các đối thủ quần vợt của cậu vào giờ uống trà. Cậu nói về Proust trong khi ăn bánh madeleine, an vị trên chiếc ghế bành bằng mây của mình trên sân thượng của Cung thể thao. Hai chúng tôi theo cậu đi qua những kỷ niệm thời cậu còn là du học sinh ở Paris. Cậu thật hào hứng khi tả những chiếc ghế trong Vườn Luxembourg cũng như khi tả đôi chân của những vũ công cancan; cậu cứ kể mãi không ngừng. Tôi lắng nghe cậu kể chuyện từ sau lưng ghế cậu ngồi, nín thở, như một cái bóng, để không khiến cậu dừng lại.
***
Má tôi thường giận tôi vì tôi quá hạ mình. Má nói với tôi rằng tôi phải bước ra khỏi bóng tối, rèn luyện những đặc điểm nổi bật của mình để mọi người có thể nhìn thấy. Mỗi lần má cố kéo tôi ra khỏi bóng tối, ra khỏi cái bóng của chính mình, tôi lại chìm trong nước mắt đến mức kiệt sức, cho đến khi má bỏ mặc tôi trên băng ghế sau, ngủ thiếp đi trong cái nóng như thiêu đốt của Sài Gòn. Tôi dành nhiều thời gian trên lối xe ra vào nhà người ta hơn là trong phòng khách của họ. Đôi khi tôi bị đánh thức bởi tiếng trẻ con hồn nhiên chạy vòng quanh xe hơi, lè lưỡi cười khúc khích. Má nghĩ rằng cơ bắp của tôi sẽ khỏe hơn khi vật lộn. Dần dà rồi má cũng có thể biến tôi thành phụ nữ, nhưng không bao giờ trở thành công chúa được.
Giờ đây má hối hận vì đã không nuôi dạy tôi thành công chúa, vì má không phải là hoàng hậu của con gái mình như cách cậu Hai là vua với các con của cậu. Cậu Hai duy trì địa vị hoàng gia cho đến khi qua đời, mặc dù cậu chưa bao giờ ký giấy cho giáo viên, xem học bạ hay rửa tay bẩn cho con mình. Đôi khi tôi và chị họ may mắn được đi trên chiếc Vespa của cậu tôi, chị đứng trước, tôi ngồi sau. Tôi và chị Sao Mai đã nhiều lần đợi cậu tới đón dưới gốc cây me trước cổng trường tiểu học, cho đến khi người lao công khóa cửa cổng sau lưng chúng tôi. Ngay cả những người bán xoài ngâm, ổi muối ớt và củ đậu ướp lạnh cũng đã rời khỏi chỗ vỉa hè trước cổng trường; khi tôi và Mai đã lóa mắt vì nắng chiều thì mới thấy cậu từ xa đi tới, tóc bay bay trong gió, miệng nở nụ cười rực lửa, có một không hai.
Cậu thường ôm chúng tôi vào lòng và ngay lập tức, chúng tôi không chỉ biến thành công chúa, mà trong mắt cậu, chúng tôi còn là những cô gái xinh đẹp nhất, được đánh giá cao nhất. Khoảnh khắc hưng phấn đó chỉ kéo dài đến cuối hành trình: chẳng mấy chốc cậu sẽ có một người phụ nữ trong vòng tay, mà hiếm khi cùng một người, họ lần lượt trở thành công chúa trong chốc lát của cậu. Hai chúng tôi phải đợi cậu trong phòng khách cho đến khi công chúa mới không còn là công chúa nữa. Mỗi người phụ nữ đó đều hài lòng khi nghĩ rằng mình là người được chọn, ngay cả khi họ biết rõ họ chỉ là một trong nhiều người.
***
Ba má tôi phê phán rất gay gắt thái độ buông thả của cậu Hai. Đó là lý do tại sao, dù cậu Hai không hề dặn tôi, tôi cũng không bao giờ nói về những lần chờ đợi dài đằng đẵng bên ngoài trường học hay những buổi tối trong phòng khách của những người phụ nữ không quen biết. Nếu tôi vạch trần cậu, cậu sẽ không được phép đón chúng tôi nữa. Tôi sẽ đánh mất cơ hội làm công chúa, khi thấy nụ hôn của mình biến thành bông hoa trên má cậu. Ba mươi năm sau, má muốn tôi đặt lên má mình những nụ hôn biến thành hoa đó. Có lẽ tôi đã trở thành công chúa trong mắt má rồi. Nhưng tôi chỉ là con gái của má, chỉ là con gái thôi.
Từ Quebec, má tôi gửi tiền cho các con trai của cậu Hai để họ có thể vượt biên bằng thuyền như chúng tôi đã làm. Sau làn sóng thuyền nhân đầu tiên vào cuối những năm 1970, việc đưa các cô gái ra biển không còn hợp lý nữa vì chạm trán với cướp biển đã trở thành điều không thể tránh khỏi, một nghi thức của cuộc hành trình, một chấn thương không thể tránh khỏi. Vì vậy, chỉ có hai cậu con trai lớn lên đường chạy trốn. Họ đã bị bắt trong chuyến đi. Cha họ, cậu Hai của tôi, vua của tôi, đã lên án con mình… Có phải vì sợ hai con bị lạc trên biển hay vì sợ liên lụy đến mình? Khi nghĩ lại, tôi tự nhắc nhủ mình rằng cậu không thể nói với hai con rằng cậu chưa bao giờ là ba, mà chỉ là vua của họ mà thôi. Cậu Hai hẳn đã sợ bị vạch mặt công khai là một kẻ chống Cộng. Cậu chắc chắn sợ quay trở lại quảng trường, nơi từng thuộc về cậu chỉ một thời gian ngắn trước đó… Nếu lúc đó tôi được lên tiếng, tôi sẽ bảo cậu đừng lên án con mình. Tôi sẽ nói với cậu rằng tôi chưa bao giờ để lộ việc cậu đến muộn hoặc đề cập đến hành động hoang đàng của cậu.
***
Jeanne, nàng tiên tốt bụng của chúng tôi với chiếc áo phông, quần bó màu hồng và một bông hoa cài trên tóc, đã giải phóng tiếng nói của tôi mà không cần dùng đến lời nói. Chị nói chuyện với chúng tôi – chín học sinh Việt Nam của mình tại trường tiểu học Sainte – Famille – bằng âm nhạc, bằng ngón tay, bằng bờ vai. Chị chỉ cho chúng tôi cách chiếm lĩnh không gian xung quanh mình bằng cách thả lỏng cánh tay, nâng cằm lên và hít thở sâu. Chị lượn quanh chúng tôi như một nàng tiên, đôi mắt vuốt ve chúng tôi từng người một. Cái cổ duỗi ra tạo thành một đường liên tục với vai, với cánh tay, cho đến tận đầu ngón tay. Đôi chân chuyển động thành những vòng tròn lớn như muốn quét các bức tường, khuấy động không khí. Nhờ có Jeanne mà tôi đã học được cách giải phóng tiếng nói của mình ra khỏi thanh quản để có thể chạm đến đôi môi.
***
Tôi đã dùng giọng của mình để đọc cho cậu Hai nghe ngay trước khi cậu mất, ngay giữa lòng Sài Gòn, một số đoạn hoa tình trong Particules élémentaires của Houellebecq. Tôi không còn muốn làm công chúa nữa, tôi muốn trở thành thiên thần của cậu, nhắc cậu nhớ rằng cậu đã nhúng ngón tay của tôi vào kem đánh bông ở quán cà phê Viennois khi hát Besame, besame mucho…
Thân xác cậu, dù đã nguội lạnh, dù đã cứng đờ, được vây quanh không chỉ bởi những đứa con, bởi những người vợ – cả cũ lẫn mới – bởi những anh chị em của cậu, mà còn bởi những người không hề quen biết. Hàng ngàn người đến để thương tiếc cái chết của cậu. Một số mất người yêu, một số mất người phóng viên thể thao, những người khác mất một cựu thành viên quốc hội, mất một nhà văn, họa sĩ, tay chơi poker của mình.
Trong số những người này có một quý ông rõ ràng là nghèo túng. Ông mặc áo sơ mi có cổ đã ố vàng và quần đen nhàu nhĩ được giữ bằng cái thắt lưng đã cũ. Ông đứng từ xa, dưới bóng cây phượng trĩu hoa đỏ rực màu lửa, bên cạnh chiếc xe đạp Trung Quốc lấm lem bùn đất. Ông đã đợi hàng giờ để theo đoàn đưa tang đến nghĩa địa, nằm ở ngoại ô thành phố, trong khuôn viên của một ngôi chùa Phật giáo. Ở đó, ông lại đứng sang một bên, im lặng và bất động. Một trong những người dì của tôi đã đến và hỏi ông ấy tại sao lại phải đạp xe cả quãng đường dài như vậy. Ông có quen biết cậu tôi không? Ông trả lời rằng ông không quen biết cậu tôi nhưng chính nhờ những lời nói của cậu mà ông vẫn còn sống, để thức dậy mỗi sáng. Ông đã mất thần tượng của mình. Tôi thì không. Tôi không mất đi thần tượng hay đức vua của mình, chỉ mất đi một người bạn đã kể cho tôi nghe những câu chuyện của mình về phụ nữ, về chính trị, hội họa, sách; và chủ yếu là về sự phù phiếm, bởi vì cậu tôi chưa già đi trước khi mất. Cậu đã làm ngừng thời gian bằng cách tiếp tục tận hưởng, để sống đến tận cùng với cái nhẹ tênh của một người trai trẻ.
Vì vậy, có lẽ má tôi không cần làm nữ hoàng của tôi; chỉ đơn giản làm mẹ tôi là đã quá nhiều rồi, cho dù những nụ hôn hiếm hoi mà tôi đặt lên má bà cũng kém uy nghi.
***
Má tôi ghen tị với sự thiếu trách nhiệm của cậu tôi, hay đúng hơn là khả năng của cậu trong việc đó. Bất chấp bản thân, má cũng ghen tị với địa vị vua và hoàng hậu của anh trai và các em gái mình. Giống như anh trai má, các em gái má cũng được con cái thần tượng vì nhiều lý do, người thì xinh đẹp nhất, người thì tài năng nhất, người thì thông minh nhất… Trong mắt các anh chị em họ tôi, má họ luôn luôn là số một. Đối với tất cả chúng tôi, kể cả các dì và anh chị em họ tôi, má tôi chỉ là người đáng sợ. Khi còn là cô gái trẻ, má đã là hiện thân của nhân vật có quyền uy cao nhất. Má sốt sắng áp đặt vai trò chị gái của mình lên những đứa em nhỏ, vì bà muốn thoát khỏi người anh lớn của mình, người luôn ngấu nghiến mọi thứ hiện diện xung quanh.
Vì vậy, má đã đảm nhận nhiệm vụ của người đàn ông trong gia đình, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Mẹ Bề trên, Giám đốc điều hành của cả họ. Bà ra quyết định, đưa ra những hình phạt, trừng trị những kẻ vi phạm, bịt miệng những người chống đối… Ông tôi, với tư cách là chủ tịch hội đồng quản trị, đã không quan tâm đến các công việc hàng ngày. Bà tôi một tay nuôi con nhỏ và hồi phục sức khỏe sau nhiều lần sảy thai. Theo má tôi, cậu Hai là hiện thân của tính ích kỷ, tự cao tự đại. Và vì thế, má được lập làm người quản lý của cơ quan quyền lực tối cao. Tôi nhớ có hôm bà tôi còn không dám bảo má mở khóa cửa nhà tắm thả mấy đứa em đang bị phạt vì đi chơi với cậu Hai mà không được phép của má tôi. Khi còn là một cô gái trẻ, bà đã thực thi quyền lực của mình – một cách ngây thơ – bằng bàn tay sắt. Sự trả thù của bà đối với sự thờ ơ bỏ mặc của anh trai mình và cách bọn trẻ tôn sùng cậu ấy được vạch ra một cách kém cỏi, bởi vì các em tiếp tục chơi trong phòng tắm và làm điều đó khi không có má. Tất cả niềm vui của tuổi thơ tuột khỏi tay má trong khi, nhân danh phép tắc, má cấm các em gái mình khiêu vũ.
***
Tuy nhiên, mười năm trở lại đây, má tôi đã khám phá ra niềm vui của khiêu vũ. Má đã chịu để bạn bè thuyết phục mình rằng điệu tango, cha-cha-cha và paso doble có thể thay thế các bài tập thể dục, rằng chúng chẳng có gì gợi cảm, quyến rũ hay say sưa cả. Tuy nhiên, kể từ khi má tham gia lớp học khiêu vũ hàng tuần, thỉnh thoảng má nói rằng ước gì trước đây mình có thể tách khỏi những ngày tham gia chiến dịch tranh cử để đến với những bữa tiệc nơi anh trai má, ba tôi và hàng chục ứng cử viên trẻ tuổi khác vui đùa quanh một bàn tiệc. Ngoài ra, hôm nay má tìm kiếm bàn tay của ba ở một rạp phim và nụ hôn của ba lên má khi tạo dáng chụp ảnh.
Má bắt đầu sống, để cho mình được cuốn đi, để làm mới mình ở tuổi năm mươi lăm.
***
Về phần ba tôi, ông không cần phải sáng tạo lại chính mình. Ông là người sống trong hiện tại, không có tình cảm với quá khứ. Ông tận hưởng từng khoảnh khắc của hiện tại như thể đó vẫn là khoảng thời gian đẹp nhất và duy nhất, không so sánh, không cân đo đong đếm. Đó là lý do tại sao ông luôn khơi dậy niềm hạnh phúc lớn nhất, tuyệt vời nhất, dù là cầm cây lau nhà trên bậc thềm khách sạn hay ngồi trong chiếc limousine trên đường đến cuộc họp chiến lược với bộ trưởng của mình.
Tôi được thừa hưởng từ ba tôi cảm giác mãn nguyện thường trực ấy. Tuy nhiên, ông đã tìm thấy nó ở đâu? Có phải vì ông là đứa con thứ mười? Hay vì ông đã chờ đợi quá lâu để người cha bị bắt cóc của mình được thả? Trước khi người Pháp rời Việt Nam, trước khi người Mỹ đến, nông thôn Việt Nam đã bị khủng bố bởi các phe nhóm côn đồ do nhà cầm quyền Pháp đưa vào để chia cắt đất nước. Việc bán một cái đinh cho những gia đình giàu có để buộc họ trả tiền chuộc cho những người bị bắt cóc là một thông lệ. Nếu cái đinh không được mua, nó sẽ được đóng vào dái tai – hoặc nơi khác – trên nạn nhân bị bắt cóc. Ông tôi cũng chịu một cái đinh như thế được mua bởi gia đình ông. Khi về đến nhà, ông gửi ngay các con lên trung tâm thành phố sống với các anh em họ, qua đó đảm bảo an toàn và cơ hội tiếp cận giáo dục. Từ rất sớm, ba tôi đã học cách sống xa ba má, từ bỏ nhiều nơi chốn, biết yêu quý hiện tại và buông bỏ mọi ràng buộc với quá khứ.
***
Đó là lý do tại sao ba không bao giờ tò mò muốn biết ngày sinh thực sự của mình. Ngày chính thức được ghi trên giấy khai sinh của ông tại tòa thị chính ứng với cái ngày không có bom đạn, không có mìn nổ, không có con tin bị bắt. Các bậc cha mẹ có thể đã nghĩ rằng sự tồn tại của con cái họ bắt đầu vào ngày đầu tiên cuộc sống trở lại bình thường, chứ không phải vào giây phút chúng thở hơi thở đầu tiên.
Tương tự như vậy, ba chưa bao giờ cảm thấy cần phải thăm lại Việt Nam sau khi rời đi. Hôm nay, những người từ nơi sinh của ba đến thăm thay mặt cho các nhà phát triển bất động sản, đề nghị ba xin chứng thư cho ngôi nhà của ông nội. Họ nói rằng mười gia đình giờ đang sống ở đó. Lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy ngôi nhà, nó đã được sử dụng như một doanh trại bởi những người lính Cộng sản được chuyển sang làm lính cứu hỏa. Những người lính đó lập gia đình trong một ngôi nhà lớn. Họ có biết mình đang ở trong một tòa nhà do một kỹ sư tốt nghiệp trường Quốc gia Cầu đường Pháp danh tiếng xây dựng? Họ có biết ngôi nhà là lời cảm ơn của ông thúc bá tôi gửi đến ông nội tôi, anh trai mình, người đã gửi ông sang Pháp học? Họ có biết rằng mười đứa trẻ đã được nuôi dưỡng ở đó nhưng hiện đang sống ở mười thành phố khác nhau vì đã bị đẩy ra khỏi vòng tay gia đình? Không, họ không biết gì cả. Họ không thể biết: họ được sinh ra sau khi người Pháp rút lui và trước khi phần lịch sử đó của Việt Nam được dạy cho họ. Có lẽ họ chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt người Mỹ ở gần mà không có ngụy trang, cho đến khi những du khách đầu tiên đến thị trấn của họ cách đây vài năm. Họ chỉ biết rằng nếu cha tôi lấy lại ngôi nhà và bán nó cho một nhà đầu tư, họ sẽ nhận được một khoản tài sản nhỏ, phần thưởng cho việc nhốt ông bà nội tôi trong căn phòng nhỏ nhất trong ngôi nhà của họ trong những tháng cuối đời.
Có những đêm, những người lính cứu hỏa, say xỉn, bắn xuyên rèm cửa để ông tôi câm lặng. Nhưng ông đã ngừng nói sau cơn đột quỵ, chuyện đó xảy ra trước cả khi tôi ra đời. Tôi chưa bao giờ nghe thấy giọng nói của ông.
***
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông nội của tôi ở bất kỳ tư thế nào ngoài nằm ngang, duỗi người trên chiếc giường đi văng bằng gỗ mun khổng lồ có chân chạm khắc. Ông luôn mặc bộ đồ ngủ màu trắng tinh tươm không một nếp nhăn. Cô Năm, chị của cha tôi, người đã từ bỏ hôn nhân để chăm sóc ba má, luôn canh chừng sự sạch sẽ của ông tôi một cách đầy ám ảnh. Cô sẽ không chịu nổi dù chỉ một vết nhỏ nhặt nhất hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của sự thiếu chú ý. Đến giờ ăn, một người giúp việc ngồi sau lưng ông để giữ cho ông thẳng lưng, trong khi cô tôi đút cho ông ăn từng miếng một. Món ăn yêu thích của ông là cơm với thịt heo quay. Những lát thịt heo được cắt mịn đến mức giống như được băm nhỏ. Nhưng chúng không được băm quá nhỏ, mà chỉ được cắt thành những miếng nhỏ hai milimét vuông. Cô trộn chúng với cơm trắng đựng trong một cái chén màu xanh và trắng có viền bạc quanh miệng để tránh sứt mẻ. Nếu những cái chén được đưa ra phơi ngoài nắng, người ta có thể nhìn thấy những phần trong mờ ở chỗ có chạm nổi. Chất lượng của chúng được khẳng định bởi ánh sáng lấp lánh làm lộ ra sắc xanh lam ở các hoa văn. Những cái chén nép mình dịu dàng trong tay cô tôi mỗi bữa ăn, mỗi ngày, trong nhiều thập niên. Cô thường cầm trên tay một cái bánh gạo, mỏng và ấm, thêm vài giọt nước tương và một miếng bơ Bretel nhỏ nhập từ Pháp đựng trong hộp thiếc màu đỏ có chữ vàng. Thỉnh thoảng tôi cũng được thưởng thức bánh gạo này khi chúng tôi đến thăm ông.
Hôm nay, ba tôi làm món này cho các con trai tôi khi được bạn bè từ Pháp về cho một ít bơ Bretel. Các anh trai tôi chế giễu ba tôi một cách trìu mến vì ông dùng những từ so sánh nhất thái quá để mô tả thứ bơ đóng hộp đó. Dù vậy, tôi đồng ý với ông. Tôi yêu mùi hương của bơ này vì nó làm tôi nhớ đến ông nội tôi, người đã chết với những người lính cứu hỏa.
Tôi cũng thích dùng những cái chén màu xanh có viền bạc để bày món kem cho các con trai của mình. Đó là những đồ vật duy nhất mà tôi xin từ cô tôi, người đã bị đuổi ra khỏi nhà sau cái chết của ông bà nội tôi. Cô trở thành một Phật tử, sống trong một túp lều sau một đồn điền trồng cọ, không có của cải vật chất gì ngoại trừ cái giường gỗ không nệm, cái quạt gỗ đàn hương và bốn cái chén màu xanh của cha mình. Cô do dự một thoáng trước khi nghe theo thỉnh cầu của tôi: những cái chén tượng trưng cho sự gắn bó cuối cùng của cô với bất kỳ mối quan tâm trần tục nào. Cô mất ngay sau khi tôi đến thăm túp lều ấy, quanh cô là các sư sãi đến từ một ngôi chùa gần đó.
***
Tôi về Việt Nam làm việc đã ba năm nhưng chưa một lần về thăm quê nội cách Sài Gòn hai trăm năm mươi cây số. Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi thường nôn mửa suốt đường đi bất cứ khi nào tôi thực hiện hành trình kéo dài mười hai tiếng đồng hồ đó, mặc dù má tôi đã đặt gối trên sàn xe để giữ cho tôi nằm yên. Những con đường bị thủng với những vết nứt sâu. Phiến quân cộng sản gài mìn vào ban đêm và những người lính thân Mỹ rà phá chúng vào ban ngày. Tuy nhiên, đôi khi một quả mìn phát nổ. Thế là, chúng tôi phải đợi hàng giờ để những người lính lấp hố mìn và thu dọn xác người. Một ngày nọ, một người phụ nữ bị xé thành từng mảnh, bao quanh là những bông bí màu vàng, nằm vương vãi, xác xơ. Chắc là cô ấy đang trên đường ra chợ để bán rau. Có lẽ họ cũng tìm thấy xác của đứa bé con cô bên vệ đường. Hay không phải. Có thể, chồng cô đã chết trong rừng trước đó. Cũng có thể, cô ấy là người phụ nữ đã mất người mình thương yêu bên ngoài ngôi nhà của ông ngoại tôi, tỉnh trưởng.
Một ngày nọ, khi chúng tôi đang ẩn sâu trong bóng tối của chiếc xe thùng trên đường đi hái dâu tây hay đậu, má kể cho tôi nghe về một người phụ nữ, một người làm công nhật, người thường đợi chủ của mình ở chỗ đối diện với nhà của ông ngoại tôi vào mỗi buổi sáng. Và mỗi sáng người làm vườn của ông tôi mang cho cô ấy một phần xôi gói trong lá chuối. Mỗi sáng, đứng trên chiếc xe tải chở mình vào rừng cao su, cô nhìn người làm vườn đi khuất giữa vườn hoa giấy. Một sáng nọ, cô không còn thấy anh băng qua con đường đất để mang bữa ăn sáng đến cho cô nữa. Rồi một buổi sáng khác… và một buổi sáng khác nữa. Một đêm nọ, cô ấy đưa cho má tôi một tờ giấy viết đậm những dấu chấm hỏi, ngoài ra không còn gì khác. Má tôi không bao giờ gặp lại cô ấy trên chiếc xe tải đầy công nhân. Cô gái trẻ đó không bao giờ trở lại đồn điền hay vườn hoa giấy. Cô biến mất mà không biết rằng người làm vườn đã vô vọng xin phép cha mẹ mình để được cưới cô. Không ai nói với cô ấy rằng ông tôi đã chấp nhận yêu cầu của cha mẹ người làm vườn để gửi anh ấy đến một thị trấn khác. Không ai nói với cô rằng người làm vườn, tình yêu của cô, đã buộc phải ra đi, không thể để lại cho cô một lá thư bởi cô không biết chữ, bởi cô là một thiếu nữ mà lại đi làm cùng với đàn ông, bởi da cô đen thui vì nắng cháy.
***
Bà Girard cũng có làn da rám nắng như vậy mặc dù bà không làm việc trên ruộng dâu tây hay ngoài đồn điền. Bà Girard đã thuê má tôi dọn dẹp nhà cửa mà không biết rằng má chưa bao giờ cầm chổi trước ngày đầu tiên đi làm. Bà Girard là một phụ nữ có mái tóc vàng kim giống như Marilyn Monroe, với đôi mắt xanh, xanh lam, ông Girard, người cao, tóc nâu, là chủ nhân đầy tự hào của một chiếc ô tô kiểu cổ bóng loáng. Ông bà thường mời chúng tôi đến ngôi nhà màu trắng của họ với bãi cỏ được cắt tỉa hoàn hảo và những khóm hoa bố trí dọc lối vào và trong nhà, mỗi phòng đều được lót thảm. Họ chính là hiện thân của giấc mơ Mỹ của chúng tôi.
Con gái của họ đã mời tôi đến các cuộc thi trượt patin của mình. Chị ấy trao lại cho tôi những chiếc váy đã trở nên quá nhỏ, một trong số đó là chiếc váy suông bằng vải bông màu xanh lam với những bông hoa nhỏ màu trắng và hai dây buộc trên vai. Tôi mặc nó vào mùa hè, và cả mùa đông bên ngoài chiếc áo cổ lọ màu trắng. Trong những mùa đông đầu tiên của chúng tôi, chúng tôi không biết rằng mọi loại quần áo đều có mùa của nó, rằng chúng tôi đơn giản không được mặc tất cả những thứ quần áo mình có. Khi trời lạnh, không còn phân biệt, không biết phân loại y phục, chúng tôi măc đúp áo này lên áo kia, hết lớp này đến lớp khác, như những người vô gia cư.
***
Cha tôi đã lần tìm được ông Girard ba mươi năm sau. Ông không còn sống trong ngôi nhà cũ nữa, vợ ông đã bỏ ông và con gái thì đang đi nghỉ, đang tìm kiếm một mục đích, một cuộc sống. Khi cha tôi báo cho tôi biết tin này, tôi gần như cảm thấy có lỗi. Tôi tự hỏi phải chăng chúng tôi đã không hề vô tình đánh cắp giấc mơ Mỹ của ông Girard bởi vì quá ham muốn giấc mơ đó.
***
Ba mươi năm sau, tôi cũng tìm được người bạn đầu tiên, Johanne. Bạn ấy không nhận ra tôi, dù qua điện thoại hay gặp trực tiếp, bởi bạn chưa bao giờ nghe tôi nói, bởi trước đây chúng tôi chưa bao giờ trò chuyện vì biết tôi bị câm điếc. Bạn ấy không thực sự nhớ mình đã muốn trở thành bác sĩ phẫu thuật, trong khi tôi luôn trả lời các cố vấn hướng dẫn ở trường trung học rằng tôi thích ngành phẫu thuật, giống như Johanne vậy.
Các cố vấn hướng dẫn thường gọi tôi lên văn phòng của họ hàng năm vì có một khoảng cách rõ ràng giữa điểm số của tôi và kết quả kiểm tra IQ của tôi, gần như là kém cỏi. Làm sao tôi không tìm ra được từ khác loại trong loạt từ “ống tiêm, dao mổ, hộp sọ, cái khoan” trong khi tôi có thể thuộc lòng một đoạn văn về Jacques Cartier? Tôi chỉ nắm vững những gì đã được dạy riêng cho tôi, truyền lại cho tôi, trao tặng cho tôi. Đó là lý do tại sao tôi hiểu từ bác sĩ phẫu thuật nhưng không hiểu từ cưng hay tiệm tắm nắng hay cưỡi trên lưng ngựa. Tôi có thể hát quốc ca nhưng không hát được bài “The Chicken Dance” hay bài hát chúc mừng sinh nhật. Tôi tích lũy kiến thức một cách ngẫu nhiên, giống như con trai Henri của tôi, nó có thể phát âm poire nhưng không phát âm được maman, bởi vì quá trình học tập của chúng tôi không điển hình, đầy những đoạn đường vòng vèo và khúc khuỷu, không có sự tăng dần, không có logic. Tôi cũng đã định hình ước mơ của mình theo cách tương tự, qua các cuộc gặp gỡ, qua bạn bè và những người khác.
Đối với nhiều người nhập cư, giấc mơ Mỹ đã trở thành hiện thực. Khoảng ba mươi năm trước, ở Washington, Quebec, Boston, Rimouski hay Toronto, chúng tôi thường đi qua toàn bộ những khu phố với những vườn hồng trải rộng, những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi, những ngôi nhà bằng đá, nhưng những địa chỉ mà chúng tôi đang tìm kiếm không bao giờ xuất hiện trên một trong những những cánh cửa đó. Bây giờ, dì Sáu của tôi và chồng dì, dượng Sáu, sống ở một trong những ngôi nhà đó. Họ đi lại trên khoang hạng nhất và phải dán một tấm biển ở phía sau ghế để các nữ tiếp viên ngừng mời họ sô cô la và sâm-banh. Ba mươi năm trước, trong trại tị nạn Mã Lai của chúng tôi, cũng chính dượng Sáu bò còn chậm hơn đứa con gái tám tháng tuổi vì bị suy dinh dưỡng. Và cũng chính dì Sáu dùng cái kim khâu mà mình có để may quần áo mà kiếm tiền mua sữa cho con gái. Ba mươi năm trước, chúng tối sống trong bóng tối cùng nhau, không có điện, không có nước máy, không có sự riêng tư. Ngày nay, chúng tôi phàn nàn rằng ngôi nhà của dì dượng quá lớn và đại gia đình của chúng tôi thì quá nhỏ để có thể trải nghiệm cùng một cường độ các lễ tiệc – kéo dài đến tận bình minh – như khi chúng tôi thường tụ tập tại nhà của ba má tôi trong những năm đầu tiên ở Bắc Mỹ.
Chúng tôi có 25 người, đôi khi là 30 người, đến Montreal từ Fanwood, Montpelier, Springfield, Guelph, cùng nhau sống trong một căn hộ nhỏ, ba phòng ngủ trong suốt kỳ nghỉ Giáng sinh. Bất cứ ai muốn ngủ một mình phải di chuyển vào bồn tắm. Điều không thể tránh khỏi là những cuộc trò chuyện, những tràng cười và những cuộc cãi vã diễn ra suốt đêm. Mỗi món quà chúng tôi dành tặng nhau đều là món quà thật sự, bởi vì nó thể hiện sự hy sinh và nó đáp ứng một nhu cầu, một mong muốn hay ước mơ. Chúng tôi đã quá quen thuộc với những giấc mơ của những người gần gũi và thân yêu nhất của mình: những người mà có lúc chúng tôi đã nằm sát chặt bên nhau nhiều đêm liền. Hồi đó, tất cả chúng tôi đều có những giấc mơ giống nhau. Trong một thời gian dài, chúng tôi bắt buộc phải có cùng một giấc mơ, đó là giấc mơ Mỹ.
***
Khi tôi mười lăm tuổi, dì Sáu của tôi, lúc đó đang làm việc trong một nhà máy chế biến thịt gà, đã đưa cho tôi một hộp trà vuông bằng nhôm có in hình các loại rượu mạnh của Trung Quốc, cây anh đào và đám mây màu đỏ, vàng và đen. Dì Sáu đã viết vào mỗi tờ trong mười mảnh giấy, gấp đôi bỏ vào hộp trà, tên một nghề, một nghiệp, một ước mơ mà dì dành cho tôi: nhà báo, thợ làm tủ, ngoại giao, luật sư, thiết kế thời trang, tiếp viên hàng không, nhà văn, nhân viên nhân đạo, giám đốc, chính trị gia. Nhờ món quà đó mà tôi biết được có những nghề khác ngoài nghề y, và tôi được phép mơ những giấc mơ của chính mình.
***
Tuy nhiên, một khi đã đạt được, giấc mơ Mỹ, nó sẽ không bao giờ rời bỏ chúng tôi, giống như một bộ phận cấy ghép hay một khối u vậy. Lần đầu tiên tôi đi giày cao gót, mặc váy thẳng và xách cặp đến một nhà hàng-trường học dành cho trẻ em kém may mắn ở Hà Nội, người phục vụ bàn trẻ tuổi không hiểu tại sao tôi lại nói chuyện với em bằng tiếng Việt. Lúc đầu tôi nghĩ em ấy không hiểu giọng miền nam của tôi. Nhưng, vào cuối bữa ăn, em thẳng thắn nói với tôi rằng tôi béo quá nên không thể là người Việt Nam được.
Tôi đã dịch lời nhận xét đó cho những người chủ của mình, họ vẫn cười về điều đó đến tận hôm nay. Sau này tôi mới hiểu rằng em ấy không nói về cân nặng 45 kí của tôi mà là về giấc mơ Mỹ đã khiến tôi trở nên to hơn, nặng hơn, có trọng lượng hơn. Giấc mơ Mỹ đó đã mang đến cho tôi tự tin trong giọng nói, quyết tâm trong hành động, chính xác trong ham muốn, tốc độ trong dáng đi và sức mạnh trong ánh nhìn của tôi. Giấc mơ Mỹ đó khiến tôi tin rằng mình có thể có mọi thứ, tôi có thể đi khắp nơi trên chiếc xe có tài xế riêng trong khi ước lượng sức nặng của quả bí do một người phụ nữ với đôi mắt nhòe đi vì mồ hôi chở trên chiếc xe đạp rỉ sét; tôi có thể nhảy theo cùng nhịp điệu với những cô gái lắc hông ở quán bar để làm lóa mắt những người đàn ông có những chiếc túi dày cộp đầy căng đô la Mỹ; tôi có thể sống trong căn biệt thự hoành tráng của một người nước ngoài xa xứ và cùng những đứa trẻ chân đất đến ngôi trường nằm ngay bên vỉa hè, nơi hai con phố giao nhau.
Nhưng người phục vụ trẻ nhắc tôi nhớ rằng tôi không thể có tất cả, rằng tôi không còn quyền tuyên bố mình là người Việt Nam vì tôi không còn sự mong manh, sự bấp bênh và nỗi sợ hãi của họ nữa. Và em đã đúng khi nhắc nhở tôi điều đó.
***
Vào khoảng thời gian đó, người chủ của tôi, có trụ sở tại Quebec, đã cắt một bài báo từ một tờ báo ở Montreal nhắc lại rằng “quốc gia Québéc” là của người da trắng, rằng đôi mắt xếch của tôi tự động xếp tôi vào một thể loại riêng, dù Quebec đã cho tôi mơ giấc mơ Mỹ của mình, dù nó đã nâng niu tôi suốt ba mươi năm trời. Thế thì biết thích ai dây? Không ai cả hay tất cả mọi người? Tôi đã chọn thích quý ông đến từ Saint – Félicien, người đã yêu cầu tôi bằng tiếng Anh dành cho anh mình một điệu nhảy. “Hãy theo chàng trai ấy,” anh ấy nói với tôi. Tôi cũng thích người đạp xe xích lô ở Đà Nẵng đã hỏi tôi được trả bao nhiêu để đi theo ông chồng “da trắng”. Và tôi thường nghĩ về người đàn bà bán đậu phụ năm xu một chiếc, ngồi dưới đất trong một góc khuất của một khu chợ ở Hà Nội, nói với người hàng xóm rằng tôi từ Nhật Bản đến và đang tiến bộ rất nhiều với tiếng Việt của mình.
Cô ấy đã đúng. Tôi phải học lại tiếng mẹ đẻ, thứ tiếng mà tôi đã từ bỏ quá sớm. Trong mọi trường hợp, tôi đã không thực sự làm chủ nó hoàn toàn vì đất nước bị chia đôi khi tôi sinh ra. Tôi đến từ miền Nam, vì vậy tôi chưa bao giờ nghe người miền Bắc nói cho đến khi tôi trở lại Việt Nam. Cũng như vậy, người miền Bắc chưa từng nghe tiếng người miền Nam trước ngày thống nhất. Giống như Canada, Việt Nam có hai nỗi cô đơn của riêng mình. Ngôn ngữ của miền Bắc Việt Nam đã phát triển phù hợp với hoàn cảnh chính trị, xã hội và kinh tế lúc bấy giờ, với những từ mô tả cách bắn hạ máy bay bằng khẩu súng máy đặt trên mái nhà, cách sử dụng bột ngọt để làm cầm máu nhanh hơn, cách phát hiện ra nơi trú ẩn khi còi báo động vang lên. Trong khi đó, tiêng Việt miền Nam đã tạo ra những từ để diễn tả cảm giác Coca – Cola sủi bọt trên lưỡi, thuật ngữ gọi tên gián điệp, phiến quân, cảm tình viên Cộng sản trên đường phố miền Nam, và những cái tên để chỉ những đứa trẻ sinh ra từ những đêm hoang dã với lính Mỹ.
***
Nhờ lính Mỹ mà dượng Sáu của tôi mới có thể mua được chỗ đi vượt biên cho mình và vợ, dì Sáu của tôi, và đứa con gái rất nhỏ trên cùng một chiếc thuyền với chúng tôi. Ba má của người dượng đó trở nên rất giàu có nhờ nước đá. Lính Mỹ thường mua cả cây dài một mét, rộng và dày hai mươi phân để đặt dưới gầm giường của họ. Họ cần hạ nhiệt sau nhiều tuần toát mồ hôi vì sợ hãi trong rừng rậm Việt Nam. Họ cần sự an ủi của con người, nhưng không muốn cảm thấy hơi nóng từ cơ thể của chính họ hoặc của những người phụ nữ được thuê theo giờ.
Họ cần những làn gió mát của Vermont hoặc Montana. Họ cần sự mát mẻ đó để trong giây lát họ có thể ngừng nghi ngờ có một quả lựu đạn được giấu trong tay của mọi đứa trẻ đang chạm vào những sợi lông trên tay họ. Họ cần cái lạnh đó để không đầu hàng những đôi môi đầy đặn thì thầm vào tai họ những lời yêu thương giả dối, để xua đi tiếng kêu khóc của những người đồng đội với xác thân tan nát. Họ cần phải lạnh lùng để bỏ mặc những người phụ nữ đã sinh con với họ mà không bao giờ quay lại gặp họ, không bao giờ họ để lộ danh tánh của mình.
Hầu hết những đứa con của lính Mỹ trở thành trẻ mồ côi, vô gia cư, bị tẩy chay không chỉ vì nghề nghiệp của mẹ chúng mà còn vì cha chúng nữa. Chúng là mặt khuất của cuộc chiến. Ba mươi năm sau khi người lính Mỹ cuối cùng rời đi, Hoa Kỳ đã quay trở lại Việt Nam thay mặt những người lính của họ để phục hồi những đứa trẻ chịu thiệt thòi đó. Chính phủ đã cấp cho họ một danh tính hoàn toàn mới để xóa bỏ danh tính đã bị hoen ố. Một số trẻ em lần đầu tiên có địa chỉ, nơi ở, cuộc sống đầy đủ. Tuy nhiên, một số không thích nghi được với sự giàu có như thế.
Một lần, khi tôi đang làm phiên dịch cho cảnh sát New York, tôi đã gặp một trong những đứa trẻ đó, giờ đã trưởng thành. Cô gái không biết chữ, lang thang trên đường phố Bronx. Cô ấy đến Manhattan trên một chiếc xe buýt từ một nơi mà cô ấy không thể gọi tên. Cô hy vọng rằng chiếc xe buýt sẽ đưa cô trở lại chiếc giường làm bằng hộp các tông, ngay bên ngoài bưu điện Sài Gòn. Cô khẳng định mình là người Việt Nam. Dù cô ấy có nước da ngăm đen, mái tóc dày dợn sóng, dòng máu châu Phi, những vết sẹo sâu hoắm, cô ấy là người Việt Nam, chỉ người Việt Nam thôi, cô ấy lặp đi lặp lại không ngừng. Cô ấy cầu xin tôi dịch cho viên cảnh sát cô mong muốn được trở lại khu rừng rậm của chính mình. Nhưng viên cảnh sát chỉ có thể thả cô vào khu rừng rậm của Bronx. Giá mà có thể, tôi hẳn đã yêu cầu cô ấy sà vào người tôi. Giá mà có thể, tôi hẳn đã xóa sạch khỏi thân thể cô mọi dấu vết mà những bàn tay bẩn thỉu đã để lại. Tôi bằng tuổi cô ấy. Không, tôi không có quyền nói tôi bằng tuổi cô ấy: tuổi của cô được đo bằng số lần mắt nổ đom đóm vì bị đánh đập chứ không phải bằng năm, bằng tháng, bằng ngày.
Nhiều lúc ký ức về người con gái ấy vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi tự hỏi cơ hội sống sót của cô ấy ở thành phố New York là bao nhiêu. Hoặc nếu cô ấy vẫn còn ở đó. Liệu viên cảnh sát có nghĩ về cô ấy thường xuyên như tôi không. Có lẽ dượng Sáu của tôi, người có bằng tiến sĩ thống kê từ Princeton, có thể tính toán được con số rủi ro và trở ngại mà cô ấy đã phải đối mặt.
Tôi thường yêu cầu người dượng ấy làm phép tính, ngay cả khi dượng chưa bao giờ tính quãng đường mà mình đã đi mỗi sáng trong suốt một mùa hè để đưa tôi đến lớp học tiếng Anh, hay số sách dượng mua cho tôi, hay số ước mơ mà dượng và dì đã khiến tôi mơ ước. Tôi cho phép mình hỏi dượng nhiều điều. Nhưng tôi chưa bao giờ dám hỏi liệu dượng có thể tính được xác suất sống sót của ông An hay không.
Ông An đến Granby cùng chuyến xe buýt với gia đình chúng tôi. Mùa đông cũng như mùa hè, ông đứng dựa lưng vào tường, một chân gác lên lan can thấp, ngậm điếu thuốc lá. Ông là hàng xóm của chúng tôi. Trong một thời gian dài, tôi cứ nghĩ ông bị câm. Nếu tôi tình cờ gặp ông hôm nay, tôi sẽ nói rằng ông mắc chứng tự kỷ. Một hôm ông trượt chân do sương mai. Và uỵch một cái, ông bị ngã ngửa. UỴCH! Ông kêu to “UỴCH!” mấy lần rồi phá lên cười. Tôi quỳ xuống đỡ ông dậy. Ông dựa vào tôi, nắm tay tôi, nhưng không đứng dậy. Ông đang khóc. Ông cứ khóc, khóc hoài, rồi bỗng nhiên dừng lại, và xoay mặt tôi về phía bầu trời. Ông hỏi tôi nhìn thấy màu gì. Màu xanh da trời. Rồi ông giơ ngón tay cái lên và chỉ ngón trỏ về vào thái dương tôi, hỏi tôi một lần nữa bầu trời có còn xanh không.
Trước đây công việc của ông An là lau sàn nhà máy làm ủng cao su ở Granby, ông đã từng là một thẩm phán, một giáo sư, một người tốt nghiệp đại học Mỹ, một người cha và một người tù. Giữa mùi cao su và sức nóng của phòng xử án Sài Gòn, trong hai năm, ông đã bị buộc tội làm thẩm phán, kết án những người đồng bào Cộng sản. Trong trại cải tạo, đến lượt ông bị phán xét, mỗi sáng ông phải xếp hàng với hàng trăm người khác cũng thuộc phe thua cuộc trong cuộc chiến.
Khu trại bao quanh bởi rừng rậm đó là chỗ để tù nhân lui về để tự phê bình và viết ra bản tự kiểm điểm, tùy theo thành phần chính trị của họ – phản cách mạng; phản quốc; cộng tác với người Mỹ – và để suy ngẫm về việc chuộc lại lỗi lầm của họ trong khi chặt cây, trồng ngô, rà phá bom mìn.
Ngày nối tiếp nhau như các mắt xích của một sợi dây xích – mắt đầu buộc chặt quanh cổ họ, mắt cuối cùng buộc vào tâm trái đất. Một buổi sáng, ông An cảm thấy sợi xích của mình ngắn lại khi ông bị lôi ra khỏi hàng và bắt quỳ xuống bùn trước những ánh mắt len lén, sợ hãi, trống rỗng của những người đồng nghiệp cũ, thân hình họ chỉ còn da bọc xương trong mớ vải rách. Ông bảo tôi rằng khi kim loại nóng hổi của khẩu súng lục chạm vào thái dương, trong một hành động nổi loạn cuối cùng, ông đã ngẩng đầu lên nhìn bầu trời. Lần đầu tiên, ông có thể nhìn thấy các sắc thái của màu xanh da trời, tất cả đều đậm như nhau. Cùng nhau, chúng khiến ông lóa mắt gần như mù lòa. Cùng lúc đó, ông nghe thấy tiếng cò súng rơi vào im lặng. Không thanh âm, không tiếng nổ, không máu, chỉ có mồ hôi. Đêm đó, những sắc thái màu xanh da trời mà ông đã nhìn thấy lúc ban ngày lướt qua mắt ông như một đoạn phim được chiếu đi chiếu lại.
Ông An đã sống sót. Trời đã cắt đứt xiềng xích cho ông, đã cứu ông, giải thoát ông, trong khi một số người khác chết ngạt, khô héo trong chốn giam cầm, không còn cơ hội để đếm những sắc xanh của bầu trời. Sau đó, hàng ngày, ông tự đặt cho mình nhiệm vụ liệt kê những sắc màu đó – cho những người khác.
***
Ông An đã dạy tôi về sắc thái. Ông Minh thôi thúc tôi viết. Tôi gặp ông Minh trên chiếc ghế băng bằng nhựa màu đỏ trong một nhà hàng Tàu ở Côte-des-Neiges, nơi ba tôi làm công việc giao hàng. Tôi làm bài tập về nhà trong khi chờ ba hết ca. Ông Minh ghi chú cho ba về những đường một chiều, những địa chỉ nhà riêng, những khách hàng cần tránh. Ông đang chuẩn bị để trở thành một người giao hàng nghiêm túc và nhiệt tình như hồi ông học văn học Pháp tại Sorbonne. Ông đã được cứu không phải bởi bầu trời mà bởi viết lách. Ông đã viết một vài cuốn sách trong thời gian ở trại cải tạo – luôn luôn viết trên một mẩu giấy mà ông có được, xong trang này tiếp trang khác, hết chương này tới chương khác, một câu chuyện dài bất tận. Nếu không viết, ông sẽ không nghe thấy tiếng tuyết tan, cây đâm chồi hay mây trôi trên bầu trời. Ông cũng sẽ không nhìn thấy ngõ cụt của một ý tưởng, tàn tích của một ngôi sao hay kết cấu của dấu phẩy. Những đêm khi ông ở trong bếp sơn những con vịt gỗ, ngỗng Canada, vịt trời, vịt cổ xanh, theo cách phối màu do người chủ khác của ông cung cấp, ông thường đọc cho tôi nghe những từ trong từ điển cá nhân của mình: chàm đồng tiền, tiếng rên rỉ, âm thanh tứ phương, giờ lâm tử, ký sinh trùng Sacculina, logarit, xuất huyết – giống như một câu thần chú, giống như một cuộc diễu hành về phía trống không.
***
Mỗi người chúng tôi đã được cứu vớt theo cách khác nhau trong thời bình hay thời hậu chiến của Việt Nam. Riêng gia đình tôi được Anh Phi cứu.
Chính Anh Phi, con trai một người bạn của ba má tôi, người đã tìm thấy gói vàng mà ba tôi đã ném từ ban công tầng ba nhà chúng tôi trong đêm. Hôm trước đó, ba má tôi bảo tôi kéo sợi dây thừng chạy dọc hành lang nếu có người nào trong số mười người lính sống trong nhà đi lên tầng của chúng tôi. Ba má đã ngồi hàng giờ trong phòng tắm để thu dọn những miếng vàng mỏng và những viên kim cương giấu dưới những viên gạch nhỏ màu hồng và đen. Sau đó, họ bọc chúng cẩn thận trong nhiều lớp túi giấy màu nâu trước khi ném chúng vào bóng tối. Gói vàng đã hạ cánh, đúng như dự đoán, vào đống đổ nát của ngôi nhà đã bị phá hủy từng thuộc về người hàng xóm cũ bên kia đường.
Thời đó, trẻ em phải đi trồng cây để tỏ lòng biết ơn đối với vị lãnh tụ tinh thần, Hồ Chí Minh, và chúng cũng phải kiếm những viên gạch còn nguyên vẹn từ chỗ các đống đổ nát. Do đó, việc tôi đi tìm gói vàng trong đống đổ nát không gây nghi ngờ gì. Nhưng tôi phải cẩn thận, vì một trong những người lính ở nhà chúng tôi được giao nhiệm vụ theo dõi chúng tôi đi đâu và đi cùng ai. Biết rằng mình đang bị theo dõi, tôi lướt qua chỗ đó quá nhanh nên không thể tìm thấy gói vàng, ngay cả sau lần thử thứ hai. Ba má nhờ Anh Phi tìm giùm. Sau khi lục lọi xong, anh bỏ đi với một bao đầy gạch. Vài ngày sau, gói vàng miếng được trả lại cho ba má tôi. Sau đó, ba má đưa nó cho người tổ chức cuộc vượt biển của chúng tôi. Tất cả các lượng vàng đều nằm trong đó. Trong cái thời bình hỗn loạn này, cái đói thay thế lý trí, sự bất an lấn át đạo lý là điều bình thường, nhưng điều ngược lại vẫn đúng một cách hiếm hoi. Anh Phi và má anh là những ngoại lệ đó. Họ đã trở thành anh hùng của chúng tôi.
***
Nói thật, anh Phi đã là người hùng của tôi từ lâu, trước khi anh ấy đưa hai ký rưỡi vàng cho ba má tôi, bởi vì mỗi khi tôi đến chơi nhà anh, anh thường ngồi với tôi trước bậc cửa và làm cho một cái kẹo xuất hiện sau vành tai tôi thay vì giục tôi chơi với những đứa trẻ khác.
Chuyến đi đầu tiên của tôi một mình, không có ba má bên cạnh, là đến Texas, để gặp lại Anh Phi và lần này là cho anh ấy một chiếc kẹo. Chúng tôi đang ngồi cạnh nhau trên sàn nhà tựa lưng vào chiếc giường đơn của anh ấy trong ký túc xá đại học thì tôi hỏi anh tại sao lại đưa trả gói vàng cho ba má tôi, trong khi người mẹ góa bụa của anh phải nấu cơm độn với bo bo, miến và bắp để nuôi anh và thêm ba em trai nữa. Tại sao có hành động trung thực anh hùng đó? Anh vừa cười vừa nói với tôi và liên tục dùng cái gối đập vào đầu tôi rằng anh ấy muốn ba má tôi có tiền để trả cho chuyến vượt biên của chúng tôi vì nếu không anh ấy sẽ không có một cô em gái nhỏ để trêu chọc. Anh ấy vẫn là một anh hùng, một anh hùng thực sự, bởi vì anh ấy không thể không là anh hùng, bởi vì anh ấy là anh hùng mà không hề hay biết và không muốn trở thành.
***
Tôi muốn trở thành một nữ anh hùng đối với em gái nhỏ bán thịt lợn nướng bên ngoài bức tường của ngôi chùa Phật giáo đối diện với văn phòng ở Hà Nội. Em bé rất ít nói, lúc nào cũng làm việc, mải miết với những lát thịt lợn đang cắt rồi cho vào hàng chục chiếc bánh mì Pháp mà em đã xẻ dọc đến ba phần tư chiều dài. Thật khó mà nhìn thấy khuôn mặt của em khi than đã được đốt trong cái thùng kim loại đen xỉn do dầu mỡ bám tụ nhiều năm, bởi vì đám khói và tro than cứ bao trùm, khiến em ngạt thở, chảy nước mắt. Người anh rể thì phục vụ khách và rửa bát đĩa trong hai chậu nước đặt ngay mép vỉa hè, cạnh cái cống lộ thiên. Em bé chắc khoảng mười lăm hay mười sáu tuổi, và xinh đẹp tuyệt trần dù đôi mắt mờ sương và hai má lấm tấm tro và bồ hóng.
Một ngày nọ, tóc em bắt lửa cháy, làm cháy cả một phần chiếc áo sơ mi polyester trước khi người anh rể kịp đổ nước rửa bát bẩn lên đầu. Người em phủ đầy rau xà lách, những lát đu đủ xanh, ớt, nước mắm. Tôi đến thăm trước bữa trưa ngày hôm sau, đề nghị một công việc dọn dẹp văn phòng và gợi ý em đăng ký một lớp học nấu ăn và học tiếng Anh. Tôi chắc chắn rằng tôi sẽ dành cho em giấc mơ đẹp nhất. Nhưng em đã từ chối, từ chối tất cả, chỉ bằng một cái lắc đầu. Tôi rời Hà Nội, bỏ em lại vỉa hè, không thể khiến em hướng ánh mắt về một chân trời không khói lửa, tôi không thể trở thành anh hùng như Anh Phi, như bao người đã được nhận diện, nêu danh, được phong anh hùng trên đất nước Việt Nam.
Hòa bình từ họng súng đại bác tất yếu sinh ra hàng trăm, hàng nghìn giai thoại về các dũng sĩ, về các anh hùng. Trong những năm đầu sau ngày Cộng sản chiến thắng, sử sách không đủ trang để kể hết các anh hùng, nên phải ghi vào sách toán: đồng chí Công mỗi ngày bắn rơi hai máy bay, vậy đồng chí ấy bắn hạ được bao nhiêu chiếc máy bay trong một tuần?
Chúng tôi không còn học đếm với chuối và thơm nữa. Lớp học biến thành một trò chơi khổng lồ với các hiểm nguy, với những tính toán về những người lính đã chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh và những chiến thắng ái quốc, hoành tráng và đầy màu sắc. Tuy nhiên, màu sắc chỉ được minh họa bằng từ ngữ. Hình ảnh minh họa thì đơn sắc, giống như con người, có lẽ để ngăn chúng tôi quên đi mặt tối của thực tế. Tất cả chúng tôi đều phải mặc quần đen và áo tối màu. Nếu không, những người lính mặc quân phục kaki sẽ đưa chúng tôi đến đồn để thẩm vấn rồi cho đi cải tạo. Họ cũng bắt những cô gái tô mắt màu xanh. Họ nghĩ rằng những cô gái này phải có mắt đen, và họ là nạn nhân của bạo lực tư bản chủ nghĩa. Có lẽ vì lý do đó mà họ đã bỏ màu xanh da trời khỏi lá cờ Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Khi chồng tôi mặc cái áo phông đỏ có hình sao vàng đi trên đường phố Montreal, người Việt Nam đã quấy rối anh ấy. Sau đó, ba má tôi bắt anh cởi nó ra và thay bằng một cái áo sơ mi của ba tôi không vừa khổ người của anh. Mặc dù bản thân tôi không bao giờ có thể mặc một thứ như vậy, nhưng tôi đã không bảo chồng tôi đừng mua nó vì bản thân tôi đã từng tự hào thắt một chiếc khăn quàng đỏ quanh cổ. Tôi đã biến biểu tượng thiếu niên Cộng sản đó thành một phần trong tủ quần áo của mình. Tôi thậm chí còn ghen tị với những người bạn có dòng chữ Cháu ngoan Bác Hồ thêu màu vàng ở phần hình tam giác nhô ra sau vành cổ áo. Họ là “những đứa con yêu quý của đảng”, một địa vị mà tôi không bao giờ có thể đạt được vì thành phần gia đình của mình, mặc dù tôi học đứng đầu lớp hay trồng nhiều cây nhất khi nghĩ về người cha của hòa bình. Mỗi lớp học, mỗi phòng làm việc, mỗi ngôi nhà đều phải treo ít nhất một bức ảnh Hồ Chí Minh trên tường. Ảnh của ông thậm chí còn đánh bật cả những bức ảnh của tổ tiên mà trước đây không ai dám động đến vì rất linh thiêng. Tổ tiên – dù họ có thể là những tay cờ bạc, bất tài hay bạo lực – tất cả đều trở nên đáng kính và bất khả xâm phạm một khi họ đã chết, một khi họ được đặt trên bàn thờ với hương, hoa quả, trà. Bàn thờ phải đủ cao để tổ tiên nhìn xuống chúng ta. Tất cả con cháu phải mang tổ tiên của họ không phải trong trái tim của họ mà là trên đầu của họ.
Mới vừa rồi ở Montréal, tôi thấy một bà ngoại Việt Nam hỏi đứa cháu một tuổi: “Thương Bà để đâu?” Tôi không thể dịch cụm từ đó, chỉ chứa bốn từ, hai trong số đó là động từ, thương và để. Theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “Yêu bà mang ở đâu?” Đứa trẻ lấy tay sờ vào đầu. Tôi đã hoàn toàn quên mất cử chỉ đó, điều mà tôi đã thực hiện hàng nghìn lần khi còn nhỏ. Tôi đã quên rằng tình yêu đến từ cái đầu chứ không phải trái tim. Trong toàn bộ cơ thể, chỉ có cái đầu là quan trọng. Chỉ riêng việc chạm vào đầu một người Việt Nam đã xúc phạm không chỉ anh ta mà cả phả hệ của anh ta. Đó là lý do tại sao một cậu bé Việt Nam tám tuổi nhút nhát đã trở thành một con hổ dữ khi đồng đội Québéc xoa đầu cậu để chúc mừng cậu đã bắt được quả bóng đầu tiên.
Nếu một dấu hiệu của tình cảm đôi khi có thể bị coi là một sự xúc phạm, thì có lẽ cử chỉ yêu thương không có tính phổ quát: nó cũng phải được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phải được học. Trong tiếng Việt, có thể phân loại, định lượng nghĩa của tình yêu thông qua các từ cụ thể: yêu theo thị hiếu (thích); yêu mà không phải lòng (thương); yêu say đắm (yêu); yêu ngây ngất (mê); yêu mù quáng (mù quáng); yêu biết ơn (tình nghĩa). Không thể nói đơn giản yêu là yêu, yêu mà không có lý trí.
Tôi may mắn vì đã học được cách tận hưởng niềm vui được gối đầu lên tay ba má, và ba má tôi may mắn vì có thể chiếm được tình yêu của con cái khi các con hôn lên tóc họ một cách tự nhiên, không hình thức, trong một buổi cù lét trên giường. Bản thân tôi chỉ chạm vào đầu ba tôi một lần. Ba bảo tôi tựa vào đầu ông khi tôi bước qua lan can thuyền.
***
Chúng tôi không biết mình đang ở đâu. Chúng tôi mới đặt chân lên vùng đất liền đầu tiên. Khi chúng tôi đang trên đường đến bãi biển, một người đàn ông châu Á mặc quần cộc màu xanh nhạt chạy về phía thuyền của chúng tôi. Ông ấy nói với chúng tôi bằng tiếng Việt rằng hãy lên bờ và phá hủy con thuyền ngay. Ông ấy có phải người Việt Nam không? Có phải chúng tôi đã trở lại điểm xuất phát sau bốn ngày lênh đênh trên biển? Tôi không nghĩ có ai hỏi, bởi vì tất cả chúng tôi đều nhảy xuống nước như thể chúng tôi là một đội quân đang được triển khai. Người đàn ông biến mất trong sự hỗn loạn này, mãi mãi. Tôi không biết tại sao tôi lại nhớ đến hình ảnh rõ ràng như vậy về người đàn ông đó đang chạy dưới nước, vẫy tay, đấm vào không trung với một tiếng kêu khẩn cấp mà gió không mang đến được chỗ tôi. Tôi nhớ hình ảnh đó với độ chính xác và rõ ràng như hình ảnh Bo Derek chạy ra khỏi nước trong bộ đồ tắm màu da thịt của cô ấy. Tuy nhiên, tôi chỉ nhìn thấy người đàn ông đó một lần, trong một phần của giây, không giống như tấm áp phích của Bo Derek mà tôi bắt gặp hàng ngày trong nhiều tháng.
Mọi người trên boong đã nhìn thấy ông. Nhưng không ai dám khẳng định điều đó một cách chắc chắn. Ông ta có thể là một trong những người chết đã nhìn thấy chính quyền địa phương xua thuyền trở lại biển. Hoặc một con ma có nhiệm vụ cứu chúng tôi, để ông có thể tự mình đến thiên đường. Ông ta có thể là một người Mã Lai bị tâm thần phân liệt. Hoặc có thể là một khách du lịch từ Club Med muốn phá vỡ sự đơn điệu trong kỳ nghỉ của mình.
***
Rất có thể ông ta là một khách du lịch, vì chúng tôi đã cập vào một bãi biển được bảo tồn vì có quần thể rùa, và nó gần với địa điểm của Câu lạc bộ Club Med. Quả thực, bãi biển này đã từng là một phần của Club Med, vì quán bar bên bờ biển của họ vẫn còn tồn tại. Chúng tôi ngủ ở đó hàng ngày tựa vào phông nền của bức tường quán bar nơi có khắc tên những người Việt Nam đã ghé qua, những người còn sống sót như chúng tôi. Nếu chúng tôi đợi thêm mười lăm phút nữa trước khi cập bến, thì chân chúng tôi đã không bị kẹt trong bãi cát vàng mịn của bãi biển tuyệt vời này. Con thuyền của chúng tôi đã bị phá hủy hoàn toàn bởi những con sóng được tạo ra do một cơn mưa bình thường đổ xuống ngay sau khi chúng tôi lên bờ. Hơn hai trăm người chúng tôi im lặng theo dõi, mắt mờ đi vì mưa và kinh ngạc. Những tấm ván gỗ lần lượt lướt trên đỉnh sóng, như động tác bơi đồng bộ thường quy. Tôi khẳng định rằng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, cảnh tượng đã khiến tất cả chúng tôi trở thành người có đức tin. Ngoại trừ một người đàn ông. Anh ta đã lần bước quay lại thuyền để lấy những lượng vàng mà anh ta đã giấu trong thùng nhiên liệu của con thuyền. Anh đã không bao giờ trở lại. Có thể những lượng vàng đã làm anh chìm, có thể chúng quá nặng nên anh không mang nổi. Hoặc nếu không thì dòng nước đã nuốt chửng anh như một sự trừng phạt vì đã quay nhìn lại, hoặc để nhắc nhở chúng tôi rằng đừng bao giờ hối tiếc về những gì mình đã bỏ lại phía sau.
***
Ký ức đó chắc chắn giải thích tại sao tôi không bao giờ rời khỏi một nơi nào đó với nhiều hơn một chiếc vali. Tôi chỉ mang sách theo. Không có gì khác có thể trở thành cái của tôi thực sự. Trong phòng khách sạn, phòng dành cho khách hay trên giường của người lạ, tôi đều ngủ ngon như trong phòng và trên giường của chính mình. Quả thực, tôi luôn vui vẻ chuyển nhà; nó cho tôi cơ hội làm nhẹ bớt đồ đạc của mình, bỏ lại một số thứ để trí nhớ của tôi trở nên thực sự chọn lọc, chỉ có thể nhớ những hình ảnh vẫn còn lấp lánh sau mí mắt nhắm nghiền. Tôi thích nhớ những xao xuyến trong lòng, những bâng khuâng, những bàng hoàng, những do dự, những biến động, những hụt hẫng của mình… Tôi thích chúng hơn vì tôi có thể định hình chúng theo màu sắc của thời gian, trong khi đồ vật vẫn bất động, đông cứng, cồng kềnh.
***
Tôi cũng yêu đàn ông theo cách như vậy, không muốn họ là của mình. Theo đó, tôi là một trong số những người khác, không có vai trò gì, không tồn tại. Tôi không cần sự hiện diện của họ vì tôi không nắm được những người vắng mặt. Họ luôn được thay thế hoặc có thể thay thế được. Nếu họ không thể thay thế được, thì tình cảm của tôi dành cho họ có thể thay thế được. Vì lý do đó, tôi thích những người đàn ông đã có gia đình, tay đeo nhẫn vàng. Tôi thích những bàn tay đó trên cơ thể tôi, trên ngực tôi. Tôi thích chúng bởi vì, bất chấp sự pha trộn của nhiều mùi, bất chấp sự ẩm ướt của da những bàn tay ấy trên da thịt tôi, bất chấp niềm hưng phấn thỉnh thoảng đến, những ngón tay đeo nhẫn với lịch sử của chúng vẫn khiến tôi xa lánh, dửng dưng, ẩn mình.
***
Tôi quên các chi tiết về cảm giác của mình trong những cuộc gặp gỡ này. Tôi nhớ những cử chỉ thoáng qua, chẳng hạn như ngón tay của Guillaume chạm vào ngón chân út bên trái của tôi để viết chữ G đầu tiên của anh ấy; giọt mồ hôi từ cằm Mikhaïl rơi xuống đốt sống thắt lưng đầu tiên của tôi; đáy xương ức của Simon, Simon đã nói với tôi rằng nếu tôi thì thầm vào lõm ngực của anh, lời nói của tôi sẽ vang vọng đến tận trái tim.
Qua nhiều năm, tôi đã sưu tập được hàng lông mi xao xuyến của người này, lọn tóc lòa xòa của người kia, những bài học của người này, sự im lặng của người kia, một buổi chiều ở chỗ này, một ý tưởng ở chỗ kia – để cấu thành một người tình duy nhất, bởi vì tôi đã sao nhãng việc ghi nhớ khuôn mặt của từng người. Cùng nhau, những người đàn ông này đã dạy tôi cách trở thành một người tình, cách yêu đương, cách khát khao một trạng thái say đắm. Tuy nhiên, chính các con tôi đã dạy tôi động từ yêu thương, chúng là những người đã định nghĩa nó. Nếu tôi biết thế nào là yêu thì tôi đã không có con, vì một khi yêu là yêu mãi, như vợ cậu Hai, mợ Hai, không thể ngừng yêu đứa con trai cờ bạc, đứa con trai đang đốt tài sản gia đình như một kẻ cuồng phóng hỏa.
***
Khi tôi còn nhỏ, tôi đã thấy dì Hai phủ phục trước Phật, trước Chúa Giê-su, trước con trai, để van xin nó đừng đi xa mỗi lần hàng mấy tháng trời, đừng trở lại sau những tháng ngày vắng bóng với những kẻ hộ tống đang dí con dao vào cổ họng của nó. Trước khi làm mẹ, tôi không hiểu sao dì, một nữ doanh nhân với bàn tay nắm chặt, mắt tinh, miệng lưỡi sắc bén, lại có thể tin vào những lời dối trá và hứa hão của đứa con trai cờ bạc. Trong lần tôì ghé thăm Sài Gòn gần đây, dì bảo tôi rằng chắc hẳn dì đã phạm trọng tội trong kiếp trước, nên kiếp này buộc phải liên tục tin vào những trò lừa dối của con trai mình. Dì muốn ngừng yêu. Dì đã chán yêu lắm rồi.
Vì đã làm mẹ nên tôi cũng dối dì bằng cách giữ im lặng về cái đêm con trai dì nắm tay con tôi quấn quanh dương vật vị thành niên của nó, và về cái đêm nó chui vào mùng của dì Bảy, người bị chậm trí, không có khả năng tự vệ. Tôi đã ngậm miệng để dì Hai già nua, héo mòn không phải chết đi vì đã quá yêu con.
Dì Bảy là con thứ sáu của bà ngoại tôi. Con số của dì ấy, số bảy, không mang lại may mắn như người ta vẫn gán cho nó. Khi tôi còn nhỏ, thỉnh thoảng dì Bảy đợi tôi ở cửa, tay cầm cái thìa gỗ, sẵn sàng đánh tôi thật mạnh để xua bớt cái nóng tích trữ trong người dì. Dì luôn nóng nảy. Dì cần phải hét lên, phải ném mình xuống sàn, phải xả hơi bằng cách đánh. Ngay khi dì bắt đầu hú lên, tất cả những người giúp việc chạy khắp nhà, để lại xô nước, con dao, ấm đun nước, khăn lau bụi, cây chổi của họ ngay tại chỗ và chạy đến kềm giữ dì lại. Thêm vào sự hỗn loạn đó là tiếng khóc của bà tôi, má tôi, các dì khác của tôi, các con của họ và của chính tôi. Chúng tôi là một dàn hợp xướng gồm hai mươi giọng gần như cuồng loạn, gần như phát điên. Một lúc sau, chúng tôi không còn biết tại sao mình lại tru lên nữa, vì tiếng kêu ban đầu của dì Bảy đã bị tiếng ồn của chúng tôi bóp nghẹt quá lâu. Nhưng mọi người cứ khóc, tận dụng cơ hội để khóc.
Đôi khi, thay vì chờ tôi ở cửa, dì Bảy lại mở cửa, sau khi lấy trộm chìa khóa của bà tôi. Dì thường mở nó ra để có thể bỏ chúng tôi mà đi và rốt cục lạc bước vào các con hẻm, nơi không ai nhìn thấy khuyết tật của dì, hoặc ít ra là mặc kệ. Một số người mặc kệ khuyết tật của dì đổi một miếng ổi để lấy cái vòng cổ bằng vàng 24 cara của dì, hoặc đổi một lời khen ngợi để được quan hệ tình dục với dì. Một số thậm chí còn hy vọng rằng dì sẽ mang thai để họ có thể biến đứa bé thành đối tượng tống tiền. Lúc đó dì và tôi tuổi trí bằng nhau, chúng tôi là bạn, kể cho nhau nghe những điều khiến chúng tôi sợ hãi. Chúng tôi chia sẻ những câu chuyện của mình. Ngày nay, người dì tật nguyền coi tôi như người lớn nên không kể cho tôi nghe những lần trốn nhà hay những chuyện cũ nơi đầu đường xó chợ nữa.
Tôi cũng mơ được ra ngoài chơi nhảy lò cò với lũ trẻ hàng xóm. Tôi ghen tị với chúng qua những tấm lưới sắt rèn trên cửa sổ hoặc từ bao lơn của chúng tôi. Ngôi nhà của chúng tôi được bao quanh bởi những bức tường xi măng cao hai mét gắn những mảnh kính vỡ để ngăn cản những kẻ đột nhập. Từ nơi tôi đứng, thật khó để nói liệu bức tường tồn tại để bảo vệ chúng tôi hay ngăn cản chúng tôi tiếp cận cuộc sống.
Những con hẻm tràn ngập lũ trẻ nhảy nhót với những sợi dây bện từ hàng trăm sợi dây thun nhiều màu. Món đồ chơi yêu thích của tôi không phải là một con búp bê biết nói: “Tôi yêu bạn”. Món đồ chơi mơ ước của tôi là một chiếc ghế gỗ nhỏ có hộc để đựng tiền của những người bán hàng rong, và cả hai chiếc thúng lớn mà họ gánh ở hai đầu của một cái đòn gánh tre dài cân bằng trên vai. Những người phụ nữ này bán tất cả các loại bún cháo. Họ đi giữa hai vật nặng: một đầu là cái nồi lớn đựng nước dùng và lò than để giữ nóng, đầu kia là bát, đũa, bún và gia vị. Đôi khi người bán hàng thậm chí có thể cõng một đứa trẻ trên lưng. Mỗi người bán hàng thường quảng cáo sản phẩm của mình bằng một điệu rao hàng đặc trưng.
Nhiều năm sau, ở Hà Nội, một người bạn Pháp của tôi phải dậy lúc năm giờ sáng để thu âm các điệu rao hàng. Anh ấy nói với tôi rằng chẳng bao lâu nữa những âm thanh đó sẽ không còn được nghe thấy trên đường phố nữa, rằng những người bán hàng rong đó sẽ từ bỏ những chiếc thúng của họ để vào làm việc trong nhà máy. Vì vậy, anh ấy sẽ bảo vệ tiếng nói của họ một cách trọng thị và yêu cầu tôi phiên dịch những lời rao hàng trên đường đi, sau đó anh sẽ sắp xếp chúng theo danh mục: người bán cháo, bán kem đậu nành, người mua thủy tinh đồng nát, người mài dao, người đấm bóp cho nam giới, người bán bánh mì… Chúng tôi đã dành cả buổi chiều để dịch. Cùng người bạn ấy, tôi đã học được rằng âm nhạc đến từ giọng hát, nhịp điệu và trái tim của mỗi người, và nhạc tính của những giai điệu không được ghi âm ấy có thể vén màn sương mù, xuyên qua cửa sổ, bình phong để đánh thức ta nhẹ nhàng như lời hát ru buổi sớm mai.
Anh phải dậy sớm để ghi hình vì bún, phở bán chủ yếu vào buổi sáng. Mỗi loại có sợi bún riêng: bún bò sợi tròn, bún heo, tôm sợi nhỏ dẹt, bún gà sợi trong suốt… Mỗi bà bán hàng có một sở trường và lộ trình riêng. Khi Marie – France, giáo viên của tôi ở Granby, yêu cầu tôi mô tả bữa ăn sáng của mình, tôi nói với cô ấy: xúp, bún, thịt lợn. Cô ấy hỏi tôi một lần nữa, hơn một lần, giả vờ làm động tác thức dậy, dụi mắt và vươn vai. Nhưng câu trả lời của tôi vẫn như cũ, chỉ khác một chút: cơm thay bún. Những đứa trẻ Việt Nam khác cũng đưa ra những mô tả tương tự. Sau đó, cô giáo gọi điện về nhà chúng tôi để kiểm tra độ chính xác trong câu trả lời của chúng tôi với phụ huynh. Thời gian trôi qua, chúng tôi nay không còn bắt đầu ngày mới với xúp và cơm nữa. Cho đến ngày nay, tôi vẫn chưa tìm được món thay thế. Vì vậy, rất hiếm khi tôi ăn sáng.
***
Tôi quay lại ăn bún vào bữa sáng khi tôi mang thai con trai Pascal ở Việt Nam. Tôi không thèm dưa chua hay bơ đậu phộng, chỉ thèm tô bún mua ở góc phố. Trong suốt thời thơ ấu của tôi, bà tôi đã cấm chúng tôi ăn những món bún đó vì chén bát được rửa trong một xô nước nhỏ. Những người bán hàng không thể gánh nước trên vai như gánh nước dùng và chén bát. Bất cứ khi nào có thể, họ sẽ xin mọi người một ít nước sạch. Khi còn nhỏ, tôi thường đợi họ ở hàng rào gần cửa bếp đổ nước ngọt vào xô cho họ. Tôi thường đổi con búp bê mắt xanh của mình để lấy những cái ghế gỗ. Lẽ ra tôi nên tặng lại cho họ, bởi vì ngày nay những cái ghế gỗ đã được thay thế bằng những chiếc ghế nhựa, nhẹ hơn, không có ngăn kéo bên trong và không để lộ dấu vết mỏi, mòn trên thớ gỗ như cái ghế gỗ. Những người bán hàng rong bước vào kỷ nguyên hiện đại nhưng vẫn mang trên vai sức nặng của cái ách đó.
***
Dấu vết của các sọc đỏ và vàng của túi bánh mì sandwich Pom bị cháy dính vào một mặt của cái lò nướng bánh mì đầu tiên của chúng tôi. Những người tài trợ của chúng tôi ở Granby đã để cái thiết bị nhỏ đó ở đầu danh sách những thứ cần thiết phải mua khi chúng tôi chuyển đến căn hộ đầu tiên của mình. Trong nhiều năm, chúng tôi đã mang cái lò nướng bánh mì đó từ nơi này sang nơi khác mà không bao giờ sử dụng nó, bởi vì bữa ăn sáng của chúng tôi là cơm, bún, thức ăn thừa từ đêm hôm trước. Một cách lặng lẽ, chúng tôi bắt đầu ăn Rice Krispies, không sữa. Các anh tôi hưởng ứng điều này với bánh mì nướng và mứt. Trong suốt hai mươi năm, mỗi buổi sáng, không có ngoại lệ, người anh trẻ nhất ăn sáng với hai lát bánh mì kẹp bơ và mứt dâu, bất kể đang làm việc ở đâu – New York, New Delhi, Moscow hay Sài Gòn. Người giúp việc Việt Nam của anh đã cố gắng khiến anh thay đổi thói quen bằng cách mời anh những nắm xôi với dừa tươi nạo, mè rang và đậu phộng giã trong cối, hoặc một cái bánh mì Pháp nóng với giăm bông phết sốt mayonnaise tự làm, hoặc pa-tê gan ngỗng được trang trí bằng một nhánh rau mùi… Anh ấy gạt tất cả chúng sang một bên và quay trở lại với món bánh mì sandwich mà anh ấy để trong ngăn đá. Lần gần đây nhất tôi đến thăm anh, tôi phát hiện ra rằng anh ấy cất cái lò nướng bánh mì cũ đã ố màu của chúng tôi trong tủ. Đó là món đồ rẻ tiền duy nhất mà anh mang theo từ nước này sang nước khác như thể nó là một cái mỏ neo, hay ký ức về việc thả chiếc neo đầu tiên.
***
Tôi phát hiện ra mỏ neo của mình khi ra đón Guillaume ở sân bay Hà Nội. Mùi nước xả vải Bounce trên áo phông của anh làm tôi bật khóc. Trong hai tuần, tôi ngủ với một mảnh quần áo của Guillaume trên gối. Về phần mình, Guillaume choáng ngợp trước mùi mít, quất, sầu riêng, khế, khổ qua, cua đồng, tôm khô, hoa huệ, hoa sen và rau thơm. Nhiều lần anh đến chợ đêm, nơi rau, trái cây và hoa được mua bán qua lại giữa những cái thúng của những người bán hàng đang thương lượng với nhau trong cái hỗn loạn ồn ào nhưng có kiểm soát, như thể họ đang ở trên sàn của Sở giao dịch chứng khoán. Tôi thường đi tới chợ đêm này với Guillaume, luôn mặc một trong những chiếc áo chui đầu của anh bên ngoài áo sơ mi của tôi vì tôi phát hiện ra rằng ngôi nhà của tôi có thể được hội tụ lại như một thứ mùi bình thường, giản dị từ cuộc sống hàng ngày ở Bắc Mỹ của tôi. Tôi không có địa chỉ nhà riêng, tôi sống trong một căn hộ văn phòng ở Hà Nội. Sách của tôi cất ở chỗ dì Tám, bằng cấp của tôi ở nhà ba má tôi ở Montreal, ảnh của tôi ở nhà các anh tôi, áo khoác mùa đông của tôi ở chỗ người bạn cùng phòng cũ. Lần đầu tiên tôi nhận thức rằng Bounce, mùi Bounce, đã cho tôi cơn nhớ nhà đầu tiên.
***
Trong những năm đầu tiên ở Quebec, quần áo của tôi có mùi hơi ẩm hoặc mùi thức ăn vì sau khi giặt xong, chúng được treo trong phòng ngủ của chúng tôi trên dây được căng từ tường này sang tường khác. Ban đêm, đêm nào cũng vậy, hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy là những màu sắc treo lơ lửng khắp phòng như những lá cờ cầu nguyện của người Tây Tạng. Trong nhiều năm, tôi đã hít mùi nước xả vải trên quần áo của các bạn cùng lớp khi gió mang nó đến cho tôi. Tôi sung sướng hít ngửi những túi quần áo đã qua sử dụng mà chúng tôi nhận được. Đó là mùi duy nhất tôi cần.
***
Guillaume rời Hà Nội sau khi ở với tôi hai tuần. Anh không có quần áo sạch để lại cho tôi. Trong những tháng tiếp theo, thỉnh thoảng tôi nhận được qua đường bưu điện một phong bì nhựa dán kín với một chiếc khăn tay mới sấy khô bên trong, có mùi Bounce. Gói hàng cuối cùng anh ấy gửi cho tôi có một vé máy bay đi Paris. Khi tôi đến, anh ấy đang đợi để đưa tôi đến một cuộc hẹn với một chuyên gia nước hoa. Anh ấy muốn tôi ngửi thấy mùi lá violet, hoa diên vĩ, cây bách xanh, vani, cây cần núi… và hơn hết là mùi hương vĩnh cửu, mùi mà Napoléon nói đã ngửi thấy ở đất nước của ông trước khi ông đặt chân lên đó. Guillaume muốn tôi tìm một mùi hương mang lại cho tôi đất nước, thế giới của mình.
***
Tôi chưa bao giờ dùng loại nước hoa nào khác ngoài loại được tạo ra cho tôi theo yêu cầu của Guillaume trong chuyến đi Paris đó. Nó đã thay thế Bounce. Nó nói hộ tôi và nhắc nhở tôi rằng tôi tồn tại. Một trong những người bạn cùng phòng của tôi đã dành nhiều năm nghiên cứu thần học và khảo cổ học để tìm hiểu ai là người tạo ra chúng ta, chúng ta là ai, tại sao chúng ta tồn tại. Mỗi đêm, cô trở về căn hộ không phải với câu trả lời mà với những câu hỏi mới. Tôi chưa bao giờ có bất kỳ câu hỏi nào ngoại trừ câu hỏi về thời điểm mà tôi có thể chết. Lẽ ra tôi nên chọn thời điểm trước khi các con tôi chào đời, vì kể từ đó tôi không còn quyền lựa chọn cái chết nữa. Mùi tóc cháy nắng nồng nặc, mùi mồ hôi lưng khi tỉnh giấc sau cơn ác mộng, mùi bụi bẩn của những bàn tay khi chúng bước ra khỏi lớp học có nghĩa là tôi phải sống, phải lóa mắt trước cái bóng của hàng lông mi của chúng, xúc động bởi một bông tuyết, bối rối trước giọt nước mắt lăn trên má chúng. Các con tôi đã trao cho tôi năng lực độc quyền để thổi vào vết thương khiến cơn đau biến mất, để hiểu những từ không được thốt ra, để nắm bắt chân lý vũ trụ, để trở thành một nàng tiên. Một nàng tiên say mê mùi của chúng.
***
Wyatt say mê áo dài vì trang phục đó làm cho cơ thể phụ nữ trông thật thanh tú và vô cùng lãng mạn. Một hôm anh đưa tôi đến một ngôi biệt thự hoành tráng nằm khuất sau những dãy ki-ốt xây trên nền đất nơi trước kia là khu vườn. Căn biệt thự là nơi ở của hai chị em lớn tuổi đang âm thầm bán bớt đồ đạc cho những người sưu tầm để đảm bảo cuộc sống qua ngày. Wyatt là khách hàng trung thành nhất của họ, vì vậy chúng tôi được mời ngả lưng trên chiếc giường lớn bằng gỗ gụ giống như chiếc giường của ông nội tôi, tựa đầu lên những chiếc đệm gốm nơi những người hút thuốc phiện từng nằm. Bà chủ mang cho chúng tôi trà và vài lát kẹo gừng. Một làn gió nhẹ làm bay tà áo dài của bà khi cúi xuống để đặt những chiếc tách giữa Wyatt và tôi. Dù đã ngoài sáu mươi nhưng vẻ gợi cảm trong tà áo dài của bà khiến chúng tôi xúc động. Một centimet vuông da thịt lộ ra giễu cợt sự tàn phá của thời gian mà vẫn khiến tim ta bồi hồi. Wyatt nói rằng không gian nhỏ bé là tam giác vàng, là hòn đảo hạnh phúc, là Việt Nam của riêng anh ấy. Giữa những ngụm trà, anh thì thầm: “Nó khuấy động tâm hồn tôi.”
***
Khi những người lính từ miền Bắc vào Sài Gòn, họ cũng bị khuấy động bởi vùng da tam giác đó. Họ xao xuyến trước những cô nữ sinh áo dài trắng tung tăng tan trường như những cánh bướm mùa xuân. Và thế là việc mặc áo dài sớm bị cấm. Nó bị cấm vì nó gây ra sự khinh bỉ đối với chủ nghĩa anh hùng của những người phụ nữ đội mũ kêpi màu xanh lá cây, xuất hiện trên các panô áp phích khổng lồ ở mọi góc phố, mặc áo sơ mi kaki xắn tay áo để lộ những cánh tay vạm vỡ. Họ đã đúng khi trục xuất trang phục áo dài. Thời gian cài khuy lâu gấp ba lần thời gian cởi ra. Một chuyển động nhanh là đủ để làm cho các khóa áo bật mở. Riêng bà tôi không phải mất thời gian gấp ba mà gấp mười lần để mặc áo dài, vì sau khi sinh mười người con, cơ thể bà phải được tạc lại, vẽ lại bằng một chiếc đai lưng có ba mươi móc khóa và mắt khóa, để tôn vinh đường nét của trang phục khiêm tốn một cách giả tạo và chân thành một cách dối trá đó.
***
Hôm nay, bà tôi đã già lắm rồi, nhưng vẫn xinh đẹp, xa hoa như một bà hoàng. Khi ở tuổi bốn mươi, ngồi trong phòng khách của mình ở Sài Gòn, bà là hình ảnh thu nhỏ của cả một thời đại về một thái cực của vẻ đẹp và giàu sang. Sáng sáng, một nhóm những người bán hàng đợi ở cửa để trình những mặt hàng mới của họ cho bà. Hầu hết trong số họ đã biết yêu cầu của bà. Họ mang theo những đồ sành sứ mới, những bông hoa nhựa vừa được chuyển đến từ châu Âu và tất nhiên là cả những chiếc áo lót cho sáu cô con gái của bà. Đất nước có chiến tranh, thị trường bấp bênh, nên lường trước mọi việc là tốt nhất. Đôi khi nó là kim cương. Tất cả phụ nữ Việt Nam trong giới chúng tôi đều có kính lúp để kiểm tra kim cương. Tôi đã học cách phát hiện tạp chất trong kim cương từ khi còn rất nhỏ, bởi vì đó là một kỹ năng cần thiết để quản lý tài chánh gia đình. Khi hệ thống ngân hàng yếu kém và tạm bợ, phụ nữ phải thành thạo nghệ thuật mua và bán vàng và kim cương để quản lý tiền dành dụm của họ. Bà tôi đã dành nhiều ngày một lúc để làm những việc vặt mà không bao giờ phải đi đâu cả. Giữa những chuyến viếng thăm của những người bán hàng, bà cũng chiêu đãi bạn bè hoặc phỏng vấn những người giúp việc đang tìm việc làm.
Tháng ngày của bà tôi ngập đầy những công việc tẻ nhạt này. Và dù bà là một phật tử, bà không có thời gian để ngồi trước Đức Phật. Sau khi các khu chợ đã bị quét sạch hàng hóa và người buôn bán, sau khi những người Cộng sản mướn nhà của bà đã lấy hết đồ đạc trong két sắt và những chiếc khăn đăng ten, bà học cách mặc bộ kimono dài màu xám mà các phật tử thường mặc. Dù mái tóc muối tiêu được vuốt khá đơn giản và búi thành búi cao ngay sau gáy, bà vẫn xinh đẹp lộng lẫy. Bà khấn vái mọi giờ trong ngày, trong khói hương nghi ngút, chờ đợi tin tức của những đứa con đã ra khơi. Bà đã để hai đứa con út, một trai và một gái, ra đi với má tôi bất chấp sự bấp bênh, bất định. Má tôi yêu cầu bà ngoại lựa chọn giữa nguy cơ mất con trai ngoài biển cả và nguy cơ tìm thấy con bị banh xác ở một bãi mìn trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Campuchia. Bà phải lựa chọn thầm lặng, không do dự, không run rẩy, không toát mồ hôi. Có lẽ, để kiểm soát nỗi sợ hãi của mình, bà bắt đầu cầu nguyện. Có lẽ vì say khói hương mà bà không còn rời bàn thờ nữa.
***
Ở Hà Nội, tôi có một người hàng xóm bên kia đường, sáng nào cũng cầu nguyện, lúc bình minh, hàng giờ liền. Tuy nhiên, không giống cửa sổ của bà tôi, cửa sổ làm bằng nan tre của bà mở thẳng ra đường. Câu chú và tiếng gõ đều đặn, không ngừng của bà vào cái mõ gỗ đã xâm nhập vào cả khu phố. Lúc đầu, tôi muốn chuyển đi, khiếu nại, thậm chí đánh cắp cái mõ của bà và đập vỡ nó thành từng mảnh. Tuy nhiên, sau một vài tuần, tôi ngừng nguyền rủa người phụ nữ đó vì tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của bà tôi.
Trong những năm đầu tiên đầy sóng gió, bà tôi thỉnh thoảng nương tựa vào các ngôi chùa. Bà muốn trốn vào đó ghê lắm, thậm chí còn để dì Bảy lái xe đưa mình đi. Dì Bảy không biết lái xe gắn máy, vì không ai chỉ cho dì, và cũng vì dì không được phép ra khỏi nhà. Nhưng các quy tắc đã được viết lại kể từ biến động cấu trúc của cuộc đời dì và cuộc sống nói chung. Đối với người dì tàn tật của tôi, vụ nổ của hạt nhân gia đình đã mang lại một loại tự do, cũng như một cơ hội để trưởng thành. Hoàn cảnh khiến dì phải khởi động chiếc xe máy bị bỏ lại trong sân. Bà tôi lên xe, và dì tôi bắt đầu lái và lái, không bao giờ thay đổi tốc độ, không bao giờ dừng lại, kể cả khi đèn đỏ. Về sau, dì kể với tôi rằng khi nhìn thấy đèn giao thông, dì đã nhắm mắt lại. Còn bà tôi thì đặt tay lên vai con gái và cầu nguyện.
Tôi muốn dì Bảy kể cho tôi nghe dì đã sinh con như thế nào trong thời gian ở với các nữ tu. Không biết dì có biết con nuôi của dì Bốn thực ra là con của dì không. Tôi không biết làm thế nào mà tôi biết được điều đó. Có thể do bọn trẻ nghe lén qua lỗ khóa mà người lớn không để ý. Hoặc bởi vì người lớn không phải lúc nào cũng biết rằng trẻ em đang có mặt. Cha mẹ không cần phải để mắt đến con cái của họ; họ tin tưởng vào các bảo mẫu giám sát chúng. Nhưng các bậc cha mẹ đôi khi quên mất rằng các cô bảo mẫu là những cô gái trẻ: họ cũng có những ham muốn, họ thích thu hút ánh mắt của người tài xế, nụ cười của người thợ may, họ thích mơ mộng trong chốc lát khi soi mình trong gương, rằng họ cũng là một phần của bối cảnh được phản ánh ở đó.
Tôi luôn có bảo mẫu, nhưng đôi khi họ quên mất tôi. Và tôi không nhớ bất kỳ người nào trong số họ, ngay cả khi tôi thường tìm thấy họ ở một góc, nằm ngoài tiêu điểm, trong những bức ảnh chụp từ thời thơ ấu của tôi.
Con trai Pascal của tôi cũng không còn ký ức về cô bảo mẫu của nó, Lek, ngay sau khi chúng tôi rời Bangkok để trở về nhà ở Montreal. Tuy nhiên, bảo mẫu người Thái đã ở bên nó bảy ngày một tuần, 24 giờ một ngày, trong hơn hai năm, ngoại trừ thỉnh thoảng có vài ngày nghỉ lễ. Lek yêu Pascal ngay từ giây phút đầu tiên. Cô khoe nó với cả xóm như thể nó là của cô, xinh đẹp nhất, khôi ngô nhất. Cô ấy yêu nó nhiều lắm, tôi sợ cô quên rằng chắc chắn rồi họ sẽ chia tay, rằng một ngày nào đó chúng tôi sẽ rời xa cô ấy và đáng buồn thay, con trai tôi có thể không còn nhớ đến cô ấy nữa.
Lek chỉ biết một vài từ tiếng Anh và tôi biết một vài từ tiếng Thái, nhưng chúng tôi vẫn trò chuyện rất lâu về những cư dân trong khu nhà tôi ở. Hình ảnh đậm chất điện ảnh nhất là người hàng xóm ở tầng chín, một người Mỹ trạc ba mươi tuổi. Một đêm, anh đi làm về và thấy căn hộ của mình phủ đầy lông và rêu. Quần của anh ấy bị cắt làm đôi theo chiều dọc, ghế sofa của anh ấy bị xé toạc, bàn của anh ấy bị dao rạch nát, rèm cửa của anh ấy bị xé thành từng mảnh. Tất cả thiệt hại này gây ra do người tình mà anh ta đã sa thải sau ba tháng phục vụ. Lẽ ra anh không nên vượt quá giới hạn một tháng, bởi vì hy vọng về một tình yêu lớn lao lớn lên trong tâm trí cô ta mỗi ngày, mặc dù cô vẫn tiếp tục được trả tiền vào thứ Sáu hàng tuần cho công việc yêu của mình. Để tránh sự thất vọng ở mức độ đó, có lẽ anh không nên mời cô ấy đến tất cả những bữa tiệc nơi mà cô ấy mỉm cười mà không hiểu gì, nơi cô ấy là vật trang trí cho bàn ăn, nơi cô ấy phải nuốt món xúp khoai tỏi trong khi thèm ăn salad đu đủ xanh với những quả ớt mắt chim cay xé toạc miệng, làm bỏng môi, và đốt cháy tim người ăn.
Tôi thường hỏi những người nước ngoài đến châu Á để mua tình một đêm rằng tại sao, vào buổi sáng sau một đêm cuồng nhiệt, họ nhất quyết muốn chia sẻ bữa ăn của mình với tình nhân Việt Nam hoặc Thái Lan. Những người phụ nữ muốn nhận chi phí cho những bữa ăn đó bằng tiền mặt, để họ có thể mua một đôi giày cho mẹ hoặc một tấm nệm mới cho cha, hoặc để gửi em trai của họ đi học tiếng Anh. Tại sao lại mong muốn sự hiện diện của họ bên ngoài giường khi vốn từ vựng của họ chỉ giới hạn trong những cuộc trò chuyện diễn ra sau cánh cửa đóng kín? Họ nói với tôi rằng tôi không hiểu gì cả. Họ cần những cô gái trẻ đó vì một lý do hoàn toàn khác – để khôi phục lại tuổi trẻ của họ. Khi nhìn vào những cô gái trẻ đó, họ nhìn thấy tuổi trẻ của chính mình, tràn đầy ước mơ và triển vọng. Các cô gái đã cho họ một thứ: ảo tưởng rằng họ vẫn chưa làm hỏng cuộc sống của mình, hoặc ít nhất là sức mạnh và sự thôi thúc để bắt đầu lại. Thiếu các cô gái, họ cảm thấy vỡ mộng, buồn bã. Buồn vì chưa bao giờ yêu đủ và chưa bao giờ được yêu đủ. Vỡ mộng vì tiền không mang lại cho họ hạnh phúc, ngoại trừ ở những quốc gia mà với năm đô la họ có thể có được một giờ hạnh phúc, hoặc ít nhất là chút tình cảm, chút bầu bạn, chút săn sóc. Với năm đô la, họ có được một cô gái trang điểm vụng về đến uống cà phê hoặc bia với họ và cười phá lên vì người đàn ông vừa nói từ tiếng Việt tiểu thay vì tiêu, hai từ chỉ được phân biệt bằng một dấu giọng, một thanh điệu mà gần như không thể nhận biết đối với cái tai chưa được huấn luyện. Một điểm nhấn duy nhất cho một khoảnh khắc hạnh phúc duy nhất.
***
Một đêm nọ, khi tôi vào một nhà hàng theo chân một người đàn ông với dái tai bị rạch như của một trong những người lính Cộng sản từng sống trong ngôi nhà của gia đình tôi ở Sài Gòn, tôi nhìn qua khe giữa hai bức tường của một phòng riêng, sáu cô gái đang xếp hàng, dựa vào tường, loạng choạng trên đôi giày cao gót, khuôn mặt trang điểm đậm, cơ thể ốm yếu, làn da run rẩy, hoàn toàn trần truồng dưới ánh sáng lập lòe từ những bóng đèn huỳnh quang. Cùng nhau, sáu người đàn ông nhắm vào các cô gái, mỗi người cầm một tờ một trăm đô la Mỹ được cuộn chặt, gấp đôi quanh một sợi dây thun căng. Những tờ tiền băng qua căn phòng đầy khói với tốc độ điên cuồng của đường đạn, cuối cùng đáp xuống làn da trong mờ của các cô gái.
***
Trong những tháng đầu tiên ở Việt Nam, tôi rất hãnh diện khi mọi người nghĩ rằng tôi là người hộ tống của sếp, mặc dù tôi mặc vest hàng hiệu và đi giày cao gót, bởi vì điều đó có nghĩa là tôi vẫn còn trẻ, mảnh khảnh và mong manh. Nhưng sau khi chứng kiến cảnh các cô gái phải cúi xuống nhặt những tờ bạc trăm đô nằm dưới chân, tôi không khỏi xuýt xoa vì nể phục họ, bởi đằng sau thân hình mơ ước và tuổi trẻ của họ, họ mang trên mình cả sức nặng vô hình. của lịch sử Việt Nam, như những người đàn bà còng lưng.
Như một số cô gái có làn da quá mỏng manh, không chịu nổi sức nặng, tôi bỏ về trước cú vô lê thứ ba. Tôi rời khỏi nhà hàng không phải bởi tiếng va chạm của những chiếc ly mà bởi âm thanh không thể nghe thấy của những tờ tiền va chạm vào da thịt họ. Tôi rời nhà hàng, đầu óc đầy âm hưởng của sự im lặng khắc kỷ của những cô gái đang ở lại đằng sau ấy; họ có đủ sức mạnh để tước bỏ quyền lực của đồng tiền, trở thành bất khả xâm phạm, bất khả chiến bại.
***
Khi tôi gặp những cô gái trẻ ở Montreal hay những nơi khác, những người cố tình, cố ý làm tổn thương thân thể họ, những người muốn những vết sẹo vĩnh viễn hằn trên da, tôi không thể không thầm ước họ có thể gặp những cô gái trẻ khác có những vết sẹo vĩnh viễn cũng sâu như vậy nhưng vô hình với mắt thường. Tôi muốn ngồi đối mặt với họ và nghe họ so sánh giữa vết sẹo mong muốn và vết sẹo không mong muốn, giữa vết sẹo phải trả giá và vết sẹo được đền bù, giữa vết sẹo có thể nhìn thấy và vết sẹo vô hình, giữa vết sẹo nhạy cảm quá mức và vết sẹo không thể đo lường, giữa vết sẹo co rút và vết sẹo dị thường.
Dì Bảy cũng có một vết sẹo ở bụng dưới, dấu vết của một trong những lần dì trốn nhà lẻn vào mê cung của những con hẻm nơi dì chen lấn giữa những người bán nước đá và bán guốc dép, giữa những người hàng xóm cãi cọ ầm ĩ, giữa những người phụ nữ giận dữ và những người đàn ông cương cứng. Ai trong số những người đàn ông này là cha của con dì? Không ai dám chất vấn dì Bảy vì họ đã phải nói dối dì trong thời gian dì mang thai để bảo vệ dì khỏi cái bụng của chính mình bằng cách che giấu nó theo thói quen của các nữ tu ở Couvent des Oiseaux. Các nữ tu gọi dì là Josette và chỉ cho dì cách viết tên mình bằng những ký tự chấm lớn. Dì Josette không bao giờ biết tại sao mình lại béo lên như vậy hay tại sao khi tỉnh dậy sau một giấc ngủ say, dì lại phát hiện ra mình lại gầy đi. Dì chỉ biết rằng đứa con nuôi của dì Bốn, giống như dì, đã bỏ trốn ngay khi có thể. Nó băng qua những con hẻm giống nhau với tốc độ ánh sáng, cầm đôi dép của mình trên tay để bàn chân cảm nhận được sức nóng của mặt đường, độ đặc của phân, độ sắc của một mảnh chai vỡ. Nó đã chạy suốt thời thơ ấu của mình. Và trong suốt thời thơ ấu ấy, chúng tôi, những đứa trẻ khác, lớn có bé có, mười, mười lăm, thậm chí hai mươi người chúng tôi, tuần tra khu phố hàng tháng. Một ngày nọ, tất cả chúng tôi trở về nhà tay không, những người giúp việc và hàng xóm cũng vậy. Nó đã rời bỏ cuộc sống của chúng tôi lần theo con đường mòn mà nó đã từng đi qua, để lại vật kỷ niệm duy nhất là vết sẹo phía trên vùng kín của mẹ nó.
***
Con trai Henri của tôi cũng bỏ trốn. Nó chạy đến sông St. Lawrence ở bên kia một xa lộ, một đại lộ, một con phố, một công viên, một con phố khác. Nó chạy đến vùng nước nơi nhịp điệu êm dịu và sự chuyển động không ngừng của những con sóng thôi miên nó, mang lại sự bình tĩnh và bảo vệ. Tôi đã học cách trở thành cái bóng trong cái bóng của nó để tôi có thể đi theo mà không làm khó chịu, không quấy rầy nó. Tuy nhiên, có một lần, chỉ cần một giây mất tập trung, tôi đã thấy nó lao tới trước những chiếc ô tô, phấn khích và tràn đầy sức sống hơn bao giờ hết. Tôi choáng váng trước niềm hạnh phúc quá hiếm hoi, quá bất ngờ của nó, và nỗi thống khổ của chính tôi khi nghĩ đến việc thi thể nó bị ném lên không trung bên trên cái chắn bùn. Tôi có nên nhắm mắt và đi chậm lại để tránh chứng kiến cú va chạm, để sống sót? Tình mẫu tử, tình mẫu tử của chính tôi, đã làm tôi đau khổ với một tình yêu đã đập phá trái tim tôi, đã làm căng phồng, xả xì và đẩy tim tôi ra khỏi lồng ngực khi tôi nhìn thấy con trai lớn của mình, Pascal, từ đâu bất ngờ xuất hiện và xô em nó xuống bãi cỏ mới cắt ở dải phân cách đại lộ. Pascal đáp xuống trên người em trai mình như một thiên thần, với cặp đùi nhỏ mập mạp, đôi má hồng như kẹo và ngón tay cái nhỏ xíu giơ lên không trung.
Tôi đã khóc vì sung sướng khi cầm tay hai đứa con trai, nhưng tôi cũng khóc vì nỗi đau của một người mẹ Việt Nam khác đã chứng kiến cảnh con mình bị hành quyết. Một giờ trước khi chết, cậu bé ấy đang chạy băng qua đồng lúa với mái tóc tung bay theo gió, để chuyển thông điệp từ người này sang người khác, từ tay người này sang người khác, từ nơi ẩn náu này sang nơi ẩn náu khác, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng, để làm phần việc của mình cho cuộc kháng chiến, nhưng đôi khi, cũng đơn giản giúp gửi một bức thư tình trên đường đi.
Cậu bé đó đang chạy với tuổi thơ trên đôi chân mình. Nó không thể nhìn thấy nguy cơ thực sự bị bắt bởi những người lính của phe đối địch. Nó sáu tuổi, có thể bảy tuổi. Nó chưa biết đọc. Tất cả những gì nó biết là làm thế nào để giữ chặt trong tay mẩu giấy mà nó đã được trao cho. Tuy nhiên, khi bị bắt, đứng giữa những họng súng chĩa vào mình, nó không còn nhớ mình đang chạy đến đâu, tên người mà bức thư được gửi đến, hay điểm xuất phát chính xác của mình. Sự hoảng loạn khiến nó câm lặng. Những người lính bịt miệng nó. Thân thể yếu ớt của nó đổ gục xuống đất và những người lính bỏ đi, miệng nhai kẹo cao su. Mẹ nó chạy qua cánh đồng còn in dấu chân con trai. Bất chấp tiếng đạn nổ xé toạc không gian, khung cảnh vẫn như cũ. Những bông lúa non tiếp tục được gió nâng niu, thản nhiên đối mặt với sự tàn bạo của những tình yêu lớn quá cỡ đó, với những nỗi đau câm lặng đến nỗi nước mắt không thể tuôn ra nữa, với tiếng khóc không thể thoát ra từ tấm thân người mẹ đang thu vén vào chiếc chiếu cũ thi thể của đứa con trai, mà một nửa chôn vùi trong bùn.
***
Tôi cố kìm tiếng khóc của mình để không làm biến dạng âm thanh mê hoặc của những chiếc máy may nối đuôi nhau trong gara của ba má tôi. Giống như tôi và các anh tôi, các em họ của tôi cũng may vá sau giờ học để kiếm tiền tiêu vặt. Với đôi mắt tập trung vào chuyển động đều đặn, nhanh nhẹn của những chiếc kim khâu, chúng tôi không nhìn thấy nhau, vì vậy, rất thường, những cuộc trò chuyện của chúng tôi thực sự là những lời tự bạch. Các em họ của tôi mới mười tuổi, nhưng chúng đã có một quá khứ để kể lại vì chúng sinh ra ở Sài Gòn phồn hoa và lớn lên trong thời kỳ đen tối nhất của Việt Nam. Chúng mô tả cho tôi, với tiếng cười giễu cợt, chúng đã thủ dâm cho những người đàn ông như thế nào để đổi lấy một bát súp hai ngàn đồng. Không giấu giếm gì, các em diễn tả những hành vi tình dục đó một cách tự nhiên và chân thực, như những người mà đối với họ, mại dâm chỉ là chuyện người lớn và tiền bạc, chuyện không liên quan đến những đứa trẻ sáu bảy tuổi như chúng, những kẻ làm việc đó để đổi lấy một bữa ăn chỉ mười lăm xu. Tôi lắng nghe mà không quay đầu lại, vẫn cứ khâu vá, không bình luận, vì tôi muốn bảo vệ sự ngây thơ trong lời nói của chúng, không làm hoen ố sự thành thật của chúng bằng việc diễn giải hành động đó theo cách của tôi. Chắc chắn nhờ sự ngây thơ hồn nhiên đó mà chúng đã trở thành kỹ sư sau mười năm học tập ở Montréal và Sherbrooke.
Trở về nhà sau khi chia tay các em họ ở Đại học Sherbrooke, tôi được một người đàn ông Việt Nam tiếp cận ở trạm xăng, người đã nhận ra vết sẹo tiêm chủng của tôi. Một cái nhìn vào vết sẹo đó đã đưa anh quay ngược thời gian và để anh thấy mình khi còn là một cậu bé đi bộ đến trường dọc theo con đường đất với tấm bảng con con kẹp nách. Nhìn vết sẹo ấy, anh biết mắt chúng tôi đã từng thấy những chùm hoa vàng trên cành mai trước cửa nhà mỗi dịp Tết đến. Chỉ cần nhìn vết sẹo đó, anh đã nhớ lại mùi thơm ngon của món cá kho tiêu, đang sôi liu riu trong nồi đất đặt trực tiếp trên than hồng. Nhìn vào vết sẹo đó, tai chúng tôi lại nghe thấy âm thanh phát ra từ thân một cây tre non khi nó rạch không khí rồi rạch da lưng chúng tôi. Chỉ cần nhìn vào vết sẹo đó thì cội rễ nhiệt đới của chúng tôi, được di thực vào vùng đất tuyết phủ, lại trổi dậy. Trong một giây, chúng tôi đã nhìn thấy sự mâu thuẫn của chính mình, trạng thái lai ghép của chúng tôi: nửa này, nửa kia, không có gì cả và có mọi thứ cùng lúc. Một dấu vết duy nhất trên da và toàn bộ lịch sử chung của chúng tôi đã được trải ra giữa hai máy bơm xăng trong một trạm xăng gần lối ra đường cao tốc. Anh đã giấu vết sẹo của mình dưới con rồng xanh nửa đêm. Tôi không thể nhìn thấy nó bằng mắt thường. Tuy nhiên, anh ấy chỉ cần lướt ngón tay trên vết sẹo lộ ra một cách khiếm nhã của tôi, và cầm lấy ngón tay của tôi trong bàn tay kia của anh và lướt nó trên lưng con rồng của mình và ngay lập tức chúng tôi trải qua một khoảnh khắc đồng lõa, đồng cảm.
***
Đó cũng là khoảnh khắc đoàn viên khi đại gia đình lớn của tôi tụ họp ở ngoại ô New York để chúc mừng sinh nhật lần thứ tám mươi lăm của bà tôi. Có ba mươi tám người chúng tôi, buôn chuyện, cười khúc khích, chọc tức nhau trong hai ngày. Lần đầu tiên tôi để ý thấy tôi có cặp đùi tròn như dì Sáu và chiếc váy tôi mặc cũng giống váy dì Tám.
Dì Tám là người chị lớn của tôi, người đã chia sẻ với tôi cảm giác hồi hộp về từ nữ thần mà một người đàn ông đã thì thầm vào tai dì khi dì đang ngồi, khuất tầm nhìn của má tôi, trên thanh ngang xe đạp, trong vòng tay ôm của anh ấy. Dì cũng là người đã chỉ cho tôi cách nắm bắt niềm vui của một ham muốn thoáng qua, của một lời tâng bốc phù du, của một khoảnh khắc bị đánh cắp.
Khi chị Sao Mai ngồi sau ôm lấy tôi trước ống kính máy ảnh của hai cậu con trai, chú Chín mỉm cười. Chú Chín hiểu tôi hơn chính tôi vì chú đã mua cho tôi cuốn tiểu thuyết đầu tiên, vé xem kịch đầu tiên, chuyến thăm viện bảo tàng đầu tiên, chuyến hành trình đầu tiên của tôi.
Sao Mai đã trở thành một nữ doanh nhân quan trọng, một nhân vật của công chúng, một nữ hoàng hiện đại sau khi chị đánh hàng chục quả trứng bằng tay – ở Sài Gòn mất điện năm ngày trong bảy ngày – để làm bánh sinh nhật mà chị bán cho những người lãnh đạo Cộng sản mới. Như diễn viên nhào lộn, chị đi giao bánh bằng xe đạp lạng lách qua những chiếc xe đạp khác, tránh làn khói đen của xe máy và những hố ga bị trộm mất nắp. Ngày nay, những chiếc bánh của chị, và bây giờ là cả kem, bánh ngọt, sô cô la và cà phê, được bán ở mọi khu phố ở các thành phố lớn, trải khắp đất nước từ Nam chí Bắc.
***
Tôi vẫn là cái bóng của chị Sao Mai. Nhưng tôi thích như vậy, bởi vì trong thời gian ở Việt Nam, tôi là cái bóng nhảy múa quanh các bàn thương lượng để đánh lạc hướng những người mà chị ấy đang giao dịch trong khi chị cân nhắc. Bởi vì tôi là cái bóng, chị có thể tâm sự với tôi những lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ của mình mà không cần thỏa hiệp. Vì tôi là cái bóng, nên tôi là người duy nhất dám bước vào đời sống riêng tư của chị, vốn đã bị bịt kín từ thời bán “cà phê” làm từ bánh mì cũ đốt thành tro rồi xay nhỏ, trên vỉa hè đối diện với nơi chị sống, kể từ khi các cửa sổ của ngôi nhà đã bán hết. Không cần xin phép, tôi thắp lại ngọn lửa mà chị nghĩ đã biến mất sau vẻ ngoài đồ sộ của mình. Tôi dọn đường cho sự phù phiếm bằng cách cho phép các con chị ném bánh trứng vào nhau trên sân thượng của tôi, bằng cách đặt chúng vào một hộp các tông đầy hoa giấy bên ngoài phòng chị để chúc mừng sinh nhật khi chị thức dậy, bằng cách đặt vào chiếc cặp của chị một quần chíp da màu đỏ.
***
Tôi thích chất liệu da màu đỏ của chiếc ghế sofa trong phòng hút xì gà, nơi tôi dám cởi trần trước mặt bạn bè và đôi khi là người lạ mà họ không hề hay biết. Tôi kể lại những mẩu chuyện trong quá khứ của mình như thể chúng là những giai thoại, vở hài kịch hay những câu chuyện thú vị từ những vùng đất xa xôi với những phong cảnh kỳ lạ, hiệu ứng âm thanh kỳ quặc và những miêu tả cường điệu. Khi tôi ngồi trong căn phòng đầy khói thuốc đó, tôi quên rằng mình là một trong những người châu Á thiếu enzyme dehydrogenase để chuyển hóa rượu, tôi quên rằng mình được đánh dấu bằng một đốm xanh trên lưng, giống như người Inuit, giống như các con trai của tôi, giống như tất cả những người có dòng máu châu Á. Tôi quên mất đặc điểm Mongoloid tiết lộ ký ức di truyền vì nó đã biến mất trong những năm đầu của thời thơ ấu, và ký ức cảm xúc của tôi đã mất đi, tan biến, lẫn lộn theo thời gian.
Sự ghẻ lạnh đó, sự xa cách đó, khoảng cách đó cho phép tôi mua mà không chút e ngại và hoàn toàn ý thức được những gì mình đang làm, một đôi giày mà giá ở quê hương tôi đủ để nuôi một gia đình năm người trong một năm. Người bán hàng chỉ cần hứa với tôi, Cô sẽ đi trên mây, là tôi mua ngay. Khi chúng ta có thể lơ lửng trong không trung, để tách mình ra khỏi cội nguồn của mình – không chỉ bằng cách vượt qua một đại dương và hai lục địa mà còn bằng cách tách mình ra khỏi tình trạng là những người tị nạn không quốc tịch, khỏi khoảng trống của một cuộc khủng hoảng danh tính – chúng tôi cũng có thể cười nhạo bất cứ điều gì có thể xảy ra với chiếc vòng tay acrylic màu nướu răng giả, chiếc vòng tay mà ba má tôi đã biến thành khí cụ sinh tồn bằng cách giấu tất cả kim cương vào trong đó. Ai có thể nghĩ rằng, sau khi chúng ta thoát được chết đuối, cướp biển, bệnh lị, thì hôm nay có thể tìm thấy chiếc vòng tay hoàn toàn nguyên vẹn, bị chôn vùi trong một bãi rác? Ai có thể nghĩ rằng những tên trộm sẽ vào ăn cắp những người sống trong một căn hộ khốn khổ như của chúng tôi? Ai có thể tưởng tượng được rằng những tên trộm lại đeo lên mình một món đồ trang sức lố bịch làm bằng nhựa màu hồng? Tất cả các thành viên trong gia đình tôi đều tin rằng bọn trộm đã vứt nó sang một bên khi chúng phân loại đồ ăn trôm. Vì vậy, có thể một ngày nào đó, hàng triệu năm nữa, một nhà khảo cổ học sẽ thắc mắc tại sao những viên kim cương lại được xếp thành hình tròn và đặt trong lòng đất. Ông ta có thể giải thích nó như một nghi thức tôn giáo, và những viên kim cương như một món quà bí ẩn, giống như tất cả những lượng vàng được phát hiện với số lượng đáng kinh ngạc ở độ sâu của Biển Đông.
Chắc chắn sẽ không ai biết được thực hư của chiếc vòng hồng một khi chất acrylic đã tan thành cát bụi, một khi năm tháng tích tụ thành hàng nghìn, hàng trăm lớp, bởi ba chục năm rồi ta mới nhận ra ta ngày xưa chỉ qua những mảnh vỡ, qua những vết sẹo, qua những tia sáng le lói.
Ba mươi năm, Sao Mai trỗi dậy như phượng hoàng hồi sinh từ đống tro tàn, như Việt Nam từ bức màn sắt và ba má tôi từ chiếc bồn cầu mà họ phải cọ rửa. Một mình cũng như cùng nhau, tất cả những con người trong quá khứ của tôi đã rũ bỏ lớp bụi bẩn trên lưng để dang rộng đôi cánh với bộ lông đỏ và vàng kim, trước khi lao thẳng về phía không gian xanh bao la, tô điểm cho bầu trời của các con tôi, để cho chúng thấy rằng một chân trời luôn che giấu một chân trời khác và cứ như vậy cho đến vô tận, tới vẻ đẹp không thể diễn tả của sự tái tục, tới niềm phấn khích không thể hiểu thấu được. Đối với tôi, điều đó đúng với tất cả khả năng của cuốn sách này, cho đến khoảnh khắc khi lời nói của tôi lướt qua đường cong trên môi bạn, đến những trang giấy trắng in dấu vết của tôi, hay đúng hơn là dấu vết của những người đã đi trước tôi, vì tôi. Tôi tiến về phía trước theo dấu chân họ như trong một giấc mơ thức tỉnh, nơi hương hoa anh túc mới thổi không còn là hương thơm mà là hoa nở: nơi màu đỏ đậm của lá phong mùa thu không còn là màu sắc mà là sự duyên dáng; nơi đất nước không còn là địa danh mà là lời ru.
Và nữa, nơi một bàn tay dang rộng không còn là một cử chỉ mà là một khoảnh khắc yêu thương, kéo dài cho đến khi ngủ, đến khi thức dậy, đến tận cuộc sống thường ngày.
Kim Thúy
Nguyễn Quang biên dịch năm 2022.
*******
Về tác phẩm và tác giả:
RU là câu chuyện về một người Việt tị nạn, một thuyền nhân mà ký ức đôi khi trở thành cái cớ để mua vui, đôi khi để chiêm nghiệm, dao động giữa bi kịch và hài hước, giữa Sài Gòn và Granby, giữa phàm tục và tâm linh, giữa cái chết giả và cuộc sống thật.
KIM THÚY đã từng làm thợ may, thông dịch viên, luật sư và chủ nhà hàng. Ru là cuốn sách đầu tiên của cô, đã được xuất bản ở 15 quốc gia và nhận được một số giải thưởng, bao gồm cả Giải thưởng Văn học của Toàn quyền. Kim Thúy hiện sống ở Montréal, nơi cô chuyên tâm viết lách.Về dịch giả: Nguyễn Quang, giáo viên về hưu, hiện sống tại một thành phố miền Trung Việt Nam