Kiều Thị An Giang: Ba cuộc chia cắt – Ba cách trở về

Tôi là người chứng kiến hai cuộc “thống nhất” của hai quốc gia. Một quốc gia tôi được sinh ra. Một quốc gia tôi trưởng thành và cũng là quê hương thứ hai của tôi.

Khi giải phóng miền Nam, tôi còn nhỏ, hầu như không có dấu ấn gì đặc biệt. Ngoài việc bà tôi năm nào cũng nuôi một đàn lợn béo như tranh, để “thằng An giải phóng miền Nam về cưới vợ”. Ngày cờ đỏ sao vàng bay trên nóc dinh Độc lập, bà giết hết lợn, khao cả xóm. 

Vì cậu tôi không về nữa…

Thống nhất nước Đức thì tôi đã đủ nhận thức để hiểu chuyện gì xảy ra. Không phải với tư cách người đương thời, mà là, cái nhìn tỉnh táo của người đi qua hai cuộc chiến của hai quốc gia mà tôi đều yêu thương gọi là Tổ quốc.

Xin có vài nhận định thế này:

I. Khi đất nước bị chia làm hai: nỗi đau không của riêng ai

Trên bản đồ chính trị thế giới hiện đại, hiếm có quốc gia nào trải qua một nỗi đau lịch sử giống nhau đến thế: cùng một dân tộc, một ngôn ngữ, một cội rễ – lại bị chia đôi bởi những đường vĩ tuyến, bức tường bê tông, hay dòng sông lịch sử.

Ba quốc gia: Việt Nam, Đức, và Triều Tiên – là ba minh chứng rõ ràng nhất cho vết cắt chiến tranh để lại.

• Việt Nam: chia cắt từ năm 1954 theo Hiệp định Genève, sau chiến thắng Điện Biên Phủ.

• Đức: chia cắt sau Thế chiến II, thành Đông và Tây Đức – hai nửa đại diện cho hai cực của Chiến tranh Lạnh.

• Triều Tiên: sau năm 1953, Hiệp định đình chiến thiết lập đường ranh giới quân sự giữa Bắc – Nam tại vĩ tuyến 38.

Nhưng điều đặc biệt nằm ở chỗ: trong khi Bắc – Nam Hàn vẫn tiếp tục đối đầu căng thẳng như hai kẻ thù truyền kiếp, thì Đức đã thống nhất trong ôn hòa, còn Việt Nam thì về một mối bằng một cuộc chiến tranh kéo dài suốt hai thập kỷ.

Vì sao lại khác biệt đến thế?

II. Đức và Việt Nam: Hai con đường thống nhất- hai số phận hậu chiến

1. Cách thức thống nhất: Bạo lực hay đối thoại?

Việt Nam (1975)

Việt Nam thống nhất sau một cuộc chiến dài hơn 20 năm. Chiến tranh kết thúc ngày 30/4/1975 bằng chiến thắng quân sự của miền Bắc. Dù được ghi nhận là một chiến thắng “thống nhất đất nước”, nhưng đây cũng là một thống nhất bằng vũ lực.

Cái giá phải trả là rất lớn: khoảng 3 triệu người Việt Nam thiệt mạng (tính cả quân và dân hai miền), hơn 300.000 liệt sĩ phía Bắc, và hàng trăm ngàn quân nhân miền Nam thiệt mạng hoặc mất tích.

Đức (1990)

Ngược lại, Đức thống nhất mà “không tốn một viên đạn.” Sự kiện Bức tường Berlin sụp đổ vào ngày 9/11/1989 là kết quả của phong trào biểu tình ôn hòa, sự tan rã của Liên Xô, và khát vọng tự do của người dân Đông Đức.

Ngày 3/10/1990, nước Đức thống nhất về mặt pháp lý: Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) chính thức sáp nhập vào Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức), với mô hình dân chủ và kinh tế thị trường.

2. Thái độ với bên kia sau thống nhất

Việt Nam:

Sau thống nhất, chính quyền mới ở miền Nam được tái cơ cấu toàn diện dưới mô hình XHCN. Hàng trăm ngàn quân nhân, công chức chế độ cũ bị đưa vào trại cải tạo – có người bị giam nhiều năm.

Cải tạo công thương nghiệp tư nhân, cải tạo tư tưởng văn hóa cũng được triển khai.

Một số chính sách được thực hiện với mục đích “xây dựng xã hội mới”, nhưng để lại tổn thương dai dẳng, nhất là ở những người từng sống và phục vụ chế độ Sài Gòn.

Đức:

Dù trên thực tế Tây Đức là bên “thắng cuộc”, nhưng nhà nước Liên bang Đức không tiến hành trả thù.

Chính sách “hòa nhập, không loại trừ” được triển khai:

• Cán bộ, công chức Đông Đức được xem xét tái hòa nhập.

• Chỉ một số ít bị loại trừ do liên quan đến Stasi – cơ quan mật vụ Đông Đức.

• Không có trại cải tạo, không có án tù hàng loạt.

3. Chi phí tái thiết: Ai chịu gánh nặng?

Đức:

Sau thống nhất, Tây Đức chấp nhận gánh toàn bộ chi phí tái thiết Đông Đức- một vùng đất trì trệ, thiếu hạ tầng và tụt hậu kinh tế.

• Chính phủ chi hơn 2.000 tỉ euro trong ba thập kỷ để hiện đại hóa miền Đông.

• Thuế đoàn kết (Solidaritätszuschlag) được áp dụng từ năm 1991- người dân Tây Đức phải đóng thêm 5,5% thuế thu nhập để hỗ trợ miền Đông.

• Các thành phố như Leipzig, Dresden, hay Erfurt dần hồi sinh, nhưng khoảng cách phát triển vẫn chưa xoá hẳn.

Việt Nam:

Sau thống nhất, Việt Nam bước vào giai đoạn bao cấp, bị cấm vận từ phía Mỹ và phương Tây, chiến tranh biên giới với Campuchia (1978) và Trung Quốc (1979) càng làm nền kinh tế kiệt quệ.

• Từ 1975 đến 1985 là giai đoạn cực kỳ khó khăn, lạm phát ba chữ số, thiếu đói diện rộng.

• Phải đến Đổi mới 1986, Việt Nam mới bắt đầu phục hồi kinh tế bằng cách chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN.

• Hơn 10 năm sau chiến tranh mới thực sự mở cửa giao thương, và đến năm 1995, quan hệ Việt- Mỹ mới được bình thường hóa.

III. Bắc- Nam Hàn: Một vết rạn chưa lành

So với Đức và Việt Nam, bán đảo Triều Tiên là biểu tượng của sự chia cắt chưa thể hàn gắn. Hai miền vẫn ở trong trạng thái chiến tranh lạnh, dù Hiệp định đình chiến đã ký từ 1953, thậm chí đối đầu, “kẻ thù truyền thống”…

• Không có thống nhất.

• Không có tiến trình hòa giải thực chất.

• Triều Tiên và Hàn Quốc phát triển theo hai hướng hoàn toàn đối lập: một bên độc tài khép kín, một bên dân chủ thịnh vượng.

Thậm chí đến hôm nay, Hàn Quốc và Triều Tiên vẫn không có đại sứ quán tại nhau, đường dây nóng chỉ hoạt động trong thời gian ngắn, và mỗi khi có sự kiện chính trị lớn, căng thẳng quân sự lại gia tăng.

IV. Nhìn lại: Thống nhất không phải là đích đến

Không có con đường thống nhất nào là hoàn hảo.

• Đức mất 30 năm và hàng ngàn tỉ euro để Đông – Tây hòa nhập.

• Việt Nam phải hy sinh rất nhiều, cả về người, về thời gian phát triển, và những vết thương tâm lý chưa lành.

• Triều Tiên – Hàn Quốc thì vẫn đang sống trong nỗi chờ đợi mỏi mòn.

Nhưng điều quan trọng là: thống nhất chỉ là điểm khởi đầu.

Quan trọng hơn là chúng ta đối xử với quá khứ như thế nào.

• Khoan dung không có nghĩa là quên.

• Nhìn thẳng vào lịch sử không có nghĩa là kết tội.

• Một quốc gia trưởng thành là quốc gia biết học từ nỗi đau – để không ai bị bỏ lại phía sau.

V. Và hôm nay, chúng ta viết tiếp trang sử ấy…

Chúng ta đang ngồi đây, viết lại lịch sử bằng trái tim.

Không phải để lên án, càng không phải để phán xét.

Chỉ là để nhắc nhau: nếu đã có một ngày đau thương chia đôi đất nước, thì cũng phải có một ngày đủ bao dung để nối lại nhau bằng tình yêu và sự thật.

Người Việt mình từng là bên thắng- hay bên thua- thì giờ cũng cùng đi chợ, cùng trả tiền điện, cùng đau đáu cho tương lai con cái, cùng chung nhau đại dịch Covid và giờ đây, chung lưng chống lại quả bom thuế quan đang chờ phát nổ.

Thống nhất thật sự, không đến từ súng đạn hay hiệp định.

Nó đến từ một cái nắm tay- giữa hai thế hệ, giữa hai ký ức, giữa hai miền đã từng đổ máu vì không thể hiểu nhau.

VI. Điều nước Đức dạy ta không phải là chiến thắng- mà là nghệ thuật chung sống

Nước Đức ngày nay- dù đã thống nhất gần bốn thập kỷ- vẫn còn những khác biệt khó xoá giữa Đông và Tây. Những khoảng cách thu nhập, niềm tin chính trị, và cơ hội phát triển không thể biến mất sau một đêm. Nhưng điều đáng quý là: họ không tìm cách phủ nhận sự khác biệt, mà học cách chung sống với nó.

Chính phủ Đức không cố tô vẽ lịch sử hay dựng lại bức tường vô hình giữa hai miền.

Thay vào đó, họ làm điều giản dị nhưng khó nhất:

• Hàn gắn bằng chính sách, không phải bằng khẩu hiệu.

• Đối thoại bằng công bằng, không phải bằng định kiến.

• Đối xử với quá khứ như một phần để hiểu nhau, chứ không phải để kết tội nhau.

Và trên hết- họ làm điều đó một cách kiên định, như một chủ trương xuyên suốt quốc gia:

“Không có bên thắng- bên thua, chỉ có một nước Đức.”

Đó cũng là điều mà Việt Nam- quê hương của mình- đang cần:

• Một tinh thần nhân văn để chữa lành.

• Một chính sách nhất quán để bao dung.

• Một sự dũng cảm để không khoét sâu vào vết thương thắng- thua, mà học cách nhìn nhau như những người cùng đi qua giông bão.

Thống nhất không khép lại quá khứ- thống nhất mở ra trách nhiệm sống chung với ký ức.

Và chỉ khi nào người Việt thôi hỏi nhau: “Anh là ai trong cuộc chiến?”

Mà bắt đầu hỏi nhau: “Mai này, con cháu mình sẽ sống trong một đất nước thế nào?”

Thì khi ấy, thống nhất mới thật sự bắt đầu.

Bức tường Berlin sụp đổ, 1989.
Người dân Đức đã bầu Angela Merkel– một nhà hóa học lượng tử đến từ Đông Đức làm Thủ tướng của nước Đức sau thống nhất suốt 16 năm (2005 – 2021)

Tháng Tư, 2025

Kiều Thị An Giang