Nguyễn Văn Huy : Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên (Kỳ 3)

Bản đồ các sắc tộc ở Đông Dương phân chia theo nhóm ngôn ngữ (Nhà xuất bản Monrocq – Paris, in năm 1917). Màu xanh lá là địa bàn của người Bahnar, Mạ, Stieng, Lạt, Koho. Màu xám là vùng của người Jarai, cùng nhóm ngôn ngữ với người Chăm, Rhadé, Raglai và Churu. Màu đỏ nhạt là vùng của người Việt.

3. Những cố gắng tìm một giải pháp sống chung trong hòa bình

Từ ngày 15 đến 17/10/1964, một đại hội các sắc tộc Thượng được triệu tập tại Pleiku, gồm 73 thân hào nhân sĩ Thượng và đại diện chính quyền Sài Gòn để hình thành một chính sách Thượng vụ hợp tình hợp lý : tái lập quyền sở hữu đất đai và các tòa án phong tục, dạy tiếng Thượng ở cấp tiểu học, chấp nhận sự tham chính của người Thượng, giúp đỡ thiết thực hơn người Thượng và nâng Nha Đặc Trách Thượng Vụ thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ (trước đó, ngày 5/5/1964 Nha Công Tác Xã Hội miền Thượng đổi thành Nha Đặc Trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc Phòng, ngày 7/10/1964 trực thuộc Phủ Thủ Tướng).

Nhóm Dân Sự ôn hòa, do ông Y Nhiam và bà Hzap (vợ Y Dhe Adrong) đại diện, được phó đại sứ Hoa Kỳ Alexis Johnson và đại tướng Morton bảo trợ từ Cambodia về Buôn Ma Thuột thành lập Ban Đại Diện Chính Phủ Lâm Thời Cao Nguyên.

Ngày 2/8/1965, Y Dhe Adrong cầm đầu một phái đoàn từ biên giới Cambodia về Sài Gòn thương thuyết. Một tuyên cáo chung kêu gọi FULRO Thượng hợp tác trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp sống chung và chống Cộng được ký kết.

Vài hôm sau, ngày 16/8/1965, từ Camp Le Rolland Y Bham Enuol gởi đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa một văn thư đòi : xác nhận lãnh thổ Thượng từ vĩ tuyến 17 đến Đồng Xoài gồm cao nguyên Kontum, Pleiku, Đắc Lắc, Phú Bổn, Đồng Nai thượng, Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức và một phần các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, gọi chung là Liên Bang Cao Nguyên trong Cộng Hòa Liên Bang Việt Nam ; có quốc kỳ riêng ; có quân đội riêng ; giảm số người Việt Nam di cư lên cao nguyên bằng con số trước năm 1954. Y Bham đề nghị tổ chức các cuộc thương thuyết tại Buôn Ma Thuột hoặc tại Manila (Philippines) nhưng yêu sách này không được Sài Gòn chấp thuận.

Y Bham Enuol (1913-1975), người sáng lập phong trào BAJARAKA. Ảnh : MHRO

Ba tuần sau, ngày 23/8/1965, Y Dhe Adrong dẫn một phái đoàn khác từ Camp Le Rolland đến Buôn Ma Thuột họp. Phái đoàn Việt Nam, do hai tướng Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc đại diện, yêu cầu quân FULRO phải buông súng mới chịu thảo luận.

Buổi lễ giao nộp vũ khí của 500 FULRO Thượng tại Buôn Buor được cử hành trọng thể ngày 15/9/1965, tướng Vĩnh Lộc đưa phái đoàn Y Dhe Adrong, Y Ngo Buôn Ya, Y Bun Sor, Y Nhiam Nie, Y Senh Nie về Sài Gòn gặp đại diện của Hoa Kỳ (các ông Peterson và Anderson) và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để thảo luận về qui chế đặc biệt dành cho người Thượng : một lực lượng quân sự 150.000 người dưới sự chỉ huy của FULRO, một quốc kỳ tương đương với quốc kỳ của Việt Nam Cộng Hòa, một phái đoàn độc lập có quyền đi dự những hội nghị quốc tế, quyền tiếp đón trực tiếp các đại diện của Hoa Kỳ và các nước khác, quyền triệu tập một Đại Hội Đồng Dân Tộc Thiểu Số, thành lập một phái đoàn Đại Diện Dân Tộc Thiểu Số…

Trong khi đó, từ 29/7 đến 2/8/1965, nhóm quá khích, sau khi tố cáo Y Bham Enuol bị mua chuộc, bí mật tổ chức bạo loạn, họ rải truyền đơn hô hào “Cao Nguyên của người Cao Nguyên !”, “Thực dân Kinh hãy cút !”.

Vài tháng sau, từ ngày 12 đến 18/12/1965, Y Dhon Adrong cùng Y Nuin Hmok và thiếu úy Y Nam Eban dẫn một nhóm FULRO gồm đại đội 296 Địa Phương Quân, trung đội 1-503 Nghĩa Quân Thượng do thượng sĩ Nay Rí chỉ huy tấn công đồn Phú Thiện (tỉnh Phú Bổn) sát hại 32 người và làm bị thương 26 người. Sau đó Y Nam Eban cùng Y Tam Uong, đội trưởng và đội phó đại đội 281, chỉ huy lính Thượng chiếm đồn Krong Pach, giết hết binh sĩ Kinh. Tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Klam chỉ huy đột nhập Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Quảng Đức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO.

Tướng Vĩnh Lộc chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật huy động Sư Đoàn 23 Bộ Binh và một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tấn công vào những nơi bị chiếm, bắt được một số tù binh và truy đuổi tàn quân FULRO gay gắt. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, được sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ, ra lệnh cho Vĩnh Lộc nương tay và để những nhân vật quan trọng và sĩ quan cao cấp Thượng chạy sang Cambodia.

Tin nổi loạn tại Việt Nam vang đến Camp le Rolland, Y Bham Enuol sai con rể là trung tá Y Em chận bắt những phần tử quá khích tại vùng biên giới. Y Dhon Adrong và Y Nuin Hmok bị Y Em bắt và đem về Camp le Rolland xử tử, Y Bun Sor chạy thoát về Phnom Penh báo cáo. Tướng Les Kosem, không dám phản đối quyền lãnh đạo FULRO Thượng của Y Bham Enuol, lên Camp le Rolland thương lượng và cử hai người Chăm vào những chức vị cao bên cạnh Y Bham Enuol là Đằng Năng Giáo (bí danh Yang Neh) làm đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch đặc trách chính trị và nội vụ, và Thiên Sanh Thi giữ chức tư lệnh Quân Khu 3 (Ninh Thuận và Bình Thuận) kiêm sư đoàn trưởng Sư Đoàn Po Romé. Hai người Chăm này có nhiệm vụ kềm chế những quyết định thân thiện Việt Nam của Y Bham Enuol. Y Bun Sor được Les Kosem phong làm phụ tá quân sự đặc trách FULRO Thượng tại Phnom Penh.

Les Kosem (1927-1976), Sĩ quan quân đội Campuchia-Chăm, Đại sứ của Cộng hòa Khmer tại Phnom Penh, chịu trách nhiệm thành lập FLC (Mặt trận Giải phóng Champa)

Tuy không bằng lòng về sự canh chừng này, Y Bham Enuol vẫn ra lệnh cho Y Dhe Adrong về Việt Nam thương thuyết với Paul Nur, đại diện chính quyền miền Nam. Các cuộc thương lượng kéo dài gần một năm. Tin tưởng vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, phong trào FULRO đòi hỏi rất quyết liệt và tỏ ra không nhân nhượng về yêu cầu thành lập Liên Bang Cao Nguyên Việt Nam, quyền có quốc kỳ, quyền có quân đội riêng và quyền đại diện chính thức. Lo sợ Y Bham Enuol phản bội lý tưởng ban đầu là tranh đấu giành độc lập cho Tây Nguyên, ngày 20/9/1966 Les Kosem và Chau Dera xua quân bao vây Camp Le Rolland rồi ép Y Bham Enuol ký giấy nhường lãnh thổ của người Thượng từ sông Sre Pok (Nam Lào và đông bắc Cambodia) đến Pleiku cho Mặt Trận Giải Phóng Chiêm Thành (FLC). Nhưng âm mưu này không thành, trung tá Y Em mang quân đến giải vây và bắt sống một số binh sĩ Khmer và Chăm đang vây Camp le Rolland. Y Bham được giải thoát, xé giấy nhượng đất.

Để xoa dịu sự bất mãn của người Thượng, chính sách Thượng vụ phát họa ngày 17/10/1964 được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thi hành. Đầu năm 1966, Y Chon Mlo Duon Du và Nay Luett đặt Văn Phòng Liên Lạc thuộc Nha Đặc Trách Thượng Vụ ở Buôn Ma Thuột để thương nghị với Y Dhe Adrong. Ngày 12/2/1966, một đại hội Kinh Thượng được tổ chức tại Kontum lên án gắt gao nhóm quá khích và Tòa Án Quân Sự Vùng II Chiến Thuật, họp tại hội trường Diên Hồng Pleiku, xử những quân nhân Thượng phản loạn cấp thấp (4 tử hình, 1 chung thân, 3 khổ sai 20 năm và nhiều án khổ sai 10 năm). Ngày 22/6/1966 Nha Đặc Trách Thượng Vụ được nâng lên thành Phủ Đặc Ủy Thượng Vụ, Paul Nur làm đặc ủy trưởng, để chuẩn bị cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Paul Nur và Y Bham Enuol.

Ngày 2/6/1967, Y Bham Enuol đích thân cầm đầu một phái đoàn đến Buôn Ma Thuột thương nghị và yêu cầu chính quyền miền Nam sớm ban hành qui chế riêng cho người Thượng. Một đại hội các sắc tộc thiểu số trên toàn quốc được triệu tập trong hai ngày 25 và 26/6/1967 để đúc kết các thỉnh nguyện chung của người thiểu số. Ba văn kiện được đệ trình lên chính phủ là bản thỉnh nguyện, bản kiến nghị và bản tuyên ngôn, tất cả đều được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, long trọng chấp thuận và cam kết sẽ cho thực hiện. Ngày 29/8/1967, đại hội các sắc tộc được tổ chức tại Buôn Ma Thuột dưới sự chủ tọa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia, và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Chính phủ ký sắc luật số 033/67 cùng ngày ban hành Qui Chế Đặc Biệt nâng đỡ người thiểu số theo kịp đà tiến bộ của dân tộc. Tháng 11/1967 Quốc hội lập hiến Việt Nam Cộng Hòa ủy nhiệm Bộ Phát Triển Sắc Tộc nghiên cứu một dự thảo luật về Hội Đồng Sắc Tộc.

Năm sau, tháng 8/1968, Y Bham Enuol dẫn đầu một phái đoàn cao cấp gồm 28 người (Y Dhe Adrong, Y Preh, Ksor Dut, Kpa Doh, Y Ton, Thiên Sanh Thi, Huỳnh Ngọc Sắng, Zu Zol, Thạch Thân Apol, Chay Rithi, Sa Phol, Chau Chen, Chau Phước…) từ Camp le Rolland về Buôn Ma Thuột họp với Paul Nur, Ya Ba, Châu Văn Mổ, Nay Luett, Nguyễn Hữu Oanh… đòi hỏi những quyền lợi khác cho người Thượng nhưng không kết quả. Cuộc thương lượng cuối cùng ở cấp bậc cao nhất giữa Y Bham Enuol (với tư cách chủ tịch phong trào FULRO) và đổng lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng được tổ chức ngày 11/12/1968 đi đến một thỏa thuận như sau : phong trào FULRO được quyền có một hiệu kỳ nhưng không phải là quốc kỳ, Bộ Sắc Tộc được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do một người Thượng lãnh đạo, phái Đoàn Sắc Tộc sẽ được thiết đặt tại Buôn Ma Thuột, một tỉnh trưởng hay phó tỉnh trưởng người sắc tộc sẽ được đề cử tại những tỉnh có đông người sắc tộc cư ngụ, những lực lượng địa phương quân sắc tộc (Thượng) sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan sắc tộc (Thượng), một sĩ quan hay hạ sĩ quan sắc tộc (Thượng) sẽ được đề cử ngay trong những đơn vị quân đội chính qui có đông người sắc tộc… Lễ ký kết sẽ được cử hành tại Buôn Ma Thuột đầu năm 1969. Phái đoàn Y Bham Enuol về Camp le Rolland thu xếp đồ đạc chuẩn bị sang Việt Nam ở luôn.

Sáng 30/12/1968, phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa vượt biên giới sang Camp Le Rolland đón Y Bham Enuol cùng gia đình và lực lượng FULRO Thượng về Buôn Ma Thuột. Nhưng trước đó vài giờ, Les Kosem ra lệnh cho Y Bun Sor điều động hai trung đoàn quân đội hoàng gia Khmer đến bao vây Camp le Rolland. Đằng Năng Giáo, Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Ksor Dut, Kpa Doh, Kpa Blan chỉ huy đội cảm tử ập đến bắt cóc Y Bham Enuol và gia đình đưa về Phnom Penh. Y Em cùng một số thân tín bỏ chạy vào rừng. Phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa phải quay trở về Buôn Ma Thuột. Cùng ngày Les Kosem bay lên Mondulkiri trấn an và thuyết phục binh sĩ FULRO Thượng còn lại phải tuân lệnh bộ chỉ huy FULRO mới đặt tại Phnom Penh.

Từ đó Y Bham Enuol bị giam lỏng tại Phnom Penh dưới sự quản chế của Les Kosem. Một số thân tín Chăm và Thượng được Les Kosem thăng thưởng và cất nhắc lên những chức vụ chỉ huy. Ngày 31/12/1968 Les Kosem thành lập Hội Đồng Nội Các Lâm Thời FULRO, chủ tịch là Yang Neh (Đằng Năng Giáo), Souleiman (Thiên Sanh Thi) làm phó, đại tá Y Bhan Kpor tham mưu trưởng, trung tá Y Nam Eban tham mưu phó. Nội các này bị Les Kosem giải tán 10 ngày sau đó vì bất lực trong việc tổ chức điều hành. Để thay thế, Les Kosem thành lập một Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO gồm toàn người Chăm do chính ông làm chủ tịch, Souleiman làm phụ tá đặc trách quân sự, El Ibrahim phụ tá đặc trách hành chánh, Mohamet phụ tá đặc trách tiếp vận. Y Bun Sor được cử đi du học tại trường Sorbonne Paris, Pháp.

Đầu năm 1969, Les Kosem giải tán Mặt Trận Cao Nguyên (FLHP) và cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên và Bình Nguyên Champa (Front để Libération des Hauts Plateaux et du Champa, gọi tắt là FLHPC) do Y Bhan Kpor làm chủ tịch. Y Bhan Kpor kêu gọi người Mỹ hãy ở lại Cao Nguyên với dân tộc Thượng. Tháng 6/1969, Les Kosem tạm ngưng khóa huấn luyện FULRO tại Phnom Penh, đưa các khóa sinh lên Mondulkiri và Rattanakiri thay thế lực lượng của Y Bham Enuol. FULRO Chăm được giao vai trò lãnh đạo tại Mondulkiri (Đặng Nô, Đồng Tập, Kinh Hoài Diệp…) và tại Rattanakiri (Đằng Năng Giáo, Kpa Toh, Tạ Văn Lành), nhưng nhóm FULRO Thượng tại đây không chấp nhận sự chỉ huy của Y Bhan Kpor, họ chỉ tuân phục Y Bham Enuol mà thôi. Ngày 29/7/1969 Les Kosem họp với Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Đại Đủ (Po Dharma), Thiên Sanh Thi, Hoàng Minh Mộ, Đặng Văn Thủy, Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Kpa Doh tại Phnom Penh tìm người làm chủ tịch FULRO nhưng không thành, Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao FULRO Chăm đảm nhận luôn việc điều hành nhóm FULRO Thượng. 

Trở lại Việt Nam, hiệp ước chung cuộc cuối cùng được ký kết giữa Paul Nur, đại diện Việt Nam Cộng Hòa, và Y Dhe Adrong, đại diện phe FULRO chứ không với Y Bham Enuol như đã dự trù. Lễ ký kết được diễn ra trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 1/2/1969 dưới sự chủ tọa của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Văn Hương. Cờ Việt Nam Cộng Hòa treo cạnh cờ FULRO với những biểu ngữ “Tình đoàn kết Kinh Thượng muôn năm”, “Hoan hô các anh em FULRO trở về phục vụ quốc gia”…

Theo tin tình báo của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1969, có 5.471 người qui thuận gồm 2.257 binh sĩ và nhân viên dân sự, 3.214 thân nhân gia đình và 895 súng ống đủ loại. Như vậy tổng cộng có gần 6.000 người qui thuận (ngày 15/9/1965 có hơn 500 người đã ra đầu thú).

Trong lời bế mạc buổi lễ, Y Dhe Adrong tuyên bố : “Kể từ ngày hôm nay, phong trào FULRO không còn nữa trên Cao Nguyên, bất cứ ai sử dụng danh nghĩa FULRO sau này để phá hoại sự đoàn kết Kinh-Thượng sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành của chính quyền”.

Hồ sơ FULRO đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa coi như kết thúc, một giai đoạn hợp tác mới được mở ra. Nhưng thực tế đã không giản dị như vậy, người Chăm và Thượng vẫn chưa có một chỗ đứng danh dự như mong muốn, phong trào FULRO tiếp tục đấu tranh trong bóng tối.

4. Những chuẩn bị về chính sách Thượng vụ của giới tướng lãnh

Người góp công nhiều nhất trong việc xây dựng một chính sách Thượng vụ chấp nhận được cho mọi người trong giai đoạn này là Đại úy Nguyễn Văn Nghiêm, Trưởng phòng Thượng vụ Quân Đoàn II. Ông là người ghi chép và đúc kết tất cả những nguyện vọng của các sắc tộc Thượng, Chăm và trình bày lại một cách mạch lạc để đệ trình lên Chính phủ duyệt xét.

Chúng tôi xin đăng lại dưới đây nguyên văn lá thư và bài viết của học giả Nguyễn Văn Nghiêm nhân đọc những bài viết về người Thượng tại Việt Nam của tôi trên báo Thông Luận.

4.1. Chính sách đối với các sắc tộc thiểu số của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa từ 1964 đến 1975

Gần đây Giáo sư Nguyễn Văn Huy, một nhà dân tộc học, phụ trách Khoa các dân tộc Đông Nam Á tại Đại học Paris 7, có viết một số bài về người Thượng trên Cao Nguyên miền Trung Việt Nam, được đăng trên báo Người Việt ở Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Ông có cho rằng thời gian mười năm 1965 – 1975 là thời kỳ vàng son của người Thượng, và sở dĩ người Thượng có được thời kỳ như vậy là nhờ áp lực của các cường quốc Pháp và Mỹ. Nguyên văn câu viết của ông như sau :

“Vì không muốn bị diệt vong, từ 1956 người Thượng tìm hậu thuẫn ở các thế lực phương Tây (Pháp và Mỹ) để được tồn tại, và dưới áp lực của các cường quốc này cộng đồng người Thượng mới có một chỗ đứng vinh dự hơn, nhưng thời vàng son này đã không kéo dài lâu, chỉ được mười năm thì chấm dứt (từ 1965 đến 1975)” (Người Việt, ngày 11/4/2001, trang B2).

Là một sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, có may mắn được phục vụ trong các cơ quan Thượng vụ từ 1956, tôi thấy rằng thời kỳ vàng son nói trên của người Thượng tuy một phần có ảnh hưởng của người Mỹ, nhưng của người Pháp thì còn cần phải xem xét lại. Nguyên nhân chính đem lại một chỗ đứng vinh dự cho người Thượng, là do những nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Việt Nam sau chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đều là những người đã từng chỉ huy ở Cao nguyên từ lâu năm và rất có ý thức về những vấn đề của người Thượng. Chính những vị này đã ban hành và liên tục thực thi một chính sách bảo đảm đem lại đầy đủ quyền công dân và quyền sống của con người, không chỉ cho người Thượng trên Cao nguyên nói riêng mà còn cho cả người Thượng miền Bắc di cư vào miền Nam từ 1954, người Chàm, và sau này cho cả người Miên ở Hậu Giang nói chung nữa.

Tìm hiểu nguyện vọng của người Thượng và Chàm

Ý thức được những bất công đối với người Thượng do chính sách của Chính phủ Ngô Đình Diệm để lại, ngay sau khi đảo chánh lật đổ Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã quan tâm đến vấn đề này. Thiếu tướng Đỗ Mậu, cựu Tư lệnh Phân khu Duyên Hải gồm 4 Tiểu khu : Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận (1955 – 1956), Ủy viên Chính trị trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đã đệ trình một kế hoạch đặc biệt nâng đỡ đồng bào Thượng nhằm giải quyết vấn đề nói trên. Một số lớn lãnh tụ Thượng trong phong trào BaJaRaKa chống chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bị bắt từ 1958, đã được Đại tướng Dương Văn Minh cho lệnh thả ngay. Ông Paul Nur, sắc tộc Bahnar, Phó Chủ tịch Phong Trào sau khi được tha về, đã được bổ nhiệm ngay vào chức vụ Phó Tỉnh trưởng Thượng tỉnh Kontum. Tuy nhiên kế hoạch nâng đỡ đồng bào Thượng của Thiếu tướng Đỗ Mậu đệ trình chưa kịp được thi hành thì ngày 29/1/1964 đã xảy ra một cuộc Chỉnh Lý lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. 

Chính phủ mới do Trung tướng Nguyễn Khánh, nguyên Tư lệnh Quân Đoàn II và Vùng II Chiến Thuật ở Cao Nguyên về làm Thủ tướng, là người đặc biệt chú trọng đến vấn đề người Thượng. Việc làm đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Khánh là ngày 11/2/1964, thả nốt người đứng đầu phong trào BaJaRaKa, ông Y Bham Enuol, sắc tộc Rhade, Chủ tịch Phong Trào. Ông cũng được bổ nhậm vào chức vụ Phó Tỉnh trưởng Thượng tỉnh Đắc Lắc. Sau đó chính phủ và chính quyền tại Cao Nguyên đã liên tiếp tổ chức nhiều Hội nghị các lãnh tụ người Thượng, Chàm, để tìm hiểu nguyện vọng của họ hầu ban hành một chính sách mới phù hợp với nguyện vọng chính đáng của đồng bào. 

Hội nghị đầu tiên do Phòng 5 Sư Đoàn 23 Bộ Binh và Khu 23 Chiến Thuật tổ chức ngày 9/1/1964, tại Banmêthuột, dưới quyền chủ tọa của Đại tá Lê Quang Trọng, Tư lệnh Sư Đoàn và Khu 23 Chiến Thuật. Ông Y Chôn Mlô Đuôn Đu, Tham sự Hành chánh, sắc tộc Rhade, đã đại diện các lãnh tụ Thượng trong hội trường xin chính phủ có một chính sách công bằng và những chương trình hữu hiệu, thực tế để nâng cao đời sống của đồng bào Thượng, Chàm.

Thủ tướng Nguyễn Khánh cũng cho lệnh Nha Đặc Trách Thượng Vụ tổ chức mời 55 lãnh tụ Thượng, Chàm trên Cao Nguyên và các tỉnh miền Trung về thăm viếng Thủ đô Sài Gòn ngày 5/5/1964. Nhân dịp này Thủ tướng đã chủ tọa một hội nghị với các lãnh tụ Thượng, Chàm, và tiếp nhận tất cả những nguyện vọng của họ. Đây là lần đầu tiên từ 1954, người Thượng, Chàm có cơ hội được tự do trực tiếp trình bày những ý kiến của mình trước người lãnh đạo cao cấp nhất của quốc gia. 

Hội nghị lần thứ ba diễn ra tại Hội quán Phượng Hoàng, Pleiku, do Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II và Vùng 2 Chiến Thuật tổ chức trong hai ngày 25 và 26/8/1964, dưới quyền chủ tọa của Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh Quân Đoàn II. Một Ủy ban gồm Thiếu tá Ya Ba, Đại úy Y Pem Knul, Tham sự hành chánh Y Chôn Mlô Đuôn Đu, và Đại úy Nguyễn Văn Nghiêm, Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II, được thành lập để đúc kết tất cả những nguyện vọng của các sắc tộc Thượng, Chàm đệ trình lên Chính phủ.

Nhưng đáng kể nhất là Đại hội đại diện đồng bào thiểu số họp tại Pleiku trong ba ngày 15, 16 và 17/10/1964, và cuộc họp của Hội Đồng Nội Các Chính Phủ tại Biệt điện của Tổng thống, một biệt thự bằng gỗ trên những cột cao, kiến trúc theo kiểu nhà sàn của đồng bào Thượng, tại Pleiku đêm 16/10/1964. Thủ tướng Nguyễn Khánh, hai vị Phó Thủ tướng, các vị Tổng trưởng các Bộ Tư Pháp, Giáo Dục… Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Tư lệnh Quân Đoàn II, ông Tổng giám đốc Nha Điền Địa, và Trung tá Ngô Văn Hùng nguyên Giám đốc Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng, đã nghe Đại úy Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II trình bày những nguyện vọng của đồng bào Thượng, Chàm, và những đề nghị về một chính sách mới, cùng những biện pháp thiết thực giúp đỡ đồng bào về mọi mặt chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, kinh tế, y tế, luật pháp, v.v. Hội Đồng Nội Các đã thảo luận kỹ càng từng điểm một, do đó cuộc họp đã kéo dài suốt bốn tiếng rưỡi đồng hồ, từ 8 giờ 30 tối đến 1 giờ sáng ngày hôm sau. Chính trong cuộc họp này Thủ tướng Nguyễn Khánh và Hội Đồng Chính Phủ đã chấp thuận những đề nghị của Trưởng Phòng Thượng Vụ Quân Đoàn II và quyết định ban hành một chính sách mới không chỉ áp dụng cho người Thượng nói riêng mà còn áp dụng cho cả người thiểu số Việt Nam nói chung. Người thiểu số ở đây bao gồm người Thượng miền Nam, người Thượng miền Bắc di cư tị nạn Cộng sản năm 1954, hầu hết đang định cư trên Cao Nguyên, và người Chàm. Chính sách này về sau cũng được áp dụng cho người Miên ở Hậu Giang nữa.

Chính sách đối với các sắc tộc thiểu số Việt Nam

Chính sách được ban hành dưới dạng một Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ gửi nhân dân cả nước, và do Thủ tướng đọc trước Đại hội đại diện người Thượng miền Nam, miền Bắc, và người Chàm ngày 17/10/1964. Chính sách mới được đặt trên ba nguyên tắc căn bản:

1. Đồng bào thiểu số Việt Nam là công dân của nước Việt Nam. Đồng bào có quyền được hưởng đầy đủ quyền công dân như mọi công dân thuộc những sắc tộc khác.

2. Tuy nhiên vì đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, Chính phủ có trách nhiệm phải hoạch định ra những chương trình, kế hoạch hầu giúp đồng bào mau chóng tiến bộ theo kịp đà tiến bộ chung của toàn dân tộc.

3. Chính phủ tôn trọng phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chữ viết, văn hóa của đồng bào thiểu số. Tòa án phong tục Thượng sẽ được thành lập trở lại. Tiếng Thượng sẽ được dạy lại trong các trường học. Quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng được tôn trọng, và một chương trình Kiến Điền sẽ được tiến hành để cũng cấp bằng khoán về quyền sở hữu đất đai cho đồng bào.

Ngay trong buổi họp này vị Tổng trưởng Bộ Tư Pháp đã thảo một Nghị định hủy bỏ Nghị định cũ của Chính phủ Ngô Đình Diệm không công nhận quyền sở hữu đất đai canh tác của người Thượng, tái xác nhận chính phủ tôn trọng quyền sở hữu đất đai của các gia đình người Thượng, và hứa hẹn sẽ ban hành một chương trình Kiến Điền để đảm bảo quyền sở hữu đất đai canh tác của đồng bào. Chương trình Kiến Điền sẽ do Tổng Nha Điền Địa thực hiện sau này. Bộ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục cũng ban hành một Thông tư ấn định nhiều biện pháp nâng đỡ học sinh, sinh viên Thượng và Chàm.

Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, ngày 1/4/1967

Ngày 1/4/1967, Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa được ban hành, trong đó có những điều khoản 2, 24, 97 và 98 liên quan đến chính sách đối với người thiểu số. 

Điều 2 công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân. Mọi công dân đều bình đẳng không phân biệt sắc tộc. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc. 

Điều 24 công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Phong tục, tập quán của đồng bào thiểu số được tôn trọng. Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử những vụ án về phong tục giữa các đồng bào thiểu số. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đõ đồng bào thiểu số.

Điều 97 và 98 qui định việc tổ chức một Hội Đồng Các Sắc Tộc. Nhiệm vụ của Hội đồng là cố vấn Chính phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số. Với sự chấp thuận của Quốc hội, Hội Đồng Các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc hội về các vấn đề liên hệ. Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội Đồng Các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận. Về thành phần của Hội đồng thì hai phần ba hội viên là do các sắc tộc thiểu số đề cử. Một phần ba hội viên do Tổng thống chỉ định. Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Các Sắc Tộc. Ngoài 4 điều nói trên, còn Điều 66 qui định Phó Tổng thống là Chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc. 

Như vậy, ngoài những điều 66, 97, 98, liên quan đến Hội Đồng Các Sắc Tộc, ba nguyên tắc căn bản trong chính sách mới do Thủ tướng Nguyễn Khánh ghi trong Thông điệp gửi quốc dân đồng bào ngày 17/10/1964 đã được ghi lại đầy đủ trong hai điều 2 và 24 của Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa.

Quy chế quy định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số

Để thực hiện điều 2 và điều 24 của Hiến pháp, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương đã đệ trình lên Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu Chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ký Sắc Luật số 033/67, ngày 29/8/1967. Nội dung Sắc Luật có 10 điều họp thành một Quy Chế quy định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số. Điều 1 và Điều 10 là phần mở đầu và kết luận. Các điều còn lại từ điều 2 đến điều 8 ấn định những nguyên tắc căn bản nâng đỡ đồng bào thiểu số về mọi mặt Hành Chánh, Công Chức, Quân Sự, Kinh Tế, Nông Nghiệp, Quyền Sở Hữu Đất Đai, Y Tế, Xã Hội, Giáo Dục, Văn Hóa. Sẽ thành lập Viện Bảo Tàng Nhân Chủng để bảo vệ và phát huy nền văn minh cổ của các sắc tộc thiểu Số, và Viện Nghiên Cứu Các Sắc Tộc để giúp Chính phủ thiết lập các kế hoạch phát triển đời sống đồng bào thiểu số. Riêng điều 9 quy định nguyên tắc nâng đỡ phải phù hợp với thực trạng của từng địa phương và trình độ của từng sắc tộc, để các sắc tộc thiểu số dù có tình trạng sinh hoạt không đồng đều cũøng có thể theo kịp đà tiến bộ chung của dân tộc.

Kết Luận

Chính nhờ việc ban hành chính sách nói trên và việc tích cực thi hành chính sách của các Bộ chuyên môn phối hợp cùng cơ quan đặc trách vấn đề thiểu số là Bộ Phát Triển Sắc Tộc, cùng với sự hỗ trợ dồi dào về ngân sách của Hoa Kỳ mà có thời kỳ vàng son của người Thượng nói riêng và người thiểu số nói chung trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam từ 1964 đến 1975. Mong rằng những nhà viết sử sau này nên tham khảo nhiều nguồn tin tức cả ở trong nước lẫn những nguồn tin của ngoại quốc để tránh tình trạng có những nhận định chưa được chính xác, vô tình đã bất công đối với mọi nỗ lực của những nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam Cộng Hòa vào thời gian nói trên trong việc giải quyết vấn đề đồng bào thiểu số của đất nước.

Nguyễn Văn Nghiêm 

(tháng 6/2001)

4.2. Nói thêm về Les Kosem

Thư gởi Nguyễn Văn Huy ngày 8/6/2001

Re : FULRO Anaheim, 8 – 6 – 2001 

Anh Huy thân mến,

Ông Nguyễn Trắc Dĩ là thư ký tại Văn phòng ông Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc Paul Nur. Nhưng ông cũng đã làm việc cho cơ quan này từ thời còn là Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng ở Huế. Do đó ông biết rất nhiều về quá trình hoạt động của cơ quan này. Thêm nữa ông phụ trách giữ những tài liệu mật của Bộ, nên ông biết rất rõ về tổ chức FULRO. Trong cuốn sách, ông không đả động gì đến tổ chức FULRO ở Phnom Penh vì đường lối chính trị của Bộ chỉ nhắm vào việc thuyết phục tổ chức FULRO Thượng mà thôi, Bộ làm như không quan tâm gì về những tổ chức khác cả.

Tuy nhiên, sau khi toàn bộ anh em FULRO Thượng trở về hợp tác vào ngày 17/1/1969, thì tháng 4/1970, tôi đích thân sang Phnom Penh để tìm Y Bham ngay. Qua những sĩ quan Miên, tôi thu thập được nhiều tin tức về Les Kosem. Qua những anh em Thượng ở Bộ chỉ huy FULRO, tôi được biết muốn đến thăm Y Bham phải hỏi Les Kosem mới được. Vì vậy tôi đã đến tận Bộ chỉ huy FULRO, một building bốn tầng mới xây ở một đại lộ lớn, cũng như đã đến nhà Les Kosem nhiều lần, thăm vợ con anh ta, tặng quà và yêu cầu được gặp anh ta. Nhưng anh ta nhất định lánh mặt.

Cuối cùng do sự giúp đỡ của hai người chú họ của tôi, Les Kosem đã phải tiếp tôi. Tôi chỉ được phép công tác ở Phnom Penh có 13 ngày là hết hạn. Chiều ngày thứ 11, chú tôi là Thiếu tướng Phan Phụng Tiên, Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân ở Biên Hòa sang thăm hai anh em Lon Nol. Họ là những bạn thân của nhau. Tối hôm đó, Thủ tướng Lon Nol và em đã thết tiệc chú Phan Phụng Tiên, và một người chú khác của tôi là Đại tá Lê Phúc Lộc, là anh rể họ của Phan Phụng Tiên, và dượng là cố vấn không quân cho Thủ tướng Lon Nol, ở tại tư dinh. Trong bữa tiệc Lon Non em hỏi chú Tiên:

“Cái anh Nghiêm sang đây làm gì mà hắn cứ đòi gặp Les Kosem?”. Phan Phụng Tiên trả lời: “Hắn là cháu tôi, chắc hắn có công việc của hắn. Xin hai anh cho Les Kosem gặp hắn để cho hắn trở về Việt Nam”. Thủ tướng Lon Nol bảo người em điện thoại cho lệnh Les Kosem tiếp anh Nghiêm ngay ngày mai đi, để cho anh ta về. Lon Non em đã thi hành ngay. 

Khoảng 9 giờ 30 tối, về tới nhà chú Lê Phúc Lộc điện thoại cho tôi biết ngay, và bảo thế nào Les Kosem cũng sẽ gọi cho tôi. Quả nhiên, khoảng nửa giờ sau, Les Kosem điện thoại mời tôi sáng mai, khoảng 10 giờ, đến văn phòng hắn, hắn sẽ tiếp tôi. 

Tôi đã dùng xe của ông Đại sứ Việt Nam, có một Thượng sĩ Miên đi hộ vệ, đến văn phòng Les Kosem. Les Kosem ra tận cửa Tòa Đô Chánh đón tôi đưa vào văn phòng, rất lịch sự, rất niềm nở. Chúng tôi dùng tiếng Pháp nói chuyện với nhau. Sau khi đã thăm hỏi nhau, tôi nói tôi là anh em kết nghĩa với ông Y Bham, nay nhân tiện sang thăm Phnom Penh nên có ý đến thăm ông bà Y Bham và các cháu. Do các anh em Thượng làm việc ở Bộ chỉ huy FULRO cho biết muốn thăm ông bà Y Bham thì phải hỏi Les Kosem. Do đó tôi đã nhiều lần đến nhà ông ta, thăm vợ con ông ta. Les Kosem nói, hắn đã được vợ cho biết, và cảm ơn tôi đã cho các con anh ta nhiều quà. Les Kosem cũng xác nhận là ông bà Y Bham có ở Phnom Penh. Tuy nhiên, để từ chối khéo, Les Kosem nói dối là ông bà Y Bham đang đi du lich ở xa chưa về. Les Kosem hứa sẽ chuyển lời thăm hỏi của tôi đến ông bà Y Bham. Tôi chỉ cần Les Kosem nhận là có ông Y Bham ở Phnom Penh thôi.

Sáng hôm sau, ngày thứ mười ba ở Phnom Penh, hết hạn công tác tôi trở về Việt Nam. Ở Phnom Penh, mỗi ngày tôi phải báo cáo tiến triển công tác về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ba lần. Một Thiếu tá của Phủ Đặc ủy trung ương tình báo cũng đi sang Phnom Penh, nhưng đi riêng rẽ, chỉ nhận báo cáo của tôi để điện về trình cho Tổng thống mà thôi. Về lại Việt Nam, tôi đã trực tiếp trình với Tổng thống và với ông Tổng trưởng Phát Triển Sắc Tộc kết quả công tác, và để nghị chính phủ chính thức gửi văn thư yêu cầu chính phủ Cambodia cho ông Y Bham được trở về Việt Nam, để tránh tình trạng họ tiếp tục dùng ông Y Bham làm con mồi dụ dỗ và mua chuộc những người Thượng trẻ làm tay sai cho họ lợi dụng.

Rất tiếc, tôi phải đi nhận chức Tỉnh trưởng Phú Bổn ngay để thay thế ông Tỉnh trưởng đang xin từ chức khẩn cấp. Lý do, tỉnh mất an ninh, mất một quận, chỉ còn lại hai quận. Về an ninh, tỉnh bị xếp hạng thứ 43 trong số 44 tỉnh và thành phố. Thêm nữa lại có tin người Thượng Jarai dự trù muốn nổi loạn nữa. Ít ngày sau đó, lại đến ông Paul Nur mất chức Tổng trưởng, Nay Luett về thay. Không có người tiếp tục đề nghị của tôi, việc đòi lại ông Y Bham bị bỏ quên luôn. Kết quả, khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh, ông Y Bham và gia đình đã bị bắt đi, và chắc là đã chết chung cùng với số phận 1.700.000 người dân bị Khmer Đỏ tàn sát. 

Tôi rất thương tiếc ông Y Bham! Vì tuy bị bắt cóc đi, nhưng ông đã chịu ở lại để lãnh đạo tổ chức FULRO Thượng theo đường lối tranh đấu ôn hòa của ông. Và mặc dầu bị Les Kosem kềm chế, giật dây nhưng ông vẫn tìm cách cho người thân tín của ông tiếp xúc riêng với chúng tôi, cho đến khi diệt được nhóm Y Dhon theo đường lối bạo động của Les Kosem, và đưa được toàn bộ tổ chức FULRO Thượng và gia đình trở về hợp tác với chính phủ Việt Nam.

Trên đây là những bí mật mà nhóm Kinh Thượng anh em của chúng tôi, như Paul Nur, Ya Ba, Y Chon Mlo Duon Du, Touneh Han Thọ, Từ Công Thụ anh ruột của Từ Công Phụng, vân vân, và tôi cùng với một số bạn hữu của tôi như Giáo sư nhân chủng học Nghiêm Thẩm, Kỹ sư canh nông Nguyễn Văn Mừng làm việc ở Lò Nguyên Tử Đà Lạt, Giáo sư y khoa Bác sĩ Trần Anh chuyên dạy về Cơ thể học đã bị ám sát, cùng với sự giúp đỡ của thầy Nguyễn Đăng Thục, Chủ tịch Hội Văn Hóa Á Châu, đã chủ trương dùng đường lối ôn hòa, bất bạo động, hợp pháp, hợp hiến, để vận động cho một chính sách công bình cho đồng bào thiểu số Việt Nam nói chung, cho đồng bào Thượng nói riêng, đã làm để giải quyết vấn đề FULRO, và chống Cộng Sản giữ vững Cao Nguyên. Những tin tức này tôi chưa hề viết ra, ngoại trừ lần này viết cho Huy là lần đầu tiên. Ngay đến Giáo sư Gerald Canon Hickey thường phỏng vấn tôi và Touneh Han Tho cũng không biết được chính xác những việc làm của anh em chúng tôi.

Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề Thượng được giải quyết liên tục theo một đường lối đã vạch sẵn suốt hàng chục năm trời. Hãy giữ lấy làm tài liệu riêng của Huy nhe. 

Thân mến, 

Nguyễn Văn Nghiêm

5. Chính sách Thượng vụ thời Đệ nhị Cộng Hòa : Tìm lại anh em, nhận lại bạn bè 

Từ sau ngày lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm 1/11/1963, dưới sự cố vấn của các chuyên gia Mỹ tại Sài Gòn, các chính quyền quân sự Việt Nam Cộng Hòa chấp thuận gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng của người Thượng qua hai đại hội sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến 17/10/1964 và từ 25 đến 26/6/1967. Một số đòi hỏi của nhóm FULRO Thượng – trừ quyền có lãnh thổ và quân đội riêng và quyền tiếp đón các phái đoàn ngoại giao quốc tế – đã được thỏa mãn. Những cựu thành viên của phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Cambodia về lại Việt Nam sinh hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại địa phương nơi cư ngụ.

Vai trò và chỗ đứng của cộng đồng người Thượng tại Việt Nam đã được ghi trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, ban hành ngày 1/4/1967. 

– Điều 24 viết : Quốc gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Quốc gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các Tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số. Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số.

– Điều 97 qui định Hội đồng các Sắc tộc đại diện các Sắc tộc thiểu số sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có nhiệm vụ cố vấn Chính phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số ; có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc hội về các vấn đề liên hệ. Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội đồng các Sắc tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc hội thảo luận. Hội đồng các Sắc tộc, chính thức hoạt động ngày 19/12/1970, là một định chế quan trọng trong chính sách đối với người thiểu số ở Việt Nam.

– Điều 98 qui định số hội viên, nhiệm kỳ, tổ chức và điều hành Hội đồng các Sắc tộc.

Từ sau 1969, người Thượng được quyền tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị và đã cùng với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền Nam. 

Để tranh thủ sự hợp tác của những nhân sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong Trào Đoàn Kết Các Sắc Tộc Cao Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alea. Lễ ra mắt được cử hành trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22/4/1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là người Rhade, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu), một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó chủ tịch (ông Y Dhat Nie Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Duk, người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký (ông Y Kuot Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buan). Ban cố vấn gồm có các ông Paul Nur (người Bahnar), Y Chon Mlo Duon Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Đắc Lắc, các ông Y Chon Mlo Duon Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Jarai) làm phó chủ tịch. Phong Trào Đoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội Đồng Sắc Tộc.

Hội Đồng Sắc Tộc, được thành lập bởi sắc luật 014/69 ngày 14/10/1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến pháp 1967, gồm 48 hội viên chính thức và 12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên chính thức và 4 dự khuyết do tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32 hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết sẽ được bầu tại các địa phương. Sắc lệnh 610 (28/10/1969) qui định số hội viên cho từng sắc tộc tùy theo dân số ; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là người Kinh với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội Đồng Sắc Tộc là Văn Phòng Thường Trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (người Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký, tất cả là người sắc tộc. Hội Đồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên cứu từng vấn đề liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội Đồng, trên nguyên tắc, là đưa ra những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến quốc hội điều trần và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong thực tế, Hội Đồng này không có ảnh hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ thuần túy là một cơ quan tư vấn.

Cơ quan thực sự có quyền hành pháp là Bộ Phát Triển Sắc Tộc được thành lập ngày 9/11/1967 nhưng chức vụ tổng trưởng chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày 22/12/1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST. Ông Paul Nur (người Bahnar) được cử làm tổng trưởng, các ông Đoàn Chí Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người Chăm) làm tổng giám đốc và ông Y Chon Mlo Duon Du (người Rhade) làm tổng thư ký. Bộ Phát Triển Sắc Tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25 ty và 65 chi nhánh.

Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người Thượng vào sinh hoạt chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực :

– Về chính trị, 90% các chức vụ quan trọng liên quan đến vấn đề sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn lại do các sắc tộc khác. Các sắc tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1 đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư ký, 1 tổng giám đốc công tác, 1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1 thanh tra trưởng, 4 thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh trưởng, 8 quận trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24 phó trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm tỉnh và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10 thanh tra học vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn định số ghế dành cho người Thượng trong Quốc hội là 6 ghế và thượng viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về người Thượng, đa số là người Jarai và Rhade.

– Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và 2.004 ấp có người sắc tộc cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng trực tiếp quản trị.

– Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học sinh theo học các trường trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao đẳng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều cán bộ tại chức và sinh viên Thượng được cử ra nước ngoài tu nghiệp. Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn tại Pleiku, thành lập năm 1965, đào tạo hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng 10/1970 đổi thành Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Thượng (tương đương với Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đào tạo khoảng 270 cán bộ hành chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Từ 1970 đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa thăm sự hành chánh tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn.

– Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng đứng dưới cờ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan được điều chỉnh cấp bực ngày 1/2/1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.

– Về xã hội, quân đội và các hội thiện nguyện Hoa Kỳ (CORDS, USAID, USOM, World Relief…) đã xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng và tiện nghi vật chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của người Thượng. Không một làng xã nào (đã bình định xong) không có điện nước và hệ thống đường sá tráng nhựa hay lát đá dẫn tới. Tại mỗi trung tâm định cư, người Mỹ đã giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh mới. Sách giáo khoa bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa Kỳ sáng tạo trừ tiếng Bahnar và Rhade đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu học. Các giáo hội Thiên Chúa Giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Đức và Lâm Đồng các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá ; tại Pleiku và Kontum, các giáo sĩ Công Giáo mở các lớp học và trại cứu tế giúp dân Thượng. Các tòa án phong tục cũng được thành lập khắp nơi để phân xử những tranh chấp về tập tục của từng sắc tộc. Giới trẻ Thượng thừa hưởng trực tiếp những cải tổ nhằm nâng cao mức sống vật chất và văn hóa đã có một trình độ kiến thức cao. 

Tuy vậy, có một nốt trầm trong sự hội nhập này là một phần khá lớn thanh niên Thượng, quen với tiện nghi vật chất thành thị, xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture) ; xấu miệng hơn, người ta còn nói hiện tượng Việt hóa (!) của người Thượng. Trước những hiện trạng tiêu cực này, trong đầu của một số trí thức Thượng nuôi dưỡng ý muốn tách khỏi ảnh hưởng của chính quyền Việt Nam để thành lập một quốc gia riêng. 

Nói chung giai đoạn từ giữa tháng 10/1969 đến đầu tháng 3/1975 có lẽ là thời kỳ vàng son nhất của cộng đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian này quá ngắn để những cố gắng hội nhập cộng đồng người Thượng vào xã hội Việt Nam trên một cách bền vững hơn. 

6. Phong trào FULRO hải ngoại : Chống đối vẫn tiếp tục

Trở về với thực tế 1969, do yêu cầu của chiến tranh, cư dân Thượng trong những buôn làng Thượng ở chốn rừng sâu buộc phải di dời ra khỏi những vùng oanh kích tự do (free fire zone) để về định cư trong các ấp chiến lược được xây dựng dọc các trục lộ giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị lớn, nếp sống và lối canh tác cổ truyền đã gần như bị xao lãng. Phe cộng sản, mất địa bàn hoạt động, xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn là nơi diễn ra những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm ngàn thanh niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu tấn bom đạn đã dội xuống những vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A Lưới, Chu Prong, Dakto, Plei Me, Tumorong, Buôn Hồ… trở thành sử tích trong chiến tranh Việt Nam. Khoảng 200.000 người trên tổng số một triệu dân số Thượng đã chết trong cuộc chiến. 

Về những người Thượng tham gia chính quyền Đệ nhị Cộng Hòa, chức vụ đồng nghĩa với quyền lực và quyền lợi, chức vụ càng cao tranh chấp vây cánh càng lớn, mỗi khi có sự phân bổ vào những chức vụ cao cấp mới họ sẵng sàng đấu dao găm với nhau. Những lãnh tụ Thượng trong chính quyền, vì chưa quen với sinh hoạt chung với nhau, muốn giành tối đa quyền lợi về cho phe nhóm mình hay cho sắc tộc mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề cử người vào Hội Đồng Sắc Tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai là người được được chỉ định và ai là người phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu?) và làm cản trở sự điều hành của định chế. Trong Bộ Phát Triển Sắc Tộc cũng vậy, mục tiêu chính của Bộ là đoàn kết các sắc tộc đã bị xao lãng. Ngân sách của Bộ Phát Triển Sắc Tộc lớn hơn Bộ Chiêu Hồi và Bộ Lao Động nên ưu tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Jarai và Rhade thời đó ai cũng tranh nhau lãnh đạo bộ này. Nhưng chính quyền quân đội chỉ ưu đãi những ai phục tùng chế độ. Ngày 17/6/1971, Nay Luett, một lãnh tụ Jarai, thay Paul Nur trong chức vụ tổng trưởng cho tới tháng 4/1975, trong khi cán bộ Rhade đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu do đó rất bất mãn. Thêm vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh trong bộ càng làm những lãnh tụ Thượng bực bội, vì cho rằng chính quyền muốn kiểm soát hoạt động của bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.

Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, FULRO là phong trào đấu tranh của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng đều dồn cho người Thượng để xoa dịu sự bất mãn. Trong Phong Trào Đoàn Kết, đại diện các sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ, trừ người Chăm và người Khmer (vì sinh sống ở đồng bằng, có số dân đông đảo và từng tham gia cầm quyền dưới các chế độ phong kiến) không được công nhận là sắc tộc thiểu số. Thêm vào đó những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có quan hệ với Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng đầu, để quấy phá Việt Nam. Trong một cuộc bỏ phiếu tại Quốc hội ngày 7/10/1969, 98 dân biểu ủng hộ thành lập một qui chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện Khiêm phủ quyết “vì quyền lợi và an ninh quốc gia”. Sự kiện này làm cho lãnh đạo các nhóm Khmer Chăm và Khmer Krom tại Cambodia càng thêm uất ức.

Tại Phom Penh, tức tối về những gì đang xảy ra tại Việt Nam và để làm áp lực với nhóm FULRO Thượng trở về qui chánh, cuối tháng 10/1969 Les Kosem cho thành lập Ủy Ban Hành Động Lâm Thời Trung Ương, bên cạnh Ủy Ban Chỉ Đạo Tối Cao do ông lãnh đạo, và cử hai người Chăm, Hoàng Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên tổ chức. Cuối năm 1970 Les Kosem giải tán Ủy Ban Hành Động Lâm Thời Trung Ương vì vô tích sự và thành lập Ủy Ban Lãnh Đạo FULRO và đưa Y Bun Sor vừa từ Pháp trở về lên làm chủ tịch.

Ngày 18/3/1970, Les Kosem giúp tướng Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray, do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Les Kosem được Lon Nol tin cậy và được toàn quyền tổ chức đội quân thiểu số tại Cambodia gồm 7 tiểu đoàn sắc tộc gốc Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long) và Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom lại thành hai lữ đoàn : Lữ Đoàn 5 Bộ Binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek Ibrahim chỉ huy và Lữ Đoàn 40 Biệt Kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan Kpor lãnh đạo.

Một cách không chính thức, Les Kosem thành lập Phong trào FULRO Hải Ngoại để chống chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông cử người lên Mondulkiri kêu gọi lực lượng FULRO Thượng về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc Champa và thành lập Cộng Hòa Tây Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp tác với Les Kosem và được bổ xung vào Lữ Đoàn 40 ; số còn lại hợp tác với quân Khmer Đỏ, được phe cộng sản Việt Nam trang bị và tiếp tế để chống lại Phnom Penh. Thủ lãnh FULRO Thượng Y Bham Enuol vẫn bị Les Kosem giam lỏng tại Phnom Penh.

Việc làm đầu tiên của Les Kosem trong chức vụ mới là xúi giục các nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công vào các làng xã và ghe thuyền của người Việt trên Biển Hồ, quanh Phnom Penh và dọc lưu vực sông Mekong, đồng thời phát động một phong trào bài Việt trên khắp lãnh thổ. Sự sát hại người Việt một cách quá đáng buộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Cambodia tháng 4/1970 bảo vệ đồng thời phá luôn các căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt là tại khu Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài Gòn và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Cambodia cũng chấm dứt.

Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer Đỏ, cuối năm 1971 Lon Nol phong Les Kosem hàm thiếu tướng và cử làm tổng trấn Phnom Penh ; hai lữ đoàn sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ lực đánh lại Việt Nam, Les Kosem thành lập Phái Đoàn Vận Động FULRO Hải Ngoại vận động các quốc gia dầu lửa hồi giáo Ả Rập và Đông Nam Á ủng hộ phong trào FULRO của ông. Mở đầu cuộc vận động, Les Kosem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai, Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin giúp đỡ tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Les Kosem tập trung 15 lãnh tụ Chăm chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao : nhóm đi các nước Ả Rập, do Primé đại diện, nhóm đi Đông Nam Á do El Ibrahim cầm đầu và nhóm đi Châu Âu do chính Les Kosem hướng dẫn.

Uy tín của Les Kosem ngày càng lên cao, ngày 26/10/1972 ông được Tổng thống Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước Đông Nam Á giải thích lập trường của chính phủ quân sự Cambodia. Nhân dịp này, Les Kosem vận động với các quốc gia hồi giáo Đông Nam Á giúp người Chăm phục hồi vương quốc Champa. 

Từ 1972 đến 1975, nhiều buổi hội thảo về nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc gia trong vùng được tổ chức tại các thủ đô Đông Nam Á và Châu Âu, nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Les Kosem đã không được toại nguyện, Khmer Đỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc (Strung Treng, Kratie, Rattanakiri và Mondulkiri) và tiến dần về thủ đô Phnom Penh. Lon Nol gọi Les Kosem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc đã chống trả dữ dội các cuộc tiến công của quân Khmer Đỏ, cuối cùng thủ đô Phnom Penh bị thất thủ. 

Ngày 15/4/1975, Les Kosem cùng một số thân tín, trong đó có Y Bham Enuol và vợ con, chạy vào tòa đại sứ Pháp tị nạn ; Les Kosem cùng toàn thể gia đình được đưa đi Pháp liền trong ngày. 

Ngày 17/4/1975, quân Khmer đỏ tiến chiếm thủ đô Phnom Penh và tràn vào tòa đại sứ Pháp bắt tất cả những ai không phải là người Pháp hay có quốc tịch ngoại quốc đem đi. Y Bham Enuol cùng toàn thể gia đình và thân tín bị quân Khmer đỏ hành quyết tại sân vận động thủ đô Phnom Penh.

7. Phong trào FULRO Dega : người Rhade đòi quyền tự trị

Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước vào giai đoạn thương nghị, người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam hóa chiến tranh, các phe thù địch chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.

Đối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là những lãnh tụ Rhade, Phong Trào Đoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không thực sự tranh đấu cho quyền tự trị của người Thượng trên cao nguyên. Đầu năm 1972, những người này thành lập Ban Bảo Vệ Dân Tộc, chống lại chính sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1972, Ban Bảo Vệ Dân Tộc đổi tên thành Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Người Thượng (FLHPM – Front để Libération des Hauts Plateaux Montagnards), do Y Bham Enuol (vắng mặt, lúc đó đang bị Les Kosem giam lỏng tại Phnom Penh từ cuối năm 1968) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch – tranh đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng. 

Tổ chức này độc lập với phong trào FULRO ở Cambodia, do Les Kosem lãnh đạo, và thành lập một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y Bliêng Hmok, Y Chon Mlo Duon Du, Kpa Koi, Y Bách Eban, Y Preh, Y Ngue, v.v… đảm nhiệm. 

FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là Cộng Hòa Dega – từ đó tổ chức này có thêm tên gọi mới là FULRO Dega. Dega theo tiếng Rhade là những đứa con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa là một đầu voi trong vòng tròn màu vàng. 

Cộng Hòa Dega được chia thành năm quân khu : Quân khu I gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Định ; Quân khu II : cao nguyên Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên ; Quân khu III : cao nguyên Đắc Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Đức cũ) ; Quân khu IV : cao nguyên Lang Biang (Tuyên Đức cũ), Brah Yang (Lâm Đồng cũ) và Gung Car (Đồng Xoài cũ) ; và Quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm FULRO Champa được giao cai quản quân khu V.

Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế hoạch thành lập nhiều lực lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van khuyến khích, để tranh quyền với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, đặc biệt là với Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị do Y Bih Aleo lãnh đạo, trong chính phủ liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt Nam, theo tinh thần Hiệp Định Paris ý ngày 27/01/1973.

Để gây thế lực, phong trào Dega bí mật kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới. Đầu năm 1975, lực lượng quân sự FULRO Dega có trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn cứ quân sự được thiết lập dọc biên giới Đắc Lắc, Quảng Đức và Mondulkiri.

(còn nữa)

Nguyễn Văn Huy

* Nguyễn Văn Huy : Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên (Kỳ 1)

*Nguyễn Văn Huy : Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên (Kỳ 2)