Nell Freudenberger: Thư viết từ pháo đài cuối cùng (Letter from the Last Bastion) (Phần 1, Đào Trung Đạo dịch)

Nhà văn Nell Freudenbergerhình Wikipedia

Nell Freudenberger sinh năm 1975 ở New York City, tốt nghiệp Harvard, từ 2000 đã có bài đăng trên các tạp chí Granta, Paris Review, Harper…Đã xuất bản Lucky Girls (tập truyện ngắn 2003) những truyện dài The Dissident (2006), The newly weds (2012) và Lost and Wanted (2019)

Thưa Quí Ông hoặc Quí Bà:

Tôi viết bức thư này để cho quí vị biết một vài điều quí vị có thể không biết về Nhà văn-Thỉnh cư (Writer-in-Residence) Henry Marks. Có thể quí vị đã biết đôi chút. Nếu như quí vị đã đọc quyển Binh Nhì George Johnson, quyển tiểu thuyết đầu tay của ông ấy, quí vi được biết Henry đã hoàn tất nhiệm vụ quân dịch ở Vịệt Nam vào tháng 11 năm 68.  Và nếu quí vị đã đọc quyển Người Quan Sát Chim (tôi đoán chừng ai mà chẳng đã đọc quyển này), quí vị cũng biết chuyện gì đã xảy đến với ông ấy vào giai đoạn cuối nhiệm vụ đó. Quí vị cũng có thể tìm biết thông tin này một cách dễ ợt từ quyển Tuyển Tập Khảo Luận, đặc biệt là trong bài “Theo Bén Gót Người Quan Sát Chim,” suy tư của ông ta về viết văn, phạm tội, và về chiến tranh, xuất bản năm 1990, cái năm đánh dấu Henry phục hồi sau một giai đoạn ngắn tơi tả vì vụ quyển Tai Nạn in năm 88.  Các nhà phê bình qui sự thất bại của Tai Nạn vào sự ẩu tả; họ nói rằng Henry đã trở thành mất tự chủ vì sự thành công của mình.

Vào những ngày không vui Henry nói với tôi rằng Tai Nạn là một dấu hiệu, và rằng ông ta đã kết thúc với tiểu thuyết rồi bởi ông không thể tìm ra một cách nào để kết thúc tác phẩm đang hoàn thành: Pháo Đài Cuối Cùng. (Ông ta đã viết chương cuối cùng đến ba lần nhưng lại không cho tôi thấy bất kỳ một trong những nỗ lực đó cả). Vào những ngày ông ta cảm thấy lạc quan, Henry nói rằng Pháo Đài Cuối Cùng chắc chắn sẽ làm cho tiếng tăm của ông bền vững như một nhà văn hàng đầu trong số những tiểu thuyết gia thuộc thế hệ ông. Tôi muốn nói với ông ta rằng tiếng tăm ông ta đã được đóng bê-tông rồi; song, vào giai đoạn đó, tôi chưa cãi lời Henry.

Tôi sẽ giải thích làm thế nào tôi lại biết nhiều về Henry như vậy (và tôi đã đọc những phần của quyển Pháo Đài Cuối Cùng ra sao trước khi sách được xuất bản), nhưng trước tiên tôi phải nói chút đỉnh về bản thân tôi với quí vị. Tôi mười bảy tuổi, và tôi sẽ trở thành một bác sĩ nhãn khoa. Mẹ tôi và tôi cư ngụ trong một căn chung cư nhỏ (lầu hai, phía sau) ở đường West Lemon, phía dưới là nhà vị thị trưởng. Nói thế nghe có vẻ sang trọng quá, nhưng không phải vậy đâu; thị trưởng cũng là chủ nhân tiệm dược phẩm. Tuy mẹ tôi chẳng làm ra nhiều tiền, thế nhưng tại Ngân hàng Fulton có một tài khoản mở từ ngày tôi mới chào đời dành cho việc chi trả học phí đại học cho tôi hiện đang sinh lời. Mẹ tôi mong muốn tôi sẽ dùng món tiền đó để vào học một đại học như cái đại học của quí vị, nhưng bà cũng nói rằng nếu tôi chẳng đi đại học thì tài khoản đó vẫn cứ là của tôi như thường. Vì vậy tôi cứ cho rằng việc này coi như đã được giải quyết. Tôi sẽ ở lại đây, vùng Lancaster này.

Dù cho tôi không cảm thấy nhu cầu du lịch khắp thế giới, tôi vẫn thích nghe kể về những nơi chốn ở ngoại quốc. Tôi thật mừng rỡ khi nhận được những bức thư của Henry viết về chuyến đi mới đây của ông ta, chuyến trở lại Việt Nam với bốn người bạn đồng ngũ trong thời chiến. Chuyện này xảy ra đã ba năm rồi, ngay sau ngày sinh nhật thứ năm mươi tư của Henry.  Khi ở Saigon họ đã ngồi uống bia trên sân thượng khách sạn Rex mới được sửa sang lại, và rồi cả bọn lang thang trong Chợ Lớn khu vực người Hoa cũ; nhân khi đi mua đồ lưu niệm Henry đã thử cố đến thăm một tiệm mỳ trong một con hẻm vô danh nằm đằng sau Chơ Bình Tây, nhưng ông ta đã tìm thấy nơi tiệm mỳ cũ nay là một tiệm bán chim két. Ông ta đứng sững ở đó hồi lâu giữa đám chim xanh, vàng, xanh lá cây nhốt trong những cái chuồng bằng tre có trang trí, trước khi tìm gặp lại được các bạn ông trong chợ.

Từ Saigon, cả bọn họ gồm năm người đi ngược lên phía bắc, đến Đà Nẵng và cuối cùng đến Hà Nội và từ đó họ thuê một cái ghe và để cho ghe len lỏi qua những phiến đá chồi ở Vịnh Hạ Long. Họ lặn qua phía bên kia núi, lần lượt từng người chồi lên, lau nước từ trong mắt họ tuôn ra. Những thanh niên người Việt họ đã tin tưởng trao sự an nguy vào tay những người này (cùng với sự an toàn của năm cái túi đeo lưng dã ngoại màu sắc sặc sỡ họ đã mua tai khu “du lịch phiêu lưu” trong những cửa hàng bán đồ thể thao ở những thành phố lớn chính bên Mỹ. kể cả ở New York, Los Angeles, Detroit, và, trong trường hợp của Henry, tại khu phố của đại học ở New England (mà Quí Ông hay Quí Bà, biết rất rõ) đang ngồi nghỉ và hút thuốc lá trên mạn ghe trong khi năm anh chàng cựu quân nhân trần như nhộng nổi lềnh bềnh (không kể những  mảnh quần tắm Gore-Tex, đồng hồ không ngấm nước, và một hay hai sợi xích đeo ở cổ tay để cấp báo cho nhân viên cấp cứu)  trông giống như vào cái ngày họ ra chào đời ngay giữa làn nước ấm, trong, và xanh màu lá mạ một cách kỳ diệu của Vịnh Bắc Bộ.  Họ phải cười vui thôi. Henry cười nhiều quá đến nỗi ông ta phải nằm ngửa ra và trôi lềnh bềnh, việc này dễ ợt trong vùng nước đứng lặng và mặn chát. Trong cái thế nằm ngửa đó ông ta nhìn lên mảnh buồm đẹp đẽ, ông đã tả theo trí nhớ cánh buồm này trong quyển Tai Nạn là “mỏng và cứng đơ như tờ giấy cũ kỹ, màu giống như màu máu khô, với ánh sáng xuyên qua những mảnh vá bóng nhẫy như thể cánh buồm là một cái chụp của một cây đèn màu xậm khổng lồ.” 

*   *   *

Trong quyển Tai Nạn, có một chàng trai trẻ làm một chuyến đi hệt như chuyến du hành Henry đã kể với tôi trong thư ông, mục đích là để tìm kiếm cái quá khứ của người cha đã khuất của anh ta. Tại Saigon, người con gặp một người trùng tên với anh, một người Pháp, trước đây có làm vịêc với CIA, tay này hiện cư ngụ trong căn lầu phía dưới là tiệm bán két trong một con hẻm ở Chợ Lớn. Tôi rất khoái khi thấy những nơi chốn Henry viết trong thư cho tôi lại xuất hiện trong những tiểu thuyết của ông ta; cũng theo cùng một cách như vậy, tôi rất thích tìm sự trùng hợp giữa những nhân vật trong truyện của ông ta với những người có thực trong đời Henry. Anh chàng binh nhì Johnson khi nào cũng vẫn là Henry; và mặc dù Henry không phải là một chú binh nhì – khi đó cấp bậc của ông ta là trung úy – quí vị có thể thấy việc hạ thấp cấp bậc của mình khiến cho tên quyển truyện đập vào mắt người ta hơn. Thế nhưng, vào thời gian ông ta khởi sự viết quyển Tai Nạn, Henry đã dùng chính tên mình trong tất cả các tác phẩm. Chính điều này có lẽ là một yếu tố khiến ông ta cứ dùng dằng mãi về chuyến đi, khiến ông ta hết sức bồn chồn đến nỗi ông phải lấy đơn mua hai thứ thuốc: thuốc giải acid dùng cho bao tử, và để trị chứng mất ngủ, là thứ có tên là Halcyon. Dù có uống Halcyon, trong suốt ba ngày liền trước ngày khởi hành, ông ta cũng không tài nào nhắm mắt nổi. Mặc dầu vậy, với tư cách một nhà văn, Henry cảm thấy chuyến đi là một cơ hội ông không thể bỏ qua.

*   *   *

Với Henry, công việc chiếm ưu tiên hàng đầu; ông ta chẳng ngại ngùng nói với sinh viên của ông rằng ông đã sắp xếp đời sống xoay quanh việc làm. Vào ngày đầu mỗi học kỳ, ông tả đời sống hàng ngày của mình như sau: sáu giờ mười lăm sáng thức dậy và ra khỏi nhà, chạy bộ một vòng bốn dặm bắt đầu từ phố North Pleasant, vòng quanh khuôn viên đại học, rồi tiếp vào con đường nhỏ chạy trong lòng khu đường rầy xe lửa bỏ hoang, ngang qua bồn chứa nước. Ông ta thích nghe tiếng chân mình chạy dội lên từ mặt gỗ cây cầu bắc ngang giòng nước ở chỗ hẹp nhất.

Bảy giờ thì ông ta trở về đến nhà, tắm và ăn điểm tâm – gồm một trái trứng trụng nước sôi trét lên lát bánh mì, một ly nước bưởi, một ly cà phê đen – đến làm việc tại bàn giấy trong phòng làm việc ở trường từ tám đến mười giờ, mười phút sớm hơn bà thư ký ban, ông không thích chào buổi sáng bà này. Việc này chằng ăn nhập gì tới bà thư ký, một phụ nữ Mỹ gốc Phi châu tên Renée, một người vui vẻ, làm việc rất tốt, nhưng chỉ vì đối với Henry, một kẻ dị đoan hết cỡ về việc mở miệng nói với một người nào đó trước khi ông ta bắt đầu cầm bút viết vào buổi sáng là tối kỵ.

Bà Renée sắp nghỉ hưu. Vào cuối mùa hè năm 1984, lúc bà bắt đầu nhận việc, thì bà thư ký của ban trước đó là bà Maggie Straub (có lẽ quí vị chẳng còn nhớ bà này) đã nói cho Renée tất cả những điều cần biết về thời khóa biểu của Henry. Tôi cho rằng thái độ của Renée đối với công việc của Henry chẳng mấy trân trọng như thái độ của Maggie, mặc dù cho đến tháng Tư này bà Renée đã làm việc với ban được mười tám năm và suốt từ bấy đến nay bà ta đã chẳng bao giờ có một lý do gì để phải gõ cửa phòng Henry cả. Việc gõ cửa phòng chỉ có thể xảy ra trong trường hợp tối khẩn – đặc biệt, việc này chỉ có thể xảy ra nếu như bà mẹ của Henry sắp chết. Ông ta đã nói với bà Renée rằng ông không thể nghĩ ra được lại có một hoàn cảnh nào khác có khả năng đột nhiên lôi ông ta khỏi công việc được.

Vào lúc 11:05 Henry miễn cưỡng nối lại đường điện thoại và chuẩn bị đọc bài vở sinh viên của lớp thực tập viết văn nộp, viết những ghi chú bên lề bài. Ông ta đã đổi việc dùng bút xanh sang bút đỏ những năm sau này khi những bài nộp của sinh viên càng ngày càng trở thành dễ nổi sùng hơn. Đến một giờ thiếu mười lăm, khoan khoái như vừa thoát nạn, Henry lái xe đến tiệm bán đồ ăn lành mạnh (health food), tiệm đã làm sẵn ổ bánh mì sandwich chờ ông ta đến lấy gồm: thịt gà tây nướng ướp gia vị tự nhiên, kèm cà chua lát, đọt rau, và chỉ một lát phô-ma Swiss thôi. (Bởi vì trong giòng dõi gia đình ông ta có người mắc chứng nghẽn động mạch nên Henry trông chừng trái tim mình.) Những lớp dạy viết văn cho cấp cử nhân và cấp cao học của Henry mỗi tuần học một ngày lần lượt vào thứ Ba và thứ Năm từ hai đến bốn giờ; ông ta cũng dạy một lớp tên là “Nghệ Thuật Viết Truyện Ngắn” vào thứ Hai, cũng từ hai đến bốn giờ. Vào ngày thứ Tư, thứ Sáu, thứ Bảy, và Chủ Nhật, ông ta cũng theo đúng cùng một thời khóa biểu ở nhà, thay vì dạy học, ông ta thêm vào thời khóa biểu ba giờ nữa để ngồi vào máy computer của ông. Giả dụ như mẹ ông ta có chết vào một trong những ngày này, và cứ cho rằng bà không chết vào giữa khoảng từ tám đến mười một giờ hay từ hai đến năm giờ, thì Henry có thể sẽ đến nhấc điện thoại lên nghe tin.

Henry được khá nhiều quí vị giảng viên đại học của trường đến kiếm với tư cách bạn bè hay gì gì đó và có thể ông ta chỉ nhận tiếp khách ba lần một tuần thôi; ông ta thường nói với sinh viên rằng Henry James cũng chẳng từ chối đến dự các tiệc tùng mục đích để thu lượm chuyện thiên hạ.  Thế nhưng, Henry hạnh phúc nhất là khi ông ta có thể tự nấu lấy bữa ăn tối. Ông ta không hảo đồ ngọt, ngoại trừ vào mùa hè, là mùa của blueberries, nectarines, và cherries. Trong những dịp hiếm hoi đi New York để gặp người đại diện hay chủ biên, thế nào Henry cũng nhân dịp đó để mua một két rượu vang thật ngon.

Nhưng ông ta chỉ uống rượu vang đó sau bữa tối, trong khi đọc báo, vì lẽ đọc báo sớm hơn sẽ làm ông chia trí khi viết văn. Trong lúc đọc báo có thể ông sẽ nghe một bản giao hưởng; những bài giao hưởng này được thay đổi, mặc dù bản giao hưởng Số Chín của Mahler là bản ông ưa thích nhất. (Có một lần tôi đến mượn bài Giao hưởng số Chín của Mahler ở thư viện – thư viện trường chúng ta nay đã có CDs – và đã thử nghe bản nhạc này, nhưng bản nhạc làm tôi nghĩ mình là ngu xuẩn; bản nhạc chẳng thích hợp với khung cảnh nhìn từ cửa sổ phòng tôi vì đối diện là một cửa tiệm bán y phục nam giới). Henry nghĩ rằng mình ưa thích nhạc giao hưởng bởi giao hưởng rộng, là những công trình bao la chan hòa, cũng giống như tiểu thuyết vậy. Người bạn tên Richard của ông ta (vị Nhạc sĩ-Thỉnh cư của quí vị đó) chẳng đã có lần tuyên bố rằng ta phải nghe được tiếng nói của những nhân vật trong tiểu thuyết cùng một lúc trong đầu mình, giống như nghe những nhạc khí vậy. Henry rất trân quí so sánh này, mặc dù ông nhận thấy chính tác phẩm của ông ta lại thường xoay quanh có mỗi một nhân vật thôi, buổi đầu có tên là George Johnson, sau thì chỉ giản dị là Henry. Henry đã may mắn trong cương vị một nhà văn vì đã có những hồ sơ kín cẩn chứa mớ kinh nghiệm, gồm những kinh nghiệm vừa riêng tư vừa tiêu biểu của thế hệ ông, do đó ông ta có thể đồng thời vừa viết về chính cuộc đời mình vừa về thế kỷ của nước Mỹ. Càng lớn tuổi ông ta càng nhận ra sư phân biệt giữa văn sáng tác và văn khảo luận chẳng có ý nghĩa gì; trong những lóp thực tập viết văn ông lớn tiếng tự đặt câu hỏi chẳng biết trong vòng mười lăm hay hai mươi năm nữa liệu có còn tiểu thuyết không.

Có lẽ chính vì mối nghi ngờ này về tiểu thuyết đã khuyến khích Henry đánh bạn với tôi. Bởi vì tuổi tôi y chang bằng tuổi người thiếu nữ trong quyển tiểu thuyết mới nhất của ông ta, quyển Pháo Đài Cuối Cùng, cho nên ông nghĩ có thể tôi sẽ mách bảo cho ông về những thiếu nữ sống ở tỉnh nhỏ mà ông ta rất có thể có nguy cơ hình dung sai lạc. Có thể ông nghĩ việc làm bạn với tôi cũng là một cách tìm tài liệu.  Mặc dù viết từ điểm đứng của một thiếu nữ choai choai tuy là một sự vói ra phía trước của ông, nhưng Henry rất tự tin; sự đóng góp của tôi vào công trình của ông ta, như lời ông ta nhắc đi nhắc lại hoài hủy với tôi, là hoàn toàn tự nguyện. Ông ta cho tôi có tự do tuyệt đối, được quyền mở những bức thư này hay ném chúng vào sọt rác chẳng cần đọc, có quyền đọc những đoạn bản thảo ông gửi cho tôi hoặc quăng chúng đi. Ông bảo tôi rằng tôi không phải viết thư trả lời, trừ phi tôi muốn viết.

*   *   *

Trong những chuyến đi từ New York trở về nhà, Henry thường thường ghé Atlantic City, để qua buổi trưa trong sòng bài Sands Casino đánh phé. Có thể đó là điều làm quí vị ngạc nhiên khi biết Henry là một tay xì phé? Cũng có thề là không – sinh viên trong lớp ông ta biết ông ta dừng lại sòng bài một tiếng rưỡi, uống một ly rượu mạnh pha Coke ở bàn đánh bài và một ly nữa sau đó ở quầy rượu, đôi khi ông ta thắng nhưng thường là thua, và ngay cả trong những ngày hên nhất, ông ta cũng chẳng bao giờ muốn ở lại sòng bạc lâu hơn khỏang thời gian ông đã tự cho phép mình. Trên đường lái xe về nhà, ông ta thích bỏ đường Hutchinson River Parkway và đi vào những đường nhỏ hơn, lát gỗ chạy vòng đâm vào Greenwich và Stamford, phóng chiếc xe nhỏ sơn màu bạc của ông qua những đường hầm cây cối lốm đốm, chạy xe ngang qua những căn nhà sơn trắng trang nghiêm của những người không rảnh rỗi có thì giờ để mà tiêu phí buổi trưa trong sòng bài đánh phé ở Atlantic City thay vì nằm phơi nắng trên những thảm cỏ mênh mông phẳng lỳ xanh mơn mởn.

 “Cái gì khiến bạn muốn là nhà văn?” Henry giận dữ hỏi các sinh viên của ông. (Càng về sau này ông ta càng mất kiên nhẫn đối với họ.)

Bọn sinh viên cười thẹn thùng. Tất cả bọn họ đều mơ ước trở thành giống hệt ông ta.

*   *   *

Có một lý do khác khiến tôi biết khá nhiều về Henry, ngay cả trước khi ông ta liên lạc thư từ với tôi, vì chúng tôi cùng là cư dân ở Lancaster, PA. Mới đây chúng tôi có treo một bức chân dung ông ấy ở thư viện công cộng. Đó là một bức hình đã cũ, chụp ngay sau khi quyển Người Quan Sát Chim ra đời năm 1975. Quí vị có thể tưởng tượng được cảnh vị thủ thư độc thân luôn đeo sợi móc quần (suspenders) và hàng ria mép, và bà nội trợ tình nguyện trông coi khu sách cho con nít, khi họ nhận được cái phong bì gửi bưu điện đựng bức hình như thế nào không?  Cái phong bì có in triện tên và địa chỉ người đại diện của Henry ở New York. Khi mở phong bì ra, hai vị thủ thư kể với nhau những chuyện dân ở Lancaster kháo nhau hoài về Henry: rằng ông đã đánh đổi cái học bổng của Đại Học Oxford lấy chuyến đi Saigon vào năm 67, trong khi vô khối thanh niên ở những nơi khác bịa ra đủ thứ lý do để khỏi bị động viên.  Henry có một lý do nhưng đã không dùng tới. Ông ta đã đi đến nơi đó, và sự việc không như ông ta đã mong đợi, nên ông ta tìm lối thóat ra khỏi quân đội, quay trở về xứ, và đã tự tạo được tên tuổi. Hai vị thủ thư, dồn sức lực chưa bao giờ quá đáng đến như vậy, nhìn quanh quất kiếm sợi dây treo tranh và đinh đóng.

Tôi đoán chừng là Henry bảnh trai, mặc dù tôi khó có thể nói như thế. Trong hình coi ông ta hầu như trẻ trung đấy. Dạo đó tóc ông ta húi cao (chỉ hơi dài hơn khi ông ta là nhân vật Trung-úy Marks), và hồi đó thì ông ta chưa để chòm râu đen điểm bạc xén gọt cẩn thận là một trong những món riêng biệt của ông ta giờ đây. Hồi đó ông mặc một cái sơ-mi cụt tay màu xám trông có vẻ lính tráng, và quí vị chẳng thể thấy được tấm huy chương bằng đồng trên ngực áo ông ta, mặc dù tôi biết là ông ta có đeo nó. Tóc ông ta đậm màu, chưa bạc. Ông ta nửa như quay mình nhìn về phía sau, như thể vừa mới chào từ giã người cầm cái máy hình. Vào thời gian bức hình được chụp cái tên Henry chưa được nhiều người biết; tuy vậy, trông ông ta rất buồn bã.

Nếu như quí vị đã đọc quyển Người Quan Sát Chim vào năm 75, rồi lật quyển sách nhìn tấm hình Henry in trên bìa sau, rất có thể quí vị hiểu được tại sao trông ông ta buồn thảm thế, nhưng như vậy là quí vị có thể đã lầm to. Vì phải chờ cho đến khi quyển Người Thiếu Nữ trên Sân Khấu ra mắt thì quí vị mới có thể hiểu được. Cái ông Henry (James) kia cơ mới là người đã nói rằng để trở thành một nhà văn bạn chỉ cần là kẻ một lần thất bại trong tình trường; vì quí vị chắc hẳn đã đọc hai quyển tiểu thuyết nêu trên cho nên tôi xin bỏ qua không nhắc tới sơ lược cốt truyện và nói cho quí vị nghe thực sự chuyện gì đã xảy ra.

*   *   *

Vào đầu mùa hè năm 67 Henry đã không có ý định từ chối cái học bổng trên đường đi xe buýt từ New York City về Lancaster. Anh ta vừa mới tốt nghiệp cử nhân ở Đại Học Columbia và chỉ định ghé về thăm nhà ít ngày; hai tuần lễ sau đó người bạn gái của anh tên Laura sẽ đến gặp để hai người có thể lái xe băng ngang từ miền Đông sang miền Tây và cùng nhau hưởng mùa hè ở California. Mùa Thu kế đó anh ta sẽ bắt đầu cái học bổng hai năm học ở trường Đại Học Pembroke, Oxford.

Ai cũng nghĩ là anh ta sẽ sang Anh để tránh chiến tranh. Henry chống đối chiến tranh, dĩ nhiên rồi; anh ta còn tham dự vào một vài cuộc biểu tình nữa là đằng khác, nhưng chỉ tham dự với tư cách nhỉnh hơn một kẻ đứng quan sát chứ chắng có gì khác. Những lãnh tụ sinh viên là những người thuộc đẳng cấp khác – tự tin hơn, trào lưu hơn, liên kết hơn, về mọi mặt hơn hẳn anh ta. Anh ta quan sát họ một cách hãi hùng, và đồng thời lại cảm thấy thích thú về sự độc lập của riêng mính. Trong những bài luận văn của anh, Henry giải thích, vào cỡ tuổi đó, đối với anh ta, hình như điều căn cốt là tránh trở thành cái này hay cái kia. Theo một cách nào đó, tôi nghĩ rằng anh ta hẳn đã giữ kín tham vọng cá nhân, dấu kín cả ngay đối với chính mình.

Những sinh viên anh nhìn thấy xếp hàng giăng ngang những bực thềm tòa thư viện trong buổi trưa hôm đó – một cuộc biểu tình nhỏ, ôn hòa xảy ra một năm rưỡi trước cuộc biểu tình đã chiếm trang nhất tờ New York Time sau đó – những sinh viên đó hoàn toàn giữ im lặng. Họ nắm chặt hai mép một dải giấy dài màu trắng trên có viết chữ lớn bằng mực đen: RÚT QUÂN MỸ KHỎI VIETNAM. Cả thảy bọn họ chỉ chừng mười lăm hai mươi người, và Laura đứng ở chót hàng. Cô ấy mặc một cái áo choàng len mầu lá mạ có mũ dính liền, và tóc cô ta bay dạt về phía tay phải tấm biểu ngữ đang phập phềnh trong gió lớn. Tóc cô ta, cái mũ của cô ta, và váy cô ta giương gió căng lên trông giống như bức tượng đồng thau thế kỷ mười chín; đứng quan sát từ một khung cửa phía bên kia chỗ đám biểu tình đứng, Henry có cái cảm giác nếu anh ta rời mắt không nhìn cô ta nữa, chắc cô ta sẽ trọn vẹn biến đổi, nếu sau này anh ta có đi ngang qua chỗ đó hẳn là cô ta đã vĩnh viễn trụ lại, đóng băng phía dưới một lớp da màu lam do đồng thau bị ốc xít hóa.

Chính Laura là người gợi ý bảo anh ta nộp đơn xin học bổng Marshall; tất cả bạn bè cô đã vội vã ghi danh học bậc cao học, hoặc gia nhập đoàn Peace Corps, hay tìm cách được xác nhận là đồng tính hay điên loạn. Henry đến trường tự giới thiệu mình là một ứng viên bằng cao học về Văn chương Anh. Theo lời cố vấn của một vị giáo sư, anh ta nói rằng anh ta muốn viết môt luận án về chủ đề “Những Bài Thuyết Giảng của Ông York” của Laurence Sterne. Anh ta viết xong bài luận văn rồi quên khuấy đi. Vào tháng Tư khi được chấp nhân vào học, Henry phát hoảng lên. Anh ta đã thử và thất bại hai lần không thể đọc xong quyển Tristram Shandy. Anh ta chẳng từng ra khỏi nước. Đặc biệt có ý nghĩa hơn nữa, là anh ta nghĩ mình phải lòng Laura.

Hai người có nói chuyện qua loa về việc sang Anh, nhưng Laura lại sẽ đi đến ở tại một căn nhà công cộng ở phía bắc San Francisco, nơi một vài người bạn cô ta sẽ ở đó để thăm thú cảnh trí xem sao. Cô tả nơi đó như là một chốn thiên đường thần tiên với Henry: “Họ trồng lấy trái cây nguyên sinh – đào và sung, em nghĩ vậy. Và khí hậu thì ấm áp đủ để ngủ ngoài trời, nằm sát ngay bên bờ Thái Bình Dương.” Henry chẳng ưa thích Thái Bình Dương chút nào, nhưng anh ta biết mình muốn nằm ngủ bên cạnh Laura, càng nhiều đêm càng tốt. Cuối cùng hai người họach định sẽ lái xe băng ngang lãnh thổ, và sống với nhau vài tuần lễ (cùng với đám bạn cô ta), trước khi anh ta phải lên đường qua Oxford. Khi gặp bọn bạn của Laura, Henry lập tức tỏ ra khinh khi họ và thấy bọn này làm anh ta kinh hoảng; anh ta tự nhủ rằng chính trị cũa lũ này chỉ là lớp áo khóac ngoài, rằng bọn này chỉ là một bầy rởm và là những súc vật hoàn toàn có thể đoán biết trước chúng sẽ làm gì. Những nhận định này xem ra chẳng giúp gì khi Laura giới thiệu anh ta với các bạn hầu như tất cả đều từ New York, Boston, D.C., ai cũng đã học tại những trường chuẩn bị đại học ở Miền Đông, và chẳng có một người nào có thể nhớ đã gặp anh ta trước đây đôi ba lần. Anh ta không thể nào hình dung ra chính anh ta lại cùng với bọn họ ăn quả sung, nguyên sinh hay gì đó, tại một căn nhà công cộng trông ra biển Thái Bình.

Điều kỳ cục là chính anh ta cũng không tin mình sẽ sang Anh. Anh ta duy nhất chỉ mong chờ được lái xe băng ngang lãnh thổ cùng với Laura. Anh ta nóng lòng muốn nhìn thấy sa mạc. Anh ta có cái ý nghĩ ngộ nghĩnh nhưng dai dẳng là giữa Lancaster và Berkeley thể nào cũng có cái gì đó xảy ra chỉ cho anh ta biết phải làm gì.

Trên chuyến xe buýt vào buổi trưa nắng chang chang hôm đó, Henry đọc quyển “Cuộc Đời Ngắn Ngủi, Hạnh Phúc của Francis Macomber.” Anh ta nhận ra, ở gần cuối trang hai mươi lăm, rằng không có ai ngoài đời thực lại thay đổi ý kiến nhanh và hoàn toàn như Francis Macomber sau cuộc đi săn trâu nước, và rằng Hemingway đã thu rút mọi việc kiểu đó, cốt tạo cảm giác. Anh ta yêu thích ý tưởng cho rằng lòng can đảm là một phẩm tính có thể sờ thấy được, ta có thể thấy ở cả con ngưới lẫn súc vật; anh ta cũng yêu thích ý tưởng về những tia nắng xuyên qua căn lều dùng làm nơi ăn khi mặt trời hạ thấp xuống bụi cây, tiếp sau một chuyến đi ban mai trên cái xe Jeep có những người khiêng súng, người chuyên lột da thú, và phu khuân vác di theo. Anh ta hầu như đã hoàn toàn quên hẳn mình đang ở đâu, cho đến khi ngước mắt nhìn lên thấy có bốn người lính đang chạy băng ngang khoảng sân bóng loáng. Anh ta tiếp tục đọc, nhưng vẫn có thể nghe thấy mấy người lính leo lên xe, họ sinh động ồn ào và ướt nhễ nhại.

“Henry Marks!”

Đó là Billy Coleman. Anh ta đã học cùng trường với Billy cả mười hai năm trời, nhưng về người bạn học này anh ta chỉ có thể nhớ được đôi điều chẳng hạn hắn đã tự nhận đã làm được chuyện đó với một đứa con gái tên là Helen Snyder ở trường trung học (nhưng chắc chắn là hắn đã chẳng làm được trò vè gì cả) và, trước đó lâu lắm, hắn ta đã tè vào chiếc ủng đi mưa để trong tủ quần áo ở trường tiểu học.

“Coleman.”

“Mày cũng đi về nhà hả?” Coleman hỏi, trườn vào ngồi ghế kế bên. Henry có thể nhìn thấy rõ ràng là hắn ta đem lên xe cái túi sách hoàn toàn cũ nát (một tặng phẩm của Laura, mua ở tiệm bán đồ cũ ở Village), cái quần jeans và cái áo khoác của hắn, và quyển Toàn Tập Truyện Ngắn đã cũ.

“Một hai tuần thôi,” Henry nói. “Còn mày thì sao?”

“Bọn tao đáp chuyến xe ở đây, thẳng từ Fort Dix.” Coleman ngó xéo sang người bạn hắn ngồi ở hàng ghề bên kia, tên bạn này nhìn hắn một cách khinh bỉ, như thể Coleman lẽ ra phải giữ mồm giữ miệng hơn.  Chẳng phải vỉ bọn họ có thể từ một nơi nào khác tới đây, với mái tóc như vầy.

“Bọn tao sẽ được di chuyển đi trong vòng mười ngày,” Coleman nói. Hắn ta ngó Henry một cách tở mở, hầu như rất trẻ thơ.

“Cũng sắp rồi,” Henry đẩy đưa câu chuyện.

Coleman gật đầu, đầy khích lệ. “Bọn này về thăm nhà một tuần. Schwartz và hai tên kia đều từ Philly. Schwartz biết tiếng Pháp và nó cũng sẽ học tiếng Việt. Hắn đã nói được tiếng Pháp – hê, Alan, nói mấy câu tiếng Pháp đi.”

Alan lắc đầu, chỉ chút chút thôi.

“Nói đi chứ. Thằng này có trí nhớ kinh khủng lắm.”

“Baise ta mère.” (Hôn mẹ mày)

“Mẹ đứa nào cơ chứ?”

“Đêm nay trông mày đẹp trai lắm,” Schwartz nói. “Có phải đó là câu mày sẽ nói với tất cả những đứa con gái, lần tới mày đến Paris.”

Coleman ngập ngừng cười. Quay lại phía Henry, hắn nói, “Mày đang học đại học, phải thế không?”

Tao vừa học xong. Henry nói. “Tao được cái học bổng. Tao sẽ đi học lấy bằng cao học – bên Anh.” Giây phút nói câu này ra, anh ta mong chi mình đừng nói câu đó.

Coleman đấm nhẹ vào cánh tay anh ta. “Ê, tuyệt quá. Chúc mừng mày. Lẽ ra tao phải đoán biết chứ. Mày luôn luôn là đứa thông minh ở trường.” Không có một chút ám chỉ ganh ghét nào trong lời Coleman. “Thằng Schwartz cũng đi đại học đấy. Nó rời trường năm ngoái, và rồi nó nhận được giấy nhập ngũ. Colemman hạ thấp giọng. “Dù sao tao cũng sẽ ngồi trong văn phòng đấy, biết không? Mày biết tao đang làm gì chứ?”

Henry lắc đầu.

“Mày thử đoán xem nào?”

“Tao thực không…“

“Tiền sát hướng dẫn pháo binh.”

“Họ bảo với mày như thế hả?”

“Tao tình nguyện – một mình một chợ, mày biết không? Và tao thuộc vào loại đơn thương độc mã. Phải thế không nào? Ê, Schwartz, có phải tao là tên đơn thương độc mã không?”

Nhưng Schwartz không quay đầu lại. Hắn ta hình như đang hồi ức về Ephrata, ở Pensylvania.

“Mày nhớ Susan Tammery không?”

“Ừ à, không. Tao không nghĩ tao nhớ.”

“Hai đứa tao chia tay một thời gian, nhưng giờ hai đứa quay trở lại với nhau.” Coleman nhấc bàn tọa khỏi ghế ngồi và dơ tay móc túi áo để lấy cái bốp của hắn. Hắn mở bốp rồi lật một cách thành thạo đến ngăn có cái hình Susan, sau lớp nhựa trong. Cô ta trông thùy mỵ, gái tóc bạch kim tròn trịa, mặc quần soọc trùm lên đồ tắm ô cờ và ưỡn mông ra theo cái kiểu bắt chước cô đào Marilyn. Ta chẳng thể nhìn thấy mắt cô ta sau lớp kính râm, nhưng ta cảm thấy cô ta vừa mới chụp cái kính râm lên để chụp hình. Cô ta trông chẳng có vẻ quen biết chút nào cả.

“À, trông được lắm,” Henry nói. “Cô ta thế nào?”

“Nàng thật tuyệt vời,” Coleman nói. “Tuần này tao sẽ gặp nàng. Tao sẽ về nhà ăn tối, sau đó tao sẽ đến nhà Susie.” Hắn nhăn mặt.  “Sau bận này có lẽ tao sẽ không về nhà ăn tối nữa.”

Khi bị Coleman hỏi tới, Henry nói với hắn về Laura và hai người đã sắp đặt cùng nhau lái xe về California; nhưng khi Henry nói mình chẳng cần có ai, Coleman vỗ vỗ lên cánh tay anh ta, như thể Henry đã nói rằng anh ta hoàn toàn chẳng có người bạn gái nào cả.

Quí vị sẽ nhận ra cảnh này trong quyển Binh Nhì Johnson, và cảnh sau đó, trong cảnh này George quyết định đăng lính. Hắn và Eddie Foster (ngoài đời là Billy Coleman) từ trạm xe buýt cùng cuốc bộ về nhà, vì hóa ra nhà hai người chỉ cách nhau vài dãy. Bà mẹ Foster đang đợi con bên cửa sổ; khi hai người bước gần tới nhà Foster, bà mở cửa và gào lên, “Eddie!” như thể anh chàng đang trong chiến trận. Foster đập mạnh trên cánh tay George và nói “Chúc may mắn.” Hắn thong thả bước ngang thảm cỏ trước nhà, đá vào cái hoa sen phun nước ri rỉ (như thể tự nhắc mình một việc nhà phải làm), và để cho mẹ ôm mình, ngoái cổ nhìn George như thể muốn nói, “Cái lũ đàn bà ấy mà – làm sao được?”

George Johnson lúc đó chợt nghĩ: “Mình phải cứu nó.”

Nhân vật của Henry sau đó trả giá cho cái khoảnh khắc lý tưởng trên thảm cỏ. (Đó là cái trò đảo nghịch vai nhờ đó Henry nổi tiếng). George không ngớt chửi thề Foster và mẹ Foster, mãi cho tới khi cái tên “Foster” đã trở thành một tiếng lóng trong đầu George để chỉ bất kỳ cái gì đặc biệt là ngu xuẩn và vô tích sự. Trong suốt thời gian mười ba tháng George sống ở Saigon, có không biết bao nhiêu là Fosters – cho mãi tới một hôm hắn lật tờ báo Ngôi Sao và Nét Vạch Ngang (Stars and Stripes) và thấy tên Foster trên danh sách binh sĩ tử trận. Hắn đứng dậy, đi về phía cửa sổ, và ngó mênh ra đường phố đông nghẹt xe đạp và những phụ nữ trên đầu đội những rổ rau, và (một chi tiết kỳ quặc có thể làm cho quí vị tin là thực) có một bàn tay thò ra bên ngoài căn phòng bên kia đường, căn nhà thấp lụp xụp và quá hẹp đến nỗi hắn không thể tin có người ở trong đó, bàn tay phất đi phất lại một con rắn bằng giấy màu đỏ và vàng cam treo trên đầu một cây gậy.

Và hắn nghĩ rằng Foster đi Việt Nam vì hai lý do – lòng kiêu căng và sự xuẩn ngốc. Và hắn nghĩ: “Đ.M.  mày, Eddie Foster. Baise ta mère.”

*   *   *

Henry đã giảng giải trong những bức thư rằng những ý nghĩ của ông ta về Eddie Foster (Billy Coleman) là có thực, nhưng cái khoảnh khắc trên bãi cỏ là bịa. Trong đời sống thực Henry đã không nghĩ đến chuyện đăng lính mãi cho tới cái đêm đầu tiên ở Lancaster, sau khi ăn bữa tối với cha mẹ, người anh trai tên Sam, vợ Sam tên Karen và hai đứa con gái. Mọi người đều tỏ ra hiếu kỳ về Oxford; mẹ hắn muốn biết hắn sẽ có những món nào khi sang bên đó, và có thể nào hắn có được một cái bếp điện trong phòng không; phòng khi hắn đói bụng trong khoảng giữa hai bữa tối và sáng:

“Mẹ đoán là bên đó đồ ăn tệ lắm phải không?” mẹ hắn hỏi. Cả hai ông bà đều nhìn hắn nóng lòng chờ câu trả lời.

Karen, vừa mới đứng dậy, đi trở vào bếp và đứng sớ rớ ở cửa với đứa con nhỏ.

“Liệu họ có bắt chú mặc những cái áo chùng đó không?” Trên vai Karen phủ giấy lau phòng con nhè đồ ăn lên áo.

“Không phải mỗi ngày,” hắn nói.

“Chị có xem một phim,” Karen nói với vẻ ngờ ngợ. “Chị nghĩ đó là Oxford. Trong phim sinh viên luôn mặc áo chùng.”

“Tại sao chúng nó lúc nào cũng mặc áo chùng như thế?” Sam nói: “Lạy Chúa tôi.”

Henry chẳng biết khi nào người ta mặc áo chùng, hay người ta có thể có cái bếp điện riêng; thực ra, khi hắn nghĩ về Oxford hắn có cái cảm giác bệnh hoạn ngay phía dưới lồng ngực. Hắn cảm thấy thoát nạn khi được tách xa gia đình và đứng lên đi vào căn phòng cũ phòng mình, căn phòng có cái trần nhà thoai thoải và lót thảm màu ngà, có cả cây cờ của trường Columbia và tượng thắng giải bóng chày và tất cả những cuốn sách cũ của hắn, đầy đủ hết từ những cuốn Hardy Boys cho đến quyển Catcher in the Rye (Bắt Trẻ Đồng Xanh).

Hắn nghĩ ngợi về Coleman giờ đây có thể đang làm tình với Susan Tammery trong xe hơi ở một nơi nào đó, và băn khoăn tự hỏi có nên đi xuống dưới nhà chỗ hành lang và gọi cho Laura mà không khua cha mẹ thức dậy. Thay vì xuống nhà gọi điện thoại hắn ngồi trên sàn phòng lưng dựa vào giường, ngồi chỗ đó như thế hắn có thể duỗi cẳng được, và mở quyển truyện của Hemingway ra. Hắn bỏ qua không đọc bài tựa, đây là lần đầu tiên hắn đọc những tư tưởng của Hemingway về kinh nghiệm:

Bằng cách đi tới nơi mà bạn phải tới, và làm cái gì bạn phải làm, và nhìn cái gì bạn phải nhìn, bạn làm cho cái dụng cụ dùng để viết ngu muội và cùn nhụt đi. Nhưng chẳng thà tôi bẻ cong và làm ngu muội và biết được tôi phải đem mài rũa nó lại và lấy búa nện cho nó thẳng ra và đặt một hòn đá mài bên cạnh nó, và rằng tôi biết tôi đã có một cái gì đó để viết về, còn hơn là có cái dụng cụ đó sắc bén và long lanh và chẳng có gì để mà nói, hoặc vuốt cho thẳng thắn, bôi dầu mỡ kỹ lưỡng cất kỹ trong tủ, chẳng bao giờ dùng tới.

Henry chép lại đoạn này cho tôi, bởi trong quyển Binh Nhì Johnson không có đoạn này. Ông ta bảo cũng chỉ vì hai câu nói này mà ông đăng lính, và rằng chỉ sau vài tích tắc bỏ ra để đọc hai câu đó, ông ta đã hoàn toàn thay đổi ý định.

*   *   *

Henry bồn chồn vì quyển Pháo Đài Cuối Cùng – đây là quyển đầu tiên ông ta viết tuyệt đối không có gì dính dáng tới Việt Nam cả – nhưng tôi nghĩ ông ta chẳng cần lo lắng. Ông ta đã tạo được tên tuổi nhờ viết về Việt Nam, nhưng nếu ta nhìn vào ba mươi năm đời ông, quãng đời đó có nhiều chuyện quan trọng về các nhí gái nhiều hơn là về chiến tranh. Về điểm này tôi phải dẫn chứng rằng mặc dầu trong những lớp dạy viết văn có vài thiếu nữ rất hấp dẫn, Henry giữ vững những giới hạn nghề nghiệp. Ông ta đã rất thành thực với tôi về điểm này. Ông ta nghĩ rằng một đứa con gái mười bảy tuổi sắp là một người bạn của ông – hoặc chúng tôi có là gì với nhau đi nữa – phải biết rằng ông ta không có những quan hệ với học trò ông, họ là những người lớn tuổi hơn tôi, nhưng cũng chả lớn hơn mấy tí.

Vấn đề đối với tôi là nếu như Henry nói với tôi là ông quả thực có những liên hệ tình ái thì sao. Và nếu không, thì ông ta có cái gì? Ông ta vẫn là người theo đúng thời khóa biểu, đong đếm từng giờ, ngay cả những giờ trước khi lên giường ngủ, vì thế tôi tự hỏi phải chăng ông ta có thể đã bỏ sót những sự việc nào đó.

Nếu quả thực như vậy, tôi mong ông sẽ nói cho tôi biết. Có lẽ ông ta nghĩ tôi rất thính tai. Có thể rằng tôi trẻ nhưng nhưng không tế nhị. Tôi ưa thích vài món thể thao, đặc biệt là môn quần vợt (tôi chơi trong đội xuất sắc cấp một), và nếu không phải là mùa quần vợt, buổi sáng tôi chạy bộ. Tôi gầy nheo, ngực phẳng lỳ, và mắt cá chân tôi thô. Tóc tôi bạch kim và cắt ngắn đến cằm, và tôi có cặp mắt thật to, màu xanh nhạt và phải đeo kính. Có lần tôi đã nói với mẹ là mắt tôi là mắt cá, và bà cười lớn rồi nói không phải, nhưng rồi sau đó bà bắt đầu gọi tôi là “Cô Cá.” Bà bảo rằng đó chẳng phải vì mắt tôi lớn quá nhưng bởi vì tôi cứ quan sát mọi người, kể cả bà.  Bà bảo tôi thuộc loại con gái thông minh, láu cá.

Tôi phải nói cho quí vị biết tôi không còn trinh. Đó là một sự phát triển mới diễn ra thôi, kể từ thứ Hai tuần trước. Tôi đã thề là sẽ không còn trinh khi vừa đúng mười bảy tuổi, nhưng vào tháng Tư là tôi mười bảy nhưng vẫn còn trinh tiết. Đó không phải vì tôi không có bạn trai – tôi có chứ, thằng Curtis Moreno đó – hoặc vì nó không muốn – nó muốn lắm chứ, muốn ghê lắm – nhưng tôi đoán là vì tôi không có thể tưởng tượng được vụ đó lại diễn ra tại nhà chúng tôi (nhà của mẹ tôi và tôi) giữa trưa với một anh chàng như Curtis. Trí tưởng tượng của tôi là một trong những vấn nạn lớn của tôi, theo như mẹ tôi nhận xét. Mẹ tôi nói rằng nếu như nếu con cứ luôn nghĩ ngợi về mọi sự trong đời con rồi sẽ như thế nào, con sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc được. Mẽ đã nói như thế nhưng tôi biết là mẹ cũng tưởng tượng về nhiều sự việc. Tôi nhận ra thế bằng qua cách bà ăn mặc đep khi chúng tôi đi lễ nhà thờ ngày Chúa Nhựt, bà mặc một cái váy và một áo áo ngoài có cái pin (một con ong, mắt là hai hạt khối Ziconi hình vuông)  và trong cái cách mỗi sáng bà lại tập thể dục theo băng hình của Jane Fonda trên thảm trong phòng khách của chúng tôi, dù rằng bà đã tập theo băng này ít nhất cũng cả mười năm rồi, và hẳn nó phải làm bà điên lên vì cái kiểu Jane bước vào phòng tập và nói: “O-kay, chúng ta đã sẵn sang để làm việc chưa?”

Dù sao chăng nữa, cái buổi trưa thứ Hai đó chẳng vì lý do gì tôi quyết định là quyết định. Đó là cái kiểu của tôi (cũng như với bức thư này, tôi đã không biết tôi sẽ viết cho tới khi tôi về đến nhà sau buổi tập quần vợt hôm nay và ngó thấy tờ đơn xin vào học do trường quí vị gửi tới để trên mặt bàn). Mẹ tôi đang ở sở, nhưng bà đã để tờ đơn vào chỗ tôi không thể không nhìn thấy. Có lúc tôi đã nghĩ tới việc làm cho điểm học của tôi chụt đi một tý để bà thôi làm phiền tôi, nhưng thật khó mà học kém đi khi mà mình đã quen học khá rồi. Tôi không xin vào học trường quí vị đâu, nhưng tôi cũng chẳng ngại cho quí vị biết tôi có điểm 3.97 và mọi người đều nói rằng tôi sẽ là thủ khoa.

Curtis có thể sẽ là phó thủ khoa nếu nó đừng phi ma túy nhiều quá. Nó nói học ở trường dễ quá nên chẳng cần cố gắng, tôi nghĩ đó là một cái cớ chạy tội nó dùng để giải thích với chính nó tại sao tôi có điểm cao hơn nó. Curtis cũng còn chơi Tây-ban-cầm nữa và nó kháu khỉnh; nó gốc Ý. Nó có hai con mắt nâu dễ thương, lông mi dài, tóc dài thượt (vừa phủ qua mang tai). Nó muốn thành một nhạc sĩ, và nó rất ngưỡng mộ Neil Young, The Band, Jerry Garcia, và Bob Dylan, ngưỡng mộ quá xá, dù cho đó không phải là thứ nhạc người ta nghe ở trường tôi. Tôi cũng chẳng ngại việc Curtis sau khi tan học đến nhà tôi khảy tây-ban-cầm, nhưng sau khi đã nghe những bản nhạc nó viết tôi nghĩ là khôn ngoan nếu như nó chọn một cái gì đó để phòng hờ sau này, chẳng hạn như ngành bác sĩ mắt. Tôi chờ một cách khéo léo để nói với nó như vậy.

Khi Curtis đến đây hôm thứ Hai đó, Bà Glick đứng ngoài sân, hai tay chống nạnh và mắt nhìn đám hoa impatiens.

“Hello, Bà Glick,” tôi nói. Mẹ tôi bảo mình phải cố sao đứng ở phía thanh thiên bạch nhật đối với ông bà Glick, vì ông Glick không những chỉ là hàng xóm chúng ta mà ông còn là chủ nhà và là ông thị trưởng nữa.

Bà Glick lấy tay che nắng chiếu vào mắt và hấp háy nhìn lên phía chúng tôi. “Ồ, hello, Curtis.” Rồi bà nói với tôi: “À thì ra hôm nay là ngày họp bạn.” Đó là cái bà nói mỗi khi nhà chúng tôi có ai tới chơi. Để rồi sau đó bà có thể hỏi xem người đến chơi làm nghề ngỗng gì. Trong trường hợp này, tôi và Curtis chẳng làm bà hớn hở.

Curtis và tôi mỗi đứa uống một chút rượu ngọt nhẹ, đó là thứ rượu duy nhất mẹ tôi để trong nhà, cùng với cái ly uống rượu nhỏ có in hình một chú heo trên đó với hàng chữ TÔI YÊU IOWA. Lúc đó là vào quãng hai giờ rưỡu trưa một ngày thứ Hai, là giờ chúng tôi phải có mặt ở trường nếu hôm thứ Hai đó không phải là ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong). Mẹ tôi không được nghỉ ngày Chiến Sĩ Trận Vong và bà thường về nhà vào khoảng sáu giờ, vậy nên tôi và Curtis có chán chê thì giờ.  Hai đứa vào phòng ngủ của tôi và bắt đầu rỡn nghịch, và Curtis để tôi chọn nhạc, việc này thật hiếm có. Tôi không chắc phải mô tả chuyện xảy ra sau đó thế nào. Theo một cách nào đó, đấy giống như chuyện hai người cùng ở đó một lúc: tôi (tên tôi có ghi trên phong bì, nếu nhứ quí vị tò mò muốn biết) và một người nào đó (thí dụ, bà Fish). Một người thì cảm thấy lạ lùng quá, còn người kia thì nghĩ ngợi thật lung về chuyện đang xảy ra, và những cảm giác và ý nghĩ đó rất khác nhau.

Điều Cô Fish nghĩ là: hay đứa đúng ra không nên cúp lớp học về Vệ Sinh (Health class). Những vị phụ huynh dạy lớp này nói cần học lớp này chính bởi vì chúng ta sống trong một công đồng bảo thủ. Đúng là chúng ta có thấy dân Amish và dân Mennonites thật, nhất là ở chợ vào ngày thứ Bảy, nhưng họ phần lớn dạy dỗ con cái ở nhà.  Chính những kẻ không trang phục gì đặc biệt – những kẻ lái xe một đỗi xa để đến Nhà Thờ Monument Bible ở Paradise – là những kẻ không đến lớp học này.  Mẹ tôi không đồng ý với những phụ huynh này, nhưng việc nói về làm tình gợi nên không biết bao nhiêu là thứ khác mẹ tôi và tôi đã thỏa thuận với nhau từ lâu rồi, và tôi nghĩ bà đã rất vui mừng khi tôi nói với bà tôi đã tự mình tìm hiểu tất cả rồi. Bà nói: “Cô Fish, cô là một lỏi tỳ ranh mãnh lắm.”

Trong lớp Vệ Sinh tôi đã nghe người ta nói đã xem phim thấy cả chuối cũng được chụp bao cao su. Cái cách tôi học hỏi về tình dục là tra hết chữ này sang chữ kia trong tự điển.  Thật tốn thì giờ. Tôi đơn giản bắt đầu, bằng chữ “tinh trùng,” (sperm) đúng ra là “spermatozoon”, chữ này dẫn tôi sang chữ “spermatic cord” và “testis.” Tôi có thể hình dung khá đúng ra những thứ này, mặc dù “scrotum” hóa ra ngó xấu xí hơn nhiều so với cái định nghĩa gợi ra. Không có một chữ nào tôi tra trong tự điển có hình ảnh kèm theo, điều này tôi nghĩ với một quyển tự điển có tranh minh họa thật là kỳ cục, một quyển tự điển ghi rõ “vật chạm trổ : một món đồ được trổ hay chạm, đặc biệt là ngà cá voi, xương cá voi, nanh con móoc (walrus) hay tương tự, do những người săn cá voi làm như một thú tiêu khiển,” đấy là chưa kể chữ “testudo.” Chữ “vas deferens” thật hữu ích, nhất là nó dẫn tôi tới chữ “epididymis: một bộ phận dài, hẹp, xẹp xoắn là một phần của hệ thống dẫn tinh trùng, nằm phía cạnh song song của đường biên phía sau của trứng dái.” Định nghĩa này thực đã thu vén tất cả lại cho tôi và cũng, theo một cung cách, khiến tôi cảm thấy trìu mến đối với cái epididymis và gần như đồng hóa mình với nó – tôi biết nói thế nghe kỳ cục thật, nhưng chính tôi cũng là một cơ thể dài ngoẵng, mảnh mai, xẹp lép, và xoắn tít, khi nằm dưới Curtis.  Có lẽ nếu như chúng tôi đến lớp học Vệ Sinh, hoặc nếu trên cái trang tự điển có bức hình một vật gì kế bên chữ “epergne”, thì tôi đã chẳng có một ý tưởng kỳ khôi như vậy.  (Quí Vị, Quí Ông hay Quí Bà, sẽ nhận ra ngay chữ epergne là “một cái bàn rộng đặt giữa nhà gồm có một cái khung sườn với những cánh tay nối dài hay những nhánh chống đỡ những mâm, để chưng hoa, trái cây, hay kẹo mứt.”)

*   *   *

Tất cả những thứ trên là do Cô Fish nghĩ. Điều tôi nghĩ là: Tôi sẽ khóc. Curtis nhắm mắt lại và tôi cũng làm vậy, nhưng rồi tôi mở mắt ra vì tôi không thể không mở mắt ra.  Curtis làm mặt hài nhưng tôi không thích, cho nên tôi ngó lên trần nhà qua vai nó và tôi nghĩ rất có thể cái trần nhà khiến chút xíu nữa tôi khóc. Trần nhà của chúng tôi trắng ngà, rất thấp, và được trát lớp sơn sần sùi trông như rắc đường. Khắp nhà đều sơn như vậy, vì vậy mẹ tôi ước gì nhà rộng hơn. Tôi cầu mong sao cho đừng biết mẹ tôi đã ao ước như thế, bởi nếu không tôi hóa ra lại thích căn nhà của chúng tôi. Bà than phiền về lớp cỏ trên bực thềm phía ngoài nhà nhưng cứ mỗi khi ngó lớp cỏ đó là tôi nghĩ về Fredericka, chú thỏ xám của chúng tôi, nhốt trong một cái chuồng thỏ mẹ tôi đã dựng lên ngay ngoài cửa trước nhà.

Đó là vào một sáng thứ Bảy, khi tôi trạc mười tuổi. Mẹ tôi thức dậy sớm và đi xuống nhà dưới để mượn ông Glick giải đồ nghề. Trong khi ông Glick giúp mẹ tôi chỉnh giải thắt lưng cho vừa eo mẹ tôi, tôi nghe thấy Bà Glick nói:

“Tôi phiền không phải vì trong hợp đồng thuê nhà đã nói không được có thú cảnh nhưng vì bà phải tự tay làm cái thứ công việc này.” Sau đó ông Glick đề nghị để ông dựng cái chuồng thỏ cho chúng tôi, và Bà Glick nói: “Lại ông!” Và rồi bà nói với mẹ tôi, “Ông ấy là một tay làm thương mãi giỏi và là một ông thị trưởng tốt cũng chưa đủ, ông ấy còn phải là một kẻ cơm nhà vác ngà voi giỏi nữa!”

Và mẹ tôi nói, “Nhưng Linda này, chẳng có ai cần phải là một người cơm nhà vác ngà voi giỏi cả. Tôi thích có một công việc để làm.”

Trong lúc tôi làm tình với Curtis tôi nhớ đến con Fredericka, và hẳn điều này phải là cái khiến cho mũi tôi ngứa ran lên phía hai bên cánh mũi, và rồi bất thình lình Curtis mở mắt ra và nói: “Em đang quan sát anh phải không?” “Cái bộ phận đực để giao hợp của anh ta trong loài động vật có xương sống cao đẳng” đang ở trong tôi, nhưng tôi nghĩ Curtis hận tôi. Đó đúng là lúc tôi thực sự nghĩ mình sẽ khóc, nhưng vì tôi vừa mới nói là tôi không quan sát anh ta, Curtis lại nhắm mắt và kết thúc. Tôi đã biết Curtis chẳng kinh nghiệm gì, nhưng tôi mong nó sẽ kéo dài hơn thế – từ 3:12 đến 3:21 như đồng hồ báo thức của tôi chỉ. Tôi vừa lăn người sang bên và co cặp giò lên, và tôi thực ngạc nhiên khi Curtis vòng tay ôm tôi. Hai đưa tôi nằm như vậy trong vài phút, trên tấm trải giường, và tôi nghĩ về việc tôi thở, cố giữ nhịp thở vừa đều vừa êm.

“Cám ơn,” Curtis nói.

Tôi chẳng nói chằng rằng.

“Anh yêu em,” Curtis nói.

“Tôi yêu Iowa.” Tôi nói.

Hay đó là điều tôi nghĩ. Tôi thường nghĩ về một điều khá hơn để nói ra sau đó, đó là lý do tại sao tôi ưa thư từ. Tôi đã muốn Curtis biến đi ngay sau giây phút chúng tôi kết thúc, và rồi có thể sau đó viết cho Curtis một bức thư. Dù sao, vào cái ngày thứ Hai tuần trước, ngày 27 tháng 5, ngày Chiến Sĩ Trận Vong – tôi thấy nhẹ nhõm khi biết Curtis không hận tôi rằng điều tôi đã nói là: “Em cũng yêu anh.”

Nhưng giờ đây tôi mong sao tôi đã chẳng là một người hèn hạ như thế.

Cho đến nay tôi chưa tương tư ai; nhưng ta chẳng cần phải đã từng phải lòng ai để trở thành một bác sĩ nhãn khoa giỏi. Henry, được tiếng là, đã chỉ tương tư có độc một lần. Ông ta nói với học trò của ông điều này, và nếu họ có hỏi thêm nữa thì ông nói, “Ở trong sách đấy.” Nghĩa là ông có ý nói cứ đọc quyển Thiếu Nữ Trên Sân Ga đi thì biết chuyện. Trong quyển tiểu thuyết này, Henry bỏ cái tên giả George Johnson và viết truyện một người đàn ông tên là Henry Marks, ông này gặp gỡ một thiếu nữ, rời xa cô ta, và rồi phải lòng lại, nhưng khi đó thì đã quá muộn. Tên người thiếu nữ là Laura.

Henry cũng thường viết thư cho Laura. Ông ấy viết bức thư đầu tiên trước   khi ông rời nhà để vào Trung tâm Huấn luyện Cơ bản Quân sự và cứ tiếp tục viết hoài, cứ ba hay bốn hôm một cái, trong toàn thể thời gian ông ta ở Việt Nam. Ông ta chính là kẻ đã nói với cô ta là mình không mong đợi cô ấy chờ mình, hay viết thư lại cho ông ta, trừ phi cô ấy thích viết. Quí vị có thể tưởng tượng xem, Laura nghĩ sao về quyết định này của ông ta, cái quyết định thành hình chỉ có một tuần lễ trước khi lẽ ra họ sẽ cùng nhau làm chuyến đi băng ngang lãnh thổ. Henry không mong cô ta hiểu, và khi cô ta hỏi ông một cách rất bình tĩnh, hãy giải thích vì những lý do gì mà làm vậy, và việc hỏi ông này làm ông bực mình. Có thể ông ta thích thay vì hỏi lý do cô ấy nổi giận và la khóc. Trong quyển truyện này thì Laura lại giữ im lặng cả sáu tháng trời, sống tỉnh bơ, trước khi cô ấy bắt đầu viết thư cho ông ta.

Ông ta hơi ngạc nhiên việc cô ta đi California dù không có ông. Căn nhà công cộng, tên là Cổng Biển, hơi ở về phía bắc thành phồ Bolinas một chút, nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống Thái Bình Dưong. Căn nhà nằm trên bốn mẫu đất, có những cây ăn trái đã nói ở trên, một vườn rau, và một bể tắm hơi. Dân cư ở đó đủ mọi quốc tịch và kể cả một anh chàng người Bolovia tên Andreas là kẻ đã dạy Laura học tiếng Tây-Ban-Nha, một ngôn ngữ cô ta đã mong muốn được học ở trường thay vì học tiếng Pháp, bởi vì cái cách thật khó tả khi bạn nói ngôn ngữ này. Cô ấy ước gì mình là một nhà văn như Henry (cô viết trong thư như thế) để có thể dùng ngôn ngữ mô tả được điều này.

Cổng Biển không phải là một cái nhà công cộng điển hình, cô ta làm cho ông ta yên lòng trong bức thư sau. Nó không phải là cái gì như ông ta nghĩ: không có xì ke ma túy, trừ cần sa ra, và những người xài món khác thì phải ra khỏi nhà mà xài. Mỗi người có một phòng ngủ riêng biệt, ngay cả nếu là vợ chồng cũng vậy. Nó cũng không phải là một cái nhà công cộng theo kiểu đó; Henry chẳng nên lo lắng rằng cô ấy đã thay đổi nhiều như vậy. Đa số những người cặp với nhau họ làm vụ đó trong rừng, và theo Andreas chuyện này rất là bình thường trong đồn điền mía ở Bolovia của ông nội anh ấy.

Những người ở Cổng Biển có thái độ phê phán Andreas vì cái đồn điền của ông nội anh ta – đồn điền dùng nhân công là những nông dân da đỏ di dân từ những làng xóm vùng núi non trong vụ trồng mía – phải hiểu rằng mọi chuyện ở Bolovia rất khác, và nói cho cùng kỳ lý, nước Mỹ trên căn bản là ông chủ đồn điền phong kiến của toàn thế giới. Ý này là của Laura, cô ấy nhấn mạnh, chứ không phải của Andreas. Andreas chỉ có nói với cô về sự mềm mại của cỏ bên bờ con sông chảy ngang đồn điền của ông anh ta, và về mùi mía thoang thoảng trong gió nhẹ từ đồn điền Pilcomayo khi ta nằm ngửa mặt về ban đêm, chiêm ngưỡng những chùm sao nghịch đảo của bầu trời Bolovia ngợp thiên hà.

“Còn ở Việt Nam thì như thế nào?” cô ta có ý muốn hỏi xem trong một bức thư khác, dù rằng cô đã biết có rất nhiều thứ anh ta không thể nói với cô. Cô đã chẳng nói cho người nhà biết về anh ta – chẳng phải vì cô thấy xấu hổ, nhưng có thể vì thực lòng chính cô cũng không hiểu gì cả. Cô chỉ biết rằng Henry ở bên đó không phải để giết chóc trẻ thơ và người già, xếp hàng bọn họ phía trước những căn lều của họ và thản nhiên xả súng bắn chỉ bởi họ muốn có một hệ thống chính quyền Hiệp-chủng-quốc Mỹ đã vì một lý do nào đó không đồng ý, nhưng cô muốn biết anh ta đang làm gì ở đó để cô có thể giải thích với những người ở Cổng Biển, nhất là Andreas, là một người ngoại quốc, và vì là người ngoại quốc nên đầu óc cởi mở hơn một vài người bạn mới của cô.

(còn tiếp)

*   *   *

Đào Trung Đạo dịch

Trích trong LUCKY GIRLS pp-161-225, Ecco 2003