Trương Nhân Tuấn: Cuối năm nhìn lại…
Cuối năm nhìn lại Việt Nam thấy có vô số vấn đề cần được quan tâm, cần xét lại, hoặc cần giải thích lại. Từ kinh tế, chính trị, quốc phòng, giáo dục, y tế, pháp lý… cho tới những vấn đề lịch sử như chiến tranh Việt Nam, về lăng kính chính trị của tuyên giáo, vấn đề tham nhũng… Một số sự kiện đặc biệt, theo ý kiến chủ quan của tôi, cần được nhắc lại. Đó là:
1/ Tình trạng thối nát cấp quốc gia, đảng viên Cộng sản Việt Nam “ăn của dân không từ một thứ gì”, xuyên qua hai vụ (Test Kits) Việt Á và “các chuyến bay giải cứu”.
2/ Chiến tranh Nga xâm lược Ukraine nhìn qua lăng kính chính sách “ngoại giao cây tre” và “quốc phòng bốn không” của Việt Nam.
3/ Đài loan và Biển Đông: chuyện nội bộ của Trung Quốc?
4/ Từ vụ “cúp điện” buổi trình diễn ở Hà nội của ca sĩ Khánh ly sau khi bài “Gia tài của mẹ” được trình diễn.
1/ Vụ Việt Á và vụ “Các chuyến bay giải cứu”.
Vụ Việt Á, dưới cái nhìn của bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam, đó chỉ đó là một vụ “tham nhũng” đơn thuần. Trên BBC có bài báo cho rằng vụ Việt Á “cho thấy quản lý nhà nước có vấn đề”. Báo chí còn đăng bài viết khác, cho rằng vụ Việt Á là một “hình thức lũng đoạn nhà nước”.
Theo luật Việt Nam, tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức….
Tháng Sáu 2022 sau khi họp Bộ Chính Trị có kết luận:
“Các đồng chí: Chu Ngọc Anh, Nguyễn Thanh Long, Phạm Công Tạc đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, Quy định trách nhiệm nêu gương; gây hậu quả rất nghiêm trọng, làm thất thoát, lãng phí lớn ngân sách nhà nước; ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch Covid-19; gây bức xúc trong xã hội; ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế…”
Bộ Chính trị đóng khung vụ Việt Á ở các vấn đề chính trị, kinh tế và đạo đức của đảng viên. Nội dung này không ra ngoài nội hàm cán bộ tham nhũng. Không thấy Bộ Chính trị nói một chữ về nạn nhân, hàng chục ngàn người, có thể chết oan vì kít Việt Á, chết vì các hành vi vô luân, vô đạo, phi nhân… của lớp “tinh hoa” trong đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo “lề trái” nói ông Trọng đã “nghẹn ngào” khi ra quyết định (như trên) để kỷ luật các “đồng chí thân thương” của mình.
Theo tôi vụ Việt Á không phải là một vụ “tham nhũng”, suy đồi đạo đức hay “trục lợi” đơn thuần. Hành vi “tham nhũng”, theo luật đã dẫn trên, chỉ đóng khung ở không gian kinh tế.
Thực tế cho thấy đã có chết người. Nạn nhân hàng chục ngàn người đã chết. Vụ Việt Á lý ra phải xử như một đại án giết người có tổ chức.
Quyền sống của con người là quyền cao nhứt. Nhân danh “chống dịch như chống giặc” đảng Cộng sản Việt Nam đã có những chính sách tàn độc như “cách ly”, đem nhốt chung những người bị “dương tính” do test dỏm Việt Á, cùng với những bịnh nhân Covid-19, tại những khu vực “nội bất xuất ngoại bất nhập”, khiến họ vào sống ra chết. Ngoài ra chính sách tập trung nghiêm ngặt, không chu cấp tiền bạc, lương thực hay các vật dụng cần thiết. Hàng triệu người dân Sài gòn và các tỉnh bị triệt đường sinh sống.
Đảng lãnh đạo toàn diện nhà nước và xã hội. Nếu “quản lý nhà nước có vấn đề”, nói như BBC, thì vấn đề ở đây chính là đảng.
Cũng không thể có cái gọi là “lũng đoạn nhà nước”, với ý nghĩa nhân sự Việt Á sử dụng tiền bạc để điều khiển công chức nhà nước. Đây là cách tác giả phê phán “bẻ cổ logic” và đơn thuần dựa trên kinh tế.
Vụ Việt Á cũng không đơn giản là một chỉ dấu “suy thoái” (về tư tưởng, chính trị, đạo đức…) của một số quan chức.
Sự việc xảy ra tuần tự là: Việt Á mua kít của Trung Quốc với giá rẻ (như bèo) khoảng 1 đô la/kit. Bộ Quốc phòng nhập cuộc, qua đại diện là “Học viện quân y”, biến kít Trung Quốc thành sản phẩm phát minh khoa học nội địa. Tới phiên Bộ Khoa học. Bộ này “bảo kê” kít Việt Á là hàng thứ xịn, do quốc nội sáng chế, được chuẩn nhận phẩm chất ngang hàng kít quốc tế. Kế tới là Bộ Y tế. Bộ này ra đủ thứ luật lệ buộc dân chúng phải thử nghiệm “đại trà”, ai cũng có thể bị ép ngoáy mũi thử nghiệm. Giá kít được đội lên 470.000 đồng/ kít.
Cuối cùng (trùm cuối) ra chỉ thị khuyến cáo các cơ sở y tế đọa phương phải mua kít Việt Á trong chiến dịch “chống dịch như chống giặc”. (Trùm này có vẻ là Vũ Đức Đam, hay như lời đồn đãi lâu nay là bà Trần Thị Nguyệt Thu, vợ ông Nguyễn Xuân Phúc nay đã bị buộc thôi chức Chủ tịch nước)
Hàng chục ngàn người dân đã có thể không bị chết oan. Hàng ngàn xí nghiệp đã có thể không bị phá sản. Hàng trăm ngàn, thậm chí hàng triệu cá nhân, gia đình… gia sản đã không bị tiêu tan, gia đình không bị ly tán (do cách ly). Vô số gia đình nhuốm cảnh tang thương, của mất, người chết…
Ngoài việc gây thiệt hại kinh tế, “hệ thống Việt Á” còn giết chết nhiều người và gây xáo trộn xã hội. Tổn thất kinh tế chưa thể kiểm kê. Suy trầm kinh tế dĩ nhiên có đóng góp của hệ thống Việt Á.
Nhưng trầm trọng hơn cả là cú chấn thương tâm lý và đạo đức. Dân nhìn cán bộ đảng viên như những kẻ tội phạm.
Đó là chưa nói tới vụ “các chuyến bay giải cứu” của bộ Ngoại giao.
Còn lại gì ở cái gọi là “nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” qua các vụ này?
Không đơn thuần chỉ là tham nhũng. Cũng không hẳn là do nhà nước yếu kém trong mục quản lý. Cũng không phải là nhà nước bị lũng đoạn.
Vụ Việt Á (và vụ các chuyến bay giải cứu) cho thấy:
Luật lệ không ra gì thì tất cả những gì của nhà nước là một sự thối nát. Thối nát toàn diện. Hệ thống Việt Á, bao gồm các Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Khoa học Công nghệ… cho tới “các chuyến bay giải cứu” của Bộ Ngoại giao.
Đảng viên nào có quyền lực đảng viên đó thối nát.
Tất cả nhân sự lãnh đạo “nhà nước và xã hội” hiện nguyên hình là những con giòi đang rỉa rói cái thây ma tên gọi “nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.
Tội giết người, do cố ý hay do vô tình, cũng là tội giết người. Tội phá hoại nền kinh tế quốc dân là chống lại lợi ích của nhân dân và đất nước.
Ông Trọng xử các đảng viên của đảng ông bằng kỷ luật đảng, trên quan điểm đạo đức, buộc họ “chịu trách nhiệm chính trị” bằng cách cảnh cáo, hay nặng hơn là đuổi họ ra khỏi đảng. (Điển hình Vũ Đức Đam).
Còn trách nhiệm hình sự của đảng viên (như Vũ Đức Đam
) về các tội giết người, các tội phá hoại nền kinh tế quốc dân, tội gây xáo trộn xã hội và bần cùng hóa đời sống đại đa số nhân dân thì sao?
Riêng cá nhân ông Trọng, ngoài trách nhiệm liên đới đối với các đảng viên dưới quyền, về các tội trạng đã dẫn trên, ông còn có trách nhiệm hình sự về tội bao che đàn em phạm tội.
Lý lẽ duy nhứt biện minh sự hiện hữu của một chính đảng (đảng phái chính trị) là phục vụ người dân.
Khi cán bộ đảng viên trục lợi, tham nhũng trên máu và nước mắt của người dân, ngay lúc những người khốn cùng này lâm cảnh hiểm nghèo của một đại dịch toàn cầu, đảng viên đó không chỉ bi luật pháp trừng trị nghiêm khắc mà chính đảng đó cũng phải bị giải tán.
2/ Chiến tranh Nga xâm lược Ukraine nhìn qua chính sách “ngoại giao cây tre” và “quốc phòng bốn không” của Việt Nam.
Năm qua Việt Nam (ít nhứt) ba lần bỏ phiếu trắng trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc về các vấn đề liên quan đến cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine.
Lần thứ nhứt 1 tháng ba 2022, nghị quyết Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lên án cuộc xâm lược của Nga đối với Ukraine, trong buổi họp khẩn cấp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc lần thứ 11. Lần thứ hai, ngày 24 tháng ba, nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về việc yêu cầu bảo vệ thường dân trong cuộc chiến. Lần thứ ba ngày 12 tháng mười năm 2022, nghị quyết Liên Hiệp Quốc kêu gọi thế giới lên án chống việc Nga sáp nhập bốn vùng lãnh thổ của Ukraine vào lãnh thổ Nga.
Đó là chưa kể đến lần Việt Nam bỏ phiếu chống lại đề nghị trục xuất Nga ra khỏi Hội đồng nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 7 tháng tư.
Việt Nam không lên án Nga xâm lược Ukraine. Việt Nam không yêu cầu Nga tôn trọng sinh mạng của người dân trong chiến tranh. Việt Nam không chống Nga sáp nhập lãnh thổ Ukraine vào lãnh thổ nước Nga.
Đồng tiền có hai mặt : mặt phải và mặt trái. Việt Nam không chọn mặt nào nhưng thực ra Việt Nam đã chọn bên: Việt Nam chọn đứng bên ngoài cộng đồng các quốc gia văn minh.
Ta có thể giải thích ra sao về quyết định “đứng ngoài cộng đồng văn minh” của Việt Nam trong cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine?
Để ý sự lựa chọn của Trung Quốc.
Như Việt Nam, Trung Quốc cũng ba lần bỏ phiếu trắng, không chống cũng không ủng hộ Putin. Trung Quốc nói là họ “đứng bên lẽ phải của lịch sử trong cuộc khủng hoảng Ukraine”.
“Lẻ phải của lịch sử” đó là trong cuộc chiến này chỉ Trung Quốc là phía có lợi.
Nga thắng, có nghĩa là Mỹ “bỏ” Ukraine. Trung Quốc có lợi về địa chiến lược. Các quốc gia ASEAN và Đông Á, nhứt là Đài loan, sẽ không còn “niềm tin chiến lược” đối với Mỹ nữa. Trung Quốc sẽ làm vua một cõi ở khu vực Ấn độ-Thái bình dương.
Nga thua, Trung Quốc càng có lợi vì Trung Quốc có thể áp đặt ý chí của mình, về các vấn đề lãnh thổ, năng lượng, chuyển giao công nghệ… đối với Nga.
Trung Quốc còn có lý do khác để bỏ phiếu trắng.
Putin và Tập Cận Bình nhiều lần khẳng định hai bên Nga-Trung là một “liên minh không giới hạn lãnh vực”.
Trước chiến tranh quốc hội Nga ra luật về “hoạt động quân sự” bên ngoài lãnh thổ mà không tuyên bố chiến tranh. Luật này cho phép Putin xâm lược Ukraine dưới danh nghĩa “chiến dịch quân sự đặc biệt”.
Tháng 6 năm 2022 Trung Quốc công bố “đề cương hoạt động quân sự phi chiến tranh”. Trung Quốc rập khuôn Nga, công bố đề cương “hoạt động quân sự phi chiến tranh” ở ngoài lãnh thổ để làm gì?
Ta có thể liên tưởng Trung Quốc đang chuẩn bị mở những cuộc chiến, với danh nghĩa tương tự “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Putin, tại Đài loan, Điếu ngư và Biển Đông.
Trung Quốc bỏ phiếu trắng, không chống Nga, vì Trung Quốc có thể sẽ làm những thứ mà Nga đã làm.
Nhưng đối với Việt Nam, hành vi lựa chọn đứng ngoài cộng đồng văn minh nhân loại của Việt Nam, sẽ đem lại lợi lộc gì cho quốc gia, dân tộc?
Thái độ bỏ phiếu trắng của Việt Nam có nghĩa là Việt Nam không có ý kiến, thứ nhứt, ở vấn đề “dân tộc tự quyết” ở hai vùng Donetsk và Luhansk của Ukraine.
Thứ hai, Việt Nam không ý kiến về hành vi một quốc gia (Nga) sử dụng vũ lực xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền (Ukraine).
Thứ ba, Việt Nam không có ý kiến về việc một quốc gia (Nga) sáp nhập một vùng lãnh thổ (Crimée, Donetsk, Luhansk…) của một quốc gia độc lập có chủ quyền (là Ukraine).
Nhắc lại vài chi tiết lịch sử. Đất nước Việt Nam chỉ mới thống nhứt từ 1975 đến nay. Từ 1954 đến 1975 ta có hai nước Việt Nam: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa. Từ 1874 đến 1954, Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Hiệp ước Thiên tân 1885 Thanh triều “giao” Việt Nam cho Pháp. Tức Việt Nam đã từng là “thuộc quốc” của Trung Hoa. Điều cần nhấn mạnh Nam kỳ là nhượng địa vĩnh viễn cho Pháp. Xa hơn nữa, nhưng chỉ vài trăm năm, ta cũng có hai nước Việt Nam thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Miền trung trước đó là nước Chiêm Thành. Đất miền Nam thuộc Chân lạp. Lãnh thổ Việt Nam chỉ quanh quẩn ở châu thổ sông Hồng.
Việt Nam im lặng khi Nga ủng hộ nền độc lập của hai cộng hòa ly khai Donetsk và Luhansk. Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực “quyền dân tộc tự quyết” cao hơn nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ” trong nội bộ của một quốc gia độc lập có chủ quyền (có nghĩa là biên giới bất khả xâm phạm và lãnh thổ bất khả phân chia). Trong khi luật pháp và tập quán quốc tế “im lặng” (không phân biệt cao thấp) về hai quyền này.
Việt Nam có thể bị hệ quả “gậy ông đập lưng ông”.
Hiệp định Paris 1973 điều 1 qui định nước Việt Nam độc lập có chủ quyền và thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam. Nhưng điều 9 lại qui định “dân tộc miền Nam giữ quyền dân tộc tự quyết”.
Quyền dân tộc tự quyết của một dân tộc không bị mất theo thời gian. Dân tộc đó còn hiện hữu thì quyền đó còn gắn liền với dân tộc đó. Dân miền Nam, một ngày nào đó, có thể vịn quyền “dân tộc tự quyết” để đòi độc lập, với lãnh thổ từ nam vĩ tuyến 17.
Dân “Nam kỳ” (thuộc Pháp cũ, tức miệt lục tỉnh), cũng có thể nại “quyền dân tộc tự quyết” để ly khai. Nam kỳ đã từng có tên là Nam kỳ quốc, có quốc ca, quốc kỳ… riêng biệt.
Việt Nam im lặng về hành vi một quốc gia sử dụng vũ lực xâm lược một quốc gia độc lập có chủ quyền. Việt Nam im lặng trước việc Putin nại cớ bảo vệ hai cộng hòa độc lập Luhansk và Donetsk để xua quân vào đáng Ukraine.
Một cường quốc nào đó, thí dụ Nam Mông cổ (?) hay Đông Thái bình dương (?), vì quyền lợi địa chính trị có thể nại cớ bảo vệ “cộng hòa ly khai” ở miền Nam để đem quân vào Việt Nam. Điều này nếu xảy ra, các đại cường (Mỹ, Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp….), những quốc gia “bảo kê” Hiệp định Paris 1973, có thể sẽ đứng về phía Cộng hòa Miền Nam. Ngay cả Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng vậy. Hồ sơ Hiệp định Paris 1973 vẫn còn lưu trữ tại cơ quan quốc tế này.
Ngay cả khi Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo Trường Sa của Việt Nam để để “thống nhứt đất nước”, Việt Nam cũng khó có thể mở miệng yêu cầu giúp đỡ từ Liên Hiệp Quốc hay từ các đại cường. Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 Việt Nam nhìn nhận (mặc nhiên) chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa và Trường Sa. Chuyện “Tứ sa” vì vậy trở thành chuyện “nội bộ” của Trung Quốc.
Các dân tộc Tây nguyên, Tây Bắc… đều có thể ly khai, đòi độc lập, như dân Crimée, Luhansk, Donetsk… một khi Việt Nam suy yếu.
Rõ ràng hành vi bỏ phiếu trắng của Cộng sản Việt Nam không hề đem lại lợi ích nào cho Việt Nam. Ngược lại, đảng Cộng sản Việt Nam tạo những tiền lệ nguy hiểm không chỉ cho an ninh quốc gia mà còn đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ.
Tại sao Việt Nam lại có lựa chọn “nguy hiểm” như vậy?
Thứ nhứt, câu trả có thể rất đơn giản, là Việt Nam, một cách có ý thức, chỉ làm theo Trung Quốc. Trung Quốc làm cái gì, Việt Nam làm cái nấy. Thời ông Hồ đã vậy, bây giờ càng hơn vậy, nhứt là sau khi Việt Nam “cầu hòa” với tư thế thất bại trước Trung Quốc năm 1991.
Thời ông Trọng sự lệ thuộc càng thêm lộ liễu.
Thực tế cho thấy Việt Nam đã mất độc lập về ngoại giao, ở bất cứ sự kiện quốc tế nào có liên quan đến Trung Quốc. Cộng Sản Việt Nam biện hộ việc này bằng cách nại ra “sách lược ngoại giao cây tre”.
Nói tới cây tre ta liên tưởng đến tính mềm dẻo, chịu đựng được giông bão mà không gãy đổ như cổ thụ.
Công việc “ngoại giao” trong một “quốc gia bình thường” là những công việc chỉ có mục đích bảo vệ uy tín cũng như quyền và lợi ích của quốc gia trước trường quốc tế. Tức là mọi sách lược ngoại giao của một quốc gia đều xuất phát từ lợi ích của quốc gia dân tộc.
Như trên đã viết, Việt Nam bị đe dọa an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ khi ba lần (theo Trung Quốc) bỏ phiếu trắng.
Sách lược quốc phòng “bốn không” của Việt Nam càng cho ta thấy Việt Nam đã mất độc lập về Trung Quốc như thế nào.
Nội dung chính sách quốc phòng bốn không của Việt Nam: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Nội dung 4 không về quốc phòng ta thấy Cộng Sản Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền về quốc phòng của Việt Nam.
Gia nhập liên minh quân sự để tự vệ là quyền chính đáng của mọi quốc gia. Quyền tự vệ (đơn phương hay đa phương) là chủ quyền của quốc gia và quyền này được ghi trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Một quốc gia cho phép một quốc gia đồng minh đặt căn cứ quân sự trên đất nước mình, với mục tiêu phòng thủ, là một lựa chọn chiến lược của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Nam Hàn, Nhật, Ý, Đức và nhiều quốc gia khác cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự trên đất nước của họ, vì lý do bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của các đại cường khác.
Trên thế giới này chỉ có các quốc gia trung lập như Thụy sĩ, Phần Lan, Áo… mới có chủ trương không liên minh quân sự và cũng không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của nước mình. Ngoài ra có Nhật, bị hạn chế quốc phòng (ở nhiều mặt như không được lập bộ quốc phòng, không được tham gia chiến tranh ở nước ngoài, ngân sách quốc phòng không quá 1% GDP …) vì Nhật là quốc gia bại trận, quốc phòng bị hạn chế do áp đặt của Mỹ và các quốc gia thắng trận (Thế chiến II). Nhưng Nhật vẫn giữ quyền liên minh quân sự với các quốc gia đồng minh khác. Bởi vì đó là một quyền chính đáng của một quốc gia độc lập.
Không tuyên bố “trung lập” vậy tại sao Việt Nam từ bỏ chủ quyền về quốc phòng?
Tuyên bố trung lập, kiểu Phần Lan, Việt Nam có quyền nâng cao quan hệ của Mỹ (Anh, Pháp v.v..) lên hàng “đối tác chiến lược toàn diện” để quân bình với Trung Quốc và Nga.
Câu trả lời, Việt Nam làm vậy vì Trung Quốc có lợi.
Thứ hai, theo ý kiến nhiều học giả quốc tế, Việt Nam bỏ phiếu trắng vì Việt Nam có truyền thống theo Nga. Chiến tranh 54-75 nhờ các viện trợ của Liên Xô (nay là Nga) và Trung Quốc mà quân miền Bắc thắng Mỹ và quân miền Nam.
Nếu đúng vậy thì Cộng Sản Việt Nam vì “ơn nghĩa” với Nga mà bỏ phiếu như vậy.
Vấn đề là đối với nhân dân Việt Nam thì chưa chắc. Dân Việt Nam Cộng Hòa cũ càng không mấy ai “mang ơn” Nga và Trung Quốc.
Lý do khác, Việt Nam lệ thuộc vào nguồn vũ khí của Nga. Bắt buộc Việt Nam phải ủng hộ Nga để có sự liên tục trong nguồn cung cấp khí tài. Vấn đề là Nga cũng là nguồn cung cấp vũ khí cho Trung Quốc. Ngoài ra Nga và Trung Quốc có chung đối thủ là Mỹ. Tức là Trung Quốc và Nga chia sẻ một quan ngại về chiến lược.
Một sự xung đột nếu có xảy ra giữa Trung Quốc và Việt Nam, xác suất rất nhỏ để Nga ủng hộ VN.
Suy nghĩ cách nào thì việc “chọn bên” của Việt Nam cho thấy là Việt Nam chọn phe “thất bại”. Việc này chỉ đem lại thiệt hại cho quyền và lợi ích của quốc gia và dân tộc.
Vấn đề là Việt Nam đã từng đứng về phe “thất bại”.
Cuộc xâm lược Ukraine của Nga hiên nay cho ta thấy viễn ảnh một “cuộc chiến tranh lạnh” mới sắp thành hình. Ngay cả khi Nga rút quân, không có gì cho thấy các biện pháp “trừng phạt” của Mỹ và EU lên Nga sẽ được giỡ bỏ. Cũng không có gì ngăn cản ta nghĩ đến việc Mỹ và đồng minh Tây Âu, cùng các quốc gia dân chủ tự do Đông Á… sẽ đặt một “bức màn sắt” mới, bao vây cả Trung Quốc, Nga và các xứ độc tài.
Cuộc “cách mạng dân chủ” kỳ này do Mỹ cầm đầu, được các quốc gia dân chủ tự do ủng hộ. Sẽ không có trận “sống mái” nào giữa bên dân chủ với bên độc tài. Huyết mạch kinh tế bị tắc nghẽn khiến Nga (và Trung Quốc) kiệt quệ và “quốc gia” Nga có nguy cơ “giải thể”.
Việt Nam sẽ ra sao nếu lần nữa đứng về “phe thua cuộc”?
Đứng về phe thua cuộc trong chiến tranh lạnh Việt Nam mất thời gian là 50 năm, đất nước trở thành bãi chiến trường với khoảng 4 triệu dân Việt Nam chết thảm. Đất nước bị bom đạn tàn phá. Lòng người dân sau ½ thế kỷ vẫn còn bất an.
Trung Quốc sớm thức thời, từ 1979 đã bắt tay với Mỹ, nhờ vào tư bản và khoa học kỹ thuật của Mỹ để phát triển đất nước. Việt Nam đến bây giờ vẫn còn quan niệm xem Mỹ là “kẻ thù chiến lược” và thành phần người Việt di tản ra nước ngoài năm 1975 là “kẻ thù tiềm tàng”.
Việt Nam không hề có cái gọi là “ngoại giao cây tre” mà chỉ có “ngoại giao tầm gởi”.
Tiếp tục chính sách ngoại giao tầm gởi, nếu lần nữa nếu đứng về phe thất bại, quốc gia Việt Nam có nguy cơ phân hủy (thành nhiều nước). Việt Nam cần phải có một sách lược đối ngoại khôn ngoan, có bên tả, bên hữu, bên trung dung để bảo vệ đất nước hữu hiệu và việc phát triển được bền vững.
Bài học từ nước láng giềng Thái Lan, thời Thế chiến thứ II. Nước này ký hiệp ước liên minh với Nhật từ năm 1934, đứng trong khối Đại Đông Á. Đến các năm 1943, 1944… nhận thấy Nhật sẽ thua trong chiến tranh, vị thủ tướng thân Nhật từ chức để một thủ tướng thân Mỹ lên nắm chính phủ. Rốt cục trong Thế chiến thứ II Thái Lan đứng về “phe chiến thắng”. Ngay cả nước Ý, vốn là đồng minh với Nhật trong phe Trục (Đức-Nhật-Ý), những ngày cuối chiến tranh cũng “tuyên bố chiến tranh” với Nhật để được đứng về phe “chiến thắng”. Họ làm vậy vì không muốn bị “xử” như Nhật và Đức. Hai nước Đức và Nhật phải bồi thường chiến tranh và lãnh thổ bị mất cho các quốc gia khác. Chủ quyền hai quốc gia này cũng bị hạn chế do sự áp đặt của phe chiến thắng.
Ông Trọng nhiều lần nói rằng mục tiêu duy nhứt của đảng là phụng sự cho lợi ích của đất nước và dân tộc. Nếu thật sự ông Trọng có niềm tin như vậy thì ông Trọng phải phế bỏ chính sách “ngoại giao cây tre” mà thực chất là ngoại giao tầm gởi, chỉ có hại cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Thay vào đó một cuộc cải tổ chính trị vĩ đại và toàn diện. Áp dụng thể chế chính trị tự do dân chủ, đa nguyên, đa đảng. Từ đó môi trường chính trị của Việt Nam mới có đủ các thành phần tả, hữu, trung dung. Có như vậy Việt Nam mới có thể “trở tay” kịp thời, và đúng lúc, để “đứng về phe chiến thắng”.
3/ Đài loan và Biển Đông: chuyện nội bộ của Trung Quốc?
Đối với Việt Nam, Đài Loan và chuyện tranh chấp Biển Đông là hai chuyện riêng biệt.
Từ lâu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhìn nhận chính quyền Cộng sản Trung Quốc ở Bắc Kinh là pháp nhân đại diện chính thức cho Cộng hòa nhân dân Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc và Đài Loan là một lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc. Sau năm 1975 Việt Nam thống nhứt đất nước. Quốc gia Việt Nam thống nhứt hai miền tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam “nối tiếp” di sản Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tiếp tục nhìn nhận chính phủ Bắc Kinh là đại diện chính thức nước Trung Hoa.
Trên phương diện quốc tế, Liên Hiệp Quốc cũng như các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, đại đa số công nhận chính quyền Bắc Kinh đại diện cho quốc gia Trung Hoa tại Liên Hiệp Quốc. Hai bờ eo biển Formosa, Đài Loan cũng như lục địa, tất cả đều thuộc về một nước Trung hoa đó.
Vấn đề Đài Loan vì vậy có nhiều cái nhìn: 1/ Đài Loan là chuyện nội bộ của người Hoa sống ở hai bờ eo biển (quan điểm của Mỹ). 2/ Đài Loan là chuyện của dân Đài Loan (quan điểm của đảng Dân tiến). 3/ Đài Loan và lục địa cùng thuộc về một quốc gia Trung Hoa duy nhứt (quan điểm của Quốc dân đảng). 4/ Đài Loan là chuyện nội bộ của Trung Quốc (quan điểm của Bắc Kinh).
Vấn đề Biển Đông, bao gồm các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các tranh chấp phát sinh do chồng lấn hải phận kinh tế độc quyền giữa các quốc gia.
Khu vực Hoàng Sa tranh chấp “tay đôi”, giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nếu quan niệm Đài Loan là một thực thể chính trị riêng biệt, ta có tranh chấp “tay ba”. Khu vực Trường Sa tranh chấp liên quan đến 5 nước gồm Trung Quốc, Việt Nam, Phi, Mã Lai và Brunei. Tính thêm Đài Loan tranh chấp Trường Sa trở thành tranh chấp giữa 6 bên.
Mỗi bên nại những lý do khác nhau để chứng minh chủ quyền (các đảo). Mỗi bên lại có những yêu sách đối nghịch, phát sinh do cách giải thích khác nhau về Luật Biển 1982, như về hiệu lực (lãnh hải và vùng kinh tế độc quyền) các đảo và về vùng nước quần đảo.
Tranh chấp Biển Đông vì vậy cực kỳ phức tạp, vừa về lịch sử vừa về pháp lý.
“Cuộc chiến công hàm” xảy ra tại Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, do Văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc quản lý, bắt đầu từ ngày 12 tháng 12 năm 2019, thông qua Hồ sơ Ranh giới thềm lục địa của Mã Lai. Nội dung trao đổi, phản biện gữa các bên “trong cuộc” cho ta thấy lập luận về chủ quyền giữa các bên cũng như yêu sách về hải phận của các quốc gia này. Đặc biệt các quốc gia “ngoài khu vực” như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Úc…, vì lợi ích của họ về quyền tự do không lưu và hải hành xuyên qua Biển Đông. Các quốc gia cũng thể hiện lập trường của họ về các yêu sách của các bên. Tất cả đều ủng hộ phán quyết Tòa PCA ngày 12-6-2019 đồng thời phản đối các yêu sách quá đáng của Trung Quốc về quyền lịch sử (thể hiện qua bản đồ chữ U) cũng như về hiệu lực các đảo và vùng nước nội thủy của quần đảo…
Về chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia không có ý kiến, tức không ủng hộ Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của nước nào.
Bài viết này chỉ nói về trường hợp Việt Nam.
Ta sẽ thấy rằng Trung Quốc tìm mọi cách để “ép” Việt Nam và thuyết phục dư luận quốc tế rằng hai vấn đề Đài Loan và chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa là chuyện “nội bộ” của Trung Quốc.
Việt Nam đã thua trong “cuộc chiến công hàm”.
Công hàm của Trung Quốc gởi Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc ngày 17 tháng tư năm 2020 đặc biệt nhắm về Việt Nam. Với những lý lẽ cứng rắn “Trung Quốc kiên quyết đòi Việt Nam phải rút mọi lực lượng và phương tiện khỏi các đảo và đá mà nước này đã xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp”.
Đến ngày 21 tháng tư 2020 phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng mạnh mẽ hơn, gần như là đe dọa Việt Nam: “Trung Quốc sẽ thực thi mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ vững chắc chủ quyền, các quyền và lợi ích của mình ở Trung Hoa Nam Hải”.
Một cách thẳng thừng, Trung Quốc đe dọa sử dụng vũ lực với Việt Nam để lấy lại các đảo Trung Quốc (hiện do Việt Nam chiếm giữ).
Nội dung Công hàm 17 tháng tư 2020 của Trung Quốc:
“Chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi. Chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận nó một cách rõ rệt. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc ban hành Tuyên bố về lãnh hải rộng mười hai hải lý, qui định (về lãnh hải) này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm quần đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa cũng như tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc. Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm ngoại giao (note diplomatique) tới thủ tướng Chu Ân Lai, tuyên bố long trọng rằng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung quốc về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được đưa ra vào ngày 4 tháng 9 năm 1958 và rằng chính phủ của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tôn trọng quyết định này. Trong những năm đầu của thập niên 1970, Việt Nam đã chính thức công nhận rằng Hoàng Sa và Trường Sa luôn là một phần của lãnh thổ Trung quốc kể từ thời cổ đại. Sự việc này đã được ghi lại trong các tuyên bố và các văn kiện của chính phủ, cũng như ở các bản đồ, sách giáo khoa và báo chí chính thức của Việt Nam.
Sau năm 1975, Việt Nam đã vi phạm “estoppel” (nguyên tắc không được nói ngược) và đưa ra yêu sách lãnh thổ bất hợp pháp đối với hai quần đảo Tây sa và Nam sa của Trung Quốc. Việt Nam vi phạm mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đã đưa quân xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo và rạn san hô của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa bằng vũ lực. Việt Nam cố ý kích động tranh chấp. Trung Quốc luôn phản đối sự xâm chiếm và chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam tại một số đảo và rạn san hô của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa cũng như các hoạt động xâm phạm quyền và lợi ích của Trung Quốc trong phạm vi tài phán của Trung Quốc. Trung Quốc kiên quyết yêu cầu Việt Nam rút toàn bộ nhân sự và các cơ sở ra khỏi các đảo và rạn san hô mà họ đã xâm chiếm và chiếm đóng bất hợp pháp.”
Sau khi Trung Quốc gởi công hàm này (lên Liên Hiệp Quốc) cũng như Bộ Ngoại giao Trung Quốc bắn lời đe dọa sử dụng “mọi phương tiện” để lấy lại các đảo Trường Sa thì phía Việt Nam “tuyệt đối im lặng”.
Việt Nam không có bất kỳ một ý kiến nào về công hàm 17-4-2020 của Trung Quốc.
Trung Quốc tố cáo Việt Nam bị “estoppel”, tức Việt Nam không thể “nói ngược” lại với những gì mà Việt Nam đã “nhìn nhận” với Trung Quốc trong quá khứ. Trung Quốc đã công bố một tập tài liệu cho thấy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa, qua các văn kiện pháp lý cũng như qua các bài báo Nhân Dân, các bản đồ, các sách giáo khoa… do Việt Nam ấn hành.
Trung Quốc tố cáo Việt Nam “vi phạm mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc”.
Trung Quốc tố cáo Việt Nam “đưa quân xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo và rạn san hô của Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa bằng vũ lực”.
Trung Quốc tố cáo “Việt Nam cố ý kích động tranh chấp”.
Sự im lặng này cho thấy Việt Nam đã thua Trung Quốc. Sự im lặng của phía Việt Nam còn có nghĩa là những gì phía Trung Quốc nói trong công hàm là “đúng”.
Bộ Ngoại giao Việt Nam im lặng, đã đành.
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam còn ra Quyết định 1722/QĐ/TTG về “danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật của đảng”.
Quyết định này có hiệu lực, từ ngày 3 tháng 11 năm 2020.
Cái gọi là “danh mục bí mật nhà nước độ tuyệt mật của đảng” gồm có các “quyết định, kết luận, báo cáo, kế hoạch, đề án, phương án, tờ trình, công văn của Trung ương Đảng về chiến lược đối ngoại liên quan đến an ninh quốc gia, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quan hệ đối ngoại của đảng Cộng Sản Việt Nam với các đảng, các nước lớn, các nước láng giềng về vấn đề biên giới lãnh thổ, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa của Việt Nam”.
Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam đã “khóa miệng” tất cả mọi người Việt Nam muốn tìm hiểu, hay muốn nói những vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ cũng như hải phận Biển Đông. Ta có thể kiểm chứng lại trên mặt báo chí: sự im lặng toàn diện của người dân trên các vấn đề thuộc phạm vi an ninh quốc gia, như các vấn đề về biên giới, về chủ quyền lãnh thổ, hải đảo cũng như về hải phận quốc gia… từ ngày Quyết định ban hành cho đến nay.
Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã thành công đưa vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa trở thành việc “nội bộ” của Trung Quốc.
Bằng chứng phía Trung Quốc đưa ra (chứng minh Việt Nam phạm estoppel) chỉ đơn giản là cái công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng.
Vấn đề đặt ra, dân số Việt Nam tính chẵn 100 triệu người. Nhân sự Bộ Ngoại giao Việt Nam, nhiều người mới lên tiếng (trên BBC) khen ngợi là tài giỏi. Việt Nam có hàng “tấn” học giả, nhà nghiên cứu về Biển Đông. Không lẽ trong số những người tài ba đó không có ai có được những lý lẽ nhằm “hóa giải hiệu lực công hàm 1958”, nhân danh Việt Nam viết một công hàm phản biện được lập luận của Trung Quốc?
Không phản biện được là do Quyết định “khóa miệng” của Thủ tướng, hay do phía Việt Nam không có lý lẽ phản biện?
Cách nào cũng vậy, sự im lặng của Việt Nam đã đưa vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, vốn là một tranh chấp về lãnh thổ giữa hai quốc gia, tức là một tranh chấp quốc tế, trở thành việc “nội bộ” của Trung Quốc.
Nhưng sự im lặng của Việt Nam chưa chắc sẽ đem lại yên ổn cho Việt Nam.
Nội dung các bài nói chuyện của Tập Cận Bình trong kỳ Đại hội đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ XX tháng 10 vừa qua ta thấy các câu nói mang tính khẩu hiệu như “Việc thống nhứt đất nước là sứ mạng của đảng Cộng Sản Trung Quốc”, “không để việc thống nhứt đất nước cho các thế hệ tương lai”… Tập Cận Bình cũng có những tuyên bố đại khái rằng sẽ không loại trừ việc sử dụng quốc phòng để thực hiện việc này.
Ngoài ra tháng 6 năm 2022 Trung Quốc công bố “đề cương hoạt động quân sự phi chiến tranh”. Báo chí nước ngoài bình luận về một hành lang pháp lý mới, khá đặc biệt. Nhiều ý kiến so sánh việc này với động thái tương tự của Duma Nga trước khi mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” ở Ukraine.
Tức là Trung Quốc sẽ ra một bộ luật cho phép quân đội sử dụng vũ lực mà không phải tuyên bố chiến tranh, tương tự như “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga.
Điều cần bàn là “đề cương” này có hiệu lực vào lúc nào và Trung Quốc sẽ áp dụng ở không gian nào?
Ngoài chuyện Hoàng Sa và Trường Sa (đối với Việt Nam xem như xong), Trung Quốc còn có tranh chấp chủ quyền quần đảo Điếu ngư, tức Senkaku, với Nhật.
Điều cần nhắc khác là năm ngoái Trung Quốc cho phép lực lượng hải cảnh (tức cảnh sát biển) nổ súng để “bảo vệ lãnh thổ”.
Trung Quốc còn có “lực lượng dân quân biển” đông đảo. Trung Quốc đã chiếm đá Hoàng nham (Scarborough) kế cận Phi năm 2014 bằng cách cho tàu dân quân biển bao vây. Trận chiến Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974 mở đầu cũng do lực lượng dân quân biển, đội lốt ngư dân, đổ bộ lên chiếm đảo.
Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc qua chuyến đi Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tháng 11 vừa qua, nội dung có đoạn cho thấy việc giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc từ nay sẽ do cảnh sát biển Trung Quốc phụ trách.
Tức là, trên phương diện pháp lý, Trung Quốc nắm giữ quyền chủ quyền về phân xử (quyền tài phán). Điều này cho thấy Cộng Sản Việt Nam nhìn nhận chuyện tranh chấp Biển Đông là chuyện “nội bộ” của Trung Quốc.
Hệ quả:
Gần đây Việt Nam rút giấy phép Repsol trên mỏ “Cá rồng đỏ” (lô 136.3), của ExxonMobil trên mỏ “Cá voi xanh”, ngoài khơi cách Đà Nẵng 80 cây số. Đây là những mỏ có tiềm năng. Tin tức ta biết được từ học giả Bill Hayton (trên BBC). Trước đó BP bị “ép” phải bỏ các lô 5.2, 5.3 và ExxonMobil bỏ 2 lô 135 và 136.
Sư kiện khác, báo chí ngày 11 tháng 12 vừa qua có bài viết cho thấy Trung Quốc đang tiến hành xây đắp 4 bãi đá thuộc Trường Sa. Ngoài Phi lên tiếng phản đối thì Việt Nam “im lặng như tờ”. Đó là các đá Hoài Ân (thuộc nhóm Thị tứ), đá Ba Đầu (thuộc nhóm Sinh tồn), đá Én đất và đá An Nhơn. Trên danh nghĩa thì ít nhứ hai đá (Hoài Ân và Ba đầu) thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Tầm ăn dâu, chậm mà chắc. Trung Quốc lần hồi sẽ “hợp tác cùng khai thác” với Việt Nam ở các mỏ dầu khí, trên thềm lục địa của Việt Nam nhưng chủ quyền thuộc Trung Quốc. Trung Quốc cũng sẽ thâu hồi tất cả các đảo ở Biển Đông hiện do Việt Nam chiếm đóng.
4/ “Gia tài của mẹ một bọn lai căng”.
Vụ sô nhạc “Mùa thu Hà Nội” của bà Khánh Ly ở Hà nội ngày 24 tháng 9 bị “cúp điện” cho thấy bà bị tuyên giáo Việt Nam trừng phạt, sau khi bà hát bài “Gia tài của mẹ” (không có trong danh mục bài hát được trình diễn) trong buổi trình diễn vào tháng 6 ở Đà Lạt.
Các “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” núp dưới các nick Facebook “chửi” bà Khánh ly vụ “Gia tài của mẹ” không tiếc lời. Báo chí trong nước có bài nói bà Khánh Ly “tráo trở”. Có bài báo vịn vào “luật” cho rằng bà Khánh Ly có thể bị phạt vì hát các bài hát chưa được phép.
Vấn đề là vụ “cúp điện” hội trường trước giờ mở cửa khiến nhà tổ chức phải hủy sô, hiển nhiên không phải là một cử chỉ văn minh của giàn lãnh đạo thủ đô Hà Nội. Nó cũng không phải là “hành vi có giá trị pháp lý”, đến từ một quyết định pháp lý của nhân sự có thẩm quyền.
Theo luật, bà Khánh Ly bị phạt vì hát nhạc cấm. Và theo luật, lãnh đạo thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến phải là phía bồi thường thiệt hại cho người tổ chức sô nhạc Mùa thu Hà Nội (vì hành vi vô văn hóa, phản văn minh).
Tuyên giáo xài “luật rừng” với ca sĩ Khánh Ly.
Luận về công tội trong công cuộc “chống Mỹ cứu nước”. Theo tôi, thay vì tuyên giáo viết báo chửi bậy bà Khánh Ly dưới các bút hiệu nặc danh (và thủ đô Hà Nội nhỏ nhen trả thù vặt), Đảng Cộng Sản Việt Nam nên tạc tượng thờ bà Khánh Ly ở trước lăng Ba Đình, trái tim của thủ đô hòa bình thế giới, dựng song song với tượng Trịnh Công Sơn. Công lao “giải phóng miền Nam, đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của hai nhân vật phản chiến này rất lớn, không hề thua Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp!
Phải nói các bản nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn và giọng hát “cần sa” của bà Khánh Ly đã góp phần giúp cho quân của Cộng Sản miền Bắc giành được chiến thắng.
Một đạo quân đông đảo cách mấy, trang bị vũ khí tối tân tới đâu cũng không ăn thua. Thiếu ý chí, không có tinh thần chiến đấu thì đạo quân đó phải thua. Chớ quân Việt Nam Cộng hòa có tinh thần vệ quốc như quân Ukraine thì sẽ không bao giờ có vụ “debellatio” năm 1975.
Tuyên giáo Cộng Sản Việt Nam bày đặt chống đối khi bà Khánh Ly hát bài hát có những câu: “một ngàn năm đô hộ gặc Tàu, một trăm năm nô lệ giăc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ một bọn lai căng…”.
Tuyên giáo Cộng Sản Việt Nam dị ứng với hai chữ “nội chiến” và “lai căng”.
Nhưng đối với phe Việt Nam Cộng hòa, những lời hát này như những trái đạn bắn phá vào thành trì của họ. Không có con người văn minh, có tình có nghĩa nào lại muốn cảnh “gà nhà bôi mặt đá nhau” suốt 20 năm hết cả.
Về bài “Gia tài của mẹ”, theo tôi, rất phù hợp trở thành bài “quốc ca Việt Nam” thời cộng sản trị hiện nay. Bài sáng tác (nghe nói) năm 1965 mà câu chữ “linh nghiệm” như là “sấm truyền”.
“Gia tài của mẹ một bọn lai căng”.
Lai căng là gì? Đinh nghĩa của Việt Nam “lai căng” là hiện tượng có pha tạp nhiều yếu tố ngoại lai sống sượng, lố lăng. “Lai căn” (không g) là mất gốc.
Cộng Sản Việt Nam rõ ràng là là một “bọn lai căn(g)”. Thờ Marx, thờ Lenin, thờ lý thuyết cộng sản là thờ chủ nghĩa “ngọai lai”, là “mất gốc”.
Mô hình nhà nước Việt Nam rập khuôn mô hình nhà nước Trung Quốc. Ông Trọng bắt chước từ câu chữ, từng ý tưởng của Tập Cận Bình. Đúng là vừa sống sượng vừa lố lăng.
Đảng Cộng Sản Việt Nam còn là là một lũ “bội tình”.
“Gia tài của mẹ một lũ bội tình”. Bội tình, bội nghĩa, bội ước. Kiểm lại lịch sử 70 năm đảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ làm được một điều gì đó phù hợp với truyền thống đạo lý Việt Nam.
Ông Hồ ra lịnh giết bà Cát Hanh Long, kẻ ơn của cá nhân mình và cũng là người ơn của cả đảng Cộng Sản Việt Nam. Không có hàng ngàn lượng vàng của bà thì ông Hồ lấy gì hoạt động? Lấy gì đút miệng bọn tướng Tàu? Không có số vàng này thì toàn bộ lực lượng của ông Hồ (ở bắc vĩ tuyến 16) bị quân Tưởng tiêu diệt. Quyền hành đất nước sẽ lọt vô phe Việt Nam Quốc dân đảng.
Đây là một vụ sát nhân nhưng bản chất là bội tình, bội nghĩa.
Vụ giết chết Lê Đình Kình, đảng Cộng Sản Việt Nam cạn tàu ráo máng với đồng chí. Đó là bội tình. Tình ở đây là “tình đồng chí”.
Đảng viên Cộng Sản, khi chưa nắm quyền họ hứa hẹn “lấy của người giàu đem chia cho người nghèo”.
Thấy gì, sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam “cướp” được chánh quyền?
Đảng viên Cộng Sản cũng hứa hẹn “lấy ruộng địa chủ chia cho nông dân”.
Họ cam kết đánh đuổi giặc ngoại xâm sẽ xây dựng một nước Việt Nam “độc lập, tự do, hạnh phúc”.
Chỉ thấy toàn là bánh vẽ và một phường bội bạc.
Độc lập là dân tộc độc lập. Làm gì có độc lập khi đảng Cộng Sản Việt Nam rập khuôn, từ tư tưởng tới hành vi, của Trung Quốc và lãnh đạo Trung Quốc? Việt Nam hiện thời là chư hầu trung thành của Trung Quốc.
Tự do là dân quyền tự do. Bản nhạc “Gia tài của mẹ” sáng tác cách đây hơn 1/2 thế kỷ, không hề có tư tưởng phản động hay kích động hận thù. Lý lẽ bài ca là “chống chiến tranh” và kể chuyện “lịch sử”. Bài ca bị cấm trình diễn.
Tự do ở đâu?
Toàn bộ các cơ quan truyền thông, ngôn luận đều nằm trong tay đảng. Toàn bộ đại biểu quốc hội là đảng viên, hoặc là phò đảng. Hầu hết chùa chiềng, tăng ni nếu không là “cơ sở kinh tài” thì cũng là cơ quan tuyên truyền đạo Phật theo định hướng của đảng.
Đâu là tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do chính kiến?…
“Hai mươi năm nội chiến từng ngày”. Tuyên giáo Việt Nam còn bắt bẻ câu “hai mươi năm nội chiến từng ngày”.
Tuyên giáo Việt Nam trước khi bắt bẻ người khác về từ “nội chiến” thì phải cho người dân biết “nội chiến” có ý nghĩa là gì?
Theo luật về chiến tranh (của công pháp quốc tế chớ không phải theo chữ nghĩa “lính thủy đánh bộ” của tuyên giáo) thì thuật ngữ “chiến tranh – war” chỉ sử dụng riêng biệt cho “chiến tranh quốc tế”, xảy ra giữa “quốc gia – state” và “quốc gia – state”.
Còn “nội chiến – guerre civile – civil war” thì ý nghĩa khá rộng. “Chiến tranh giải thực”, kiểu chiến tranh “đánh Pháp”, đuổi Mỹ v.v… đều được (công pháp quốc tế) xếp vào mục “nội chiến”.
Trịnh Công Sơn viết bài “Gia tài của mẹ” năm 1965 trong đó có câu “20 năm nội chiến từng ngày”. Viết sai ở chỗ nào mà bắt bẻ?
Trong một cuộc “nội chiến” sự hiện diện của yếu tố “bên ngoài” là chuyện thường tình. Quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt Nam cũng như quân Trung Quốc, cố vấn Liên Xô, quân chí nguyện Triều Tiên… có mặt ở miền Bắc Việt Nam.
Chiếu theo “luật” thì không thể bắt bẻ Trịnh Công Sơn về một ý tưởng, một lập trường chính trị… của ông này đã thể hiện từ 1/2 thế kỷ trước.
“Gia tài của mẹ để lại cho con. Gia tài của mẹ là nước Việt buồn”.
Nước Việt chưa bao giờ buồn như hôm nay.
Rừng đã hết và biển đã chết. Người Việt muốn sống cho ra vẻ con người thì phải bỏ nước ra đi. Số may mắn qua được Mỹ, qua được Anh, Pháp… Số không may phải làm dâu, làm tì, làm lao động ở các xứ mà trước kia thua xa Việt Nam Cộng hòa về mọi mặt.
Bài “Gia tài của mẹ” điển hình là bài “quốc ca” của Việt Nam hôm nay. Bài quốc ca thể hiện đúng mức tình trạng thê thảm của đất nước và dân tộc Việt Nam dưới triều đại nhà Hồ.
Trương Nhân Tuấn