Chính luận Trần Trung Đạo: Chủ nghĩa đa phương, vòng vây Trung Cộng và chọn lựa của Việt Nam
PHẦN I: CHỦ NGHĨA ĐA PHƯƠNG
“CHỦ NGHĨA ĐA PHƯƠNG NẰM TRÊN GIƯỜNG CHỜ CHẾT”
Với tỉ số vượt trội gồm 141 nước kết án Nga và chỉ có 5 nước ủng hộ Nga trong Quyết Nghị Liên Hiệp Quốc ngày 2 tháng 3, 2022 là một kết quả rất ngạc nhiên và người ngạc nhiên nhất không ai khác hơn là Vladimir Putin. (United Nations General Assembly Resolution ES-11/1, adopted on 2 March 2022)
Trước đó, ngày 27 tháng 2, Hội Đồng Bảo An LHQ họp để biểu quyết quyết nghị tố cáo Nga vi phạm Điều 2, phân đoạn 4 của Hiến Chương LHQ vì đã dùng võ lực xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, quốc gia hội viên. Quyết nghị này bị Nga phủ quyết, nhưng ngoài Trung Cộng, Ấn, United Arab Emirates bỏ phiếu trắng, không một quốc gia nào trong số 15 hội viện của Hội Đồng Bảo An ủng hộ Nga. (United Nations Security Council Resolution 2623)
Cộng Hòa Kenya là thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An LHQ. Buổi chiều tối trước giờ biểu quyết, đại sứ Martin Kimani đã đọc một diễn văn để bày tỏ lập trường của quốc gia ông. Dưới đây là vài đoạn trích từ diễn văn hùng hồn, đầy thôi thúc của Đại Sứ Martin Kimani:
“Kenya và hầu hết các quốc gia châu Phi ra đời bởi sự sụp đổ của đế chế. Biên giới của chúng tôi không phải do chúng tôi vẽ mà được vẽ tại các đô thị mẫu quốc thuộc địa xa xôi của London, Paris và Lisbon, không liên quan gì đến các quốc gia thời cổ đại đã bị họ tách rời nhau.” (Kenya, and almost every African country, was birthed by the ending of empire. Our borders were not of our own drawing. They were drawn in the distant colonial metropoles of London, Paris, and Lisbon with no regard for the ancient nations that they cleaved apart.)
“Chúng tôi bác bỏ chủ nghĩa phục hồi lãnh thổ và chủ nghĩa bành trướng trên bất kỳ cơ sở nào, bao gồm các yếu tố chủng tộc, dân tộc, tôn giáo hoặc văn hóa.” (We rejected irredentism and expansionism on any basis, including racial, ethnic, religious or cultural factors.)
“Chúng tôi cũng lên án mạnh mẽ xu hướng trong vài thập niên gần đây của các cường quốc, bao gồm cả các thành viên của Hội Đồng Bảo An, vi phạm luật pháp quốc tế mà không được quan tâm đúng mức.” (We further strongly condemn the trend — in the last few decades — of powerful states, including members of this Security Council, breaching International Law with little regard.)
“Đêm nay, chủ nghĩa đa phương nằm trên giường chờ chết. Ngày nay cũng như trong quá khứ gần đây, chủ nghĩa đa phương đã bị các cường quốc tấn công.” (Multilateralism lies on its deathbed tonight. It has been assaulted, as it has been by other powerful states in the recent past.) (Statement By Amb. Martin Kimani, during The Security Council Urgent, Meeting On The Situation In Ukraine, 21 February 2022).
Lý do người viết trích dẫn khá dài vì diễn văn của Đại sứ Martin Kimani mang một tâm trạng rất Việt Nam, một dân tộc bị thực dân đô hộ suốt chiều dài thế kỷ. Thực dân Pháp rời Việt Nam 1954 và thực dân Anh rời Kenya 1963.
Một người Việt Nam yêu nước nào đọc diễn văn của đại sứ Martin Kimani cũng đều cảm thấy gần gũi, xúc động và cảm thông. Số phận những nước nhược tiểu từng bị thực dân bóc lột ở đâu cũng giống nhau.
Giống như dân tộc Kenya, dân tộc Việt Nam bị đô hộ, bị tàn sát chứ không hề ký vào các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 (nhượng Nam Kỳ cho Pháp), Hòa Ước Giáp Thân (Patenotre) 1884, Hiệp định Geneva 1954 hay Hiệp định Paris 1973. Tất cả đều là tác phẩm của các thực dân và đế quốc để phân chia quyền lợi và quyền lực bằng máu xương người Việt.
Một lý do khác, Đại sứ Martin Kimani nhấn mạnh đến sự quan trọng sống còn của chủ nghĩa đa phương trong quan hệ quốc tế ngày nay.
SỰ QUAN TRỌNG CỦA CHỦ NGHĨA ĐA PHƯƠNG
Diễn văn của đại sứ Martin Kimani cũng cho thấy khuôn mặt mới của thế giới đang định hình và một xu hướng mới đang mở ra cho các quan hệ đối ngoại. Kết quả hai cuộc biểu quyết ở LHQ cũng cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh chủ nghĩa đa phương (multilateralism) để giải quyết các vấn đề chung của các quốc gia trong phạm vi một khu vực hay thế giới.
Chủ nghĩa đa phương (multilateralism) liên kết của các quốc gia qua hình thức của những tổ chức, những trung tâm, những cơ quan quốc tế, những nhóm liên kết của ba nước hay nhiều hơn. Khác với phương thức đơn phương (unilateralism) hay song phương (bilateralism), phương thức đa phương là cơ hội cho các quốc gia nhỏ có tiếng nói, có quyền hạn và trách nhiệm đối với cộng đồng nhân loại. LHQ hay WTO là những tổ chức đa phương. (James Scott, the Editors of Encyclopaedia Britannica on Multilateralism, Politics, Law & Government International Relations)
Đánh giá cao tầm quan trọng của Chủ Nghĩa Đa Phương, Liên Hiệp Quốc chọn ngày 24 tháng 4 mỗi năm như là Ngày Quốc Tế Chủ Nghĩa Đa Phương Và Ngoại Giao Vì Hòa Bình (the International Day of Multilateralism and Diplomacy for Peace”. LHQ định nghĩa “Chủ nghĩa đa phương ngược với chủ nghĩa song phương và chủ nghĩa đơn phương. Nói đúng ra, chủ nghĩa đa phương biểu hiện một hình thức hợp tác giữa ít nhất ba quốc gia.”
Tháng Chín năm nay, 2024, lãnh đạo các quốc gia hội viên LHQ họp nhau tại Hội Nghị Thượng Đỉnh Vì Tương Lai “để tái khẳng định sự cống hiến của họ cho hòa bình, phát triển bền vững và bảo vệ nhân quyền, tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương và ngoại giao là điều quan trọng hơn bao giờ hết.” (The Virtues of Multilateralism and Diplomacy, UN)
TRUNG CỘNG VÀ CHỦ NGHĨA ĐA PHƯƠNG
Trung Cộng, hội viên LHQ, thành viên của Hội Đồng Bảo An, hội viên WTO và ký kết nhiều công ước quốc tế chưa bao giờ thực hiện chủ nghĩa đa phương dựa đúng tinh thần của công pháp quốc tế.
Alexander E. Gale, một nhà phân tích địa lý chính trị Anh bình luận một cách chính xác mưu đồ của Trung Cộng: “Trung Quốc là một cường quốc xét lại, coi các thể chế đa phương hiện có là phương tiện để tăng cường ảnh hưởng. Trung Quốc tìm cách thay đổi các chuẩn mực quản trị toàn cầu để phù hợp hơn với mô hình độc tài lấy Trung Quốc làm trung tâm. Trung Quốc nhìn chung hài lòng với cấu trúc đa phương của hệ thống quốc tế nhưng mong muốn có thẩm quyền lớn hơn để định hình các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với kỳ vọng của Bắc Kinh rằng sự phân bổ quyền lực toàn cầu sẽ ngày càng chuyển dịch từ Mỹ sang Trung Quốc và từ phương Tây sang châu Á”. (China’s Multilateral Influence-Building Strategy: Threats to an Open and Stable International Order. Parliament.UK).
Council on Foreign Relations, một ‘think tank’ uy tín thế giới về chính sách đối ngoại đặt tại New York cho rằng Trung Cộng chỉ áp dụng chủ nghĩa đa phương khi nào có lợi cho chính sách ngắn hay dài hạn của đảng Cộng sản Trung Quốc như việc ủng hộ World Bank, Paris Agreement về khí hậu nhưng tránh né hay chống đối các diễn đàn, các hội nghị quốc tế về nhân quyền. Trung Cộng còn hợp tác với Nga và các nước độc tài để dựng nên các diễn đàn đa phương riêng phù hợp với mục tiêu riêng của họ. (China’s Approach to Global Governance, Council on Foreign Relations)
Với tư cách một cường quốc, Trung Cộng không thể tự cô lập khỏi các diễn đàn đa phương quốc tế, tuy nhiên chiến lược đối ngoại chính trong nhiều năm nay của Trung Cộng vẫn là song phương và trong nhiều trường hợp chỉ là đơn phương.
Đặc biệt đối với các nước nhỏ, sức yếu, thế cô, bị cai trị bởi các chế độ độc tài Trung Cộng dùng tiền để giữ thế mạnh và quyết định kết quả của đàm phán. Ví dụ như trường hợp Trung Cộng trong đàm phán với Brunei. Brunei coi Trung Quốc là một trong những nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất và là một lực lượng quan trọng trong nỗ lực tạo ra một nền kinh tế đa dạng hơn, với trữ lượng dầu thô dự kiến sẽ cạn kiệt hoàn toàn trong vài thập niên tới. (Reuters, China’s Xi offers more investment in South China Sea claimant Brunei, 11 17, 2023)
Với các quốc gia tranh chấp khác cũng sức yếu thế cô nhưng không thể một sớm một chiều chiếm đoạt Trung Cộng dùng phương pháp bao vây và trước hết bao vây Việt Nam.
PHẦN II: TRUNG CỘNG BAO VÂY VÀ CÔ LẬP VIỆT NAM NHƯ THẾ NÀO
Trong phần này, người viết tạm gác qua bên những vấn đề thuộc phạm vi tư tưởng, ý thức hệ để tập trung vào lãnh vực địa lý chính trị (geopolitics).
Bao vây, cô lập để kiểm soát Việt Nam, một vùng độn sinh tử ở phía Nam, là một phần quan trọng trong chiến lược Á Châu Thái Bình Dương trường kỳ của Trung Cộng.
Chiến lược này không chỉ ra đời trong thời kỳ Tập Cận Bình mà có từ thời Mao qua Đặng và nhiều thời kỳ lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc khác. Học bài học chiến tranh Triều Tiên, Mao không muốn lôi kéo Mỹ vào một cuộc đối đầu trực diện lần nữa. Tuy nhiên, Mao đã chuẩn bị việc đưa quân Trung Cộng ồ ạt vào miền Bắc Việt Nam để đánh Mỹ nếu cần. Theo sử gia Qiang Zhai, tác giả của tác phẩm sử học “China and the Vietnam Wars, 1950-1975”, Mao ra lịnh “chuẩn bị đề phòng chiến tranh với Hoa Kỳ. Ông ta đã chuyển các ngành công nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu ở vùng ven biển phía đông Trung Quốc đến vùng núi phía tây nam Trung Quốc. Mao ra lịnh cho dân chúng xây dựng các hầm trú ẩn phòng không trên khắp Trung Quốc.” (Qiang Zhai, China Contributed Substantially to Vietnam War Victory, Wilson Center, January 1, 2001)
Lê Duẩn cũng nghĩ tới việc ít nhất nửa triệu quân Trung Cộng sẽ có mặt tại miền Bắc nếu Mỹ phát động chiến tranh toàn diện. Lê Duẩn nói với Đặng Tiểu Bình tại Bắc Kinh ngày 13 tháng 4, 1966.: “Hiện nay có hơn 100,000 quân Trung Quốc tại Việt Nam, nhưng chúng tôi nghĩ bất cứ khi nào có một biến cố trầm trọng xảy ra, có thể cần tới 500,000. Sự giúp đỡ này là từ một nước hữu nghị. Chúng tôi nghĩ rằng với tư cách một nước xã hội chủ nghĩa anh em, Trung Quốc có thể làm điều đó.” Phiên họp này có sự hiện diện của Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao VNDCCH. Phía Trung Cộng, ngoài họ Đặng, còn có Thủ tướng Chu Ân Lai và Phó Chủ tịch đảng Cộng sản Trung Quốc Khang Sinh. (Digital History, Document 12. Zhou Enlai, Deng Xiaoping, Kang Sheng, Le Duan, Nguyen Duy Trinh, Beijing, 13 April 1966)
Giữ chặt sân sau Việt Nam trong gọng kìm là ưu tiên số một của Trung Cộng, những khẩu hiệu “tinh thần quốc tế vô sản”, “xã hội chủ nghĩa anh em” hay hiện nay như “16 chữ vàng”, “cùng chung vận mệnh” chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền.
Sau cuộc Chiến Tranh Biên Giới với Việt Nam 1979 Đặng Tiểu Bình tiếp tục thúc đẩy bốn hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học công nghệ. Để phù hợp với dòng phát triển của nhân loại trong quan hệ quốc tế, Trung Cộng buộc phải tham gia các thỏa hiệp trong tinh thần của chủ nghĩa đa phương (multilateralism), ngoại trừ đối với Việt Nam. Riêng với Việt Nam, Trung Cộng tiếp tục bao vây, cô lập qua nhiều hình thức.
TRUNG CỘNG CÔ LẬP VIỆT NAM QUA NGÃ ASEAN
Trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, ngày 4 tháng 11 năm 2002 Trung Cộng cùng các nước ASEAN ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Nam Trung Hoa (Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea, viết tắt là DOC). Tuy nhiên đó chỉ là những thỏa thuận tổng quát, chung chung để “khẳng định cam kết đối với mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, năm nguyên tắc tồn tại hòa bình và các nguyên tắc phổ cập khác của pháp luật quốc tế.” (Declaration On The Conduct Of Parties In The South China Sea, ASEAN, May 14, 2012)
Những cam kết đó của Trung Cộng chỉ là đầu môi chót lưỡi. Trong thực tế, Trung Cộng tránh né các hội nghị quốc tế nhằm giải quyết các xung đột, thay vào đó, họ áp dụng chính sách “chia để trị” đối với từng thành viên ASEAN tùy thuộc vào nhiều yếu tố và họ đã chứng tỏ khá thành công.
Ba lý do chính cho việc từ chối tham gia các diễn đàn quốc tế về Biển Đông (1) Trung Cộng không có đủ bằng chứng cụ thể, khoa học và tính thuyết phục để thắng bằng công pháp quốc tế, (2) ASEAN là một tổ chức hợp tác vì quyền lợi riêng của mỗi quốc gia thành viên hơn là vì quyền lợi chung lâu dài mà cả khối cùng hướng tới, (3) trong số 11 quốc gia thuộc ASEAN chỉ có 5 nước gồm Brunei, Nam Dương, Mã Lai, Philippines và Việt Nam trực tiếp liên quan đến tranh chấp chủ quyền Biển Đông và sáu nước còn lại không liên quan trực tiếp.
Mặc dù vẫn có nhiều bất đồng giữa hai nước về chủ quyền trên Biển Đông, hiện nay chỉ còn Việt Nam và Philippines là gần gũi nhau trong việc đối đầu với Trung Cộng. Chín quốc gia hội viên còn lại vì quan hệ kinh tế thương mại với Trung Cộng nên chọn ủng hộ Trung Cộng như trường hợp Campuchia, Lào. Số còn lại hoặc có thái độ đứng ngoài cuộc tranh chấp hoặc tránh phê bình trực tiếp Trung Cộng.
TRUNG CỘNG BAO VÂY VIỆT NAM TỪ HƯỚNG BẮC
Trung Cộng biết chính xác các yếu điểm của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam nên áp dụng hàng loạt các chính sách khi trừng phạt, khi vuốt ve, khi hợp tác, khi thỏa hiệp tùy thuộc vào các chính sách đối ngoại toàn cầu của Trung Cộng trong mỗi thời kỳ. Nhưng dù khác nhau về chiến thuật, mục tiêu chiến lược của Trung Cộng vẫn là bao vây để kiểm soát Việt Nam.
Trong tổng kết này, tạm lấy mốc thời gian từ “chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979” để xem Trung Cộng đã và đang bao vây Việt Nam cụ thể như thế nào.
– Cuộc chiến xâm lược Việt Nam của Đặng Tiểu Bình năm 1979 mang về cho Trung Cộng một thảm bại nhục nhã nhưng đồng thời đó cũng là thời điểm đánh dấu những thay đổi lớn trong sách lược quốc phòng. Họ Đặng đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng bằng cách trẻ trung hóa cấp chỉ huy và nâng cấp kỹ thuật chiến tranh trong quân đội. Hơn một triệu lính và sĩ quan già các cấp bị cho giải ngũ. Yếu tố phẩm chất được nhấn mạnh thay vì số lượng. Mặc dù thua to, họ Đặng không từ bỏ tham vọng bao vây Việt Nam.
– Những năm từ 1980 đến 1983, các trận pháo liên tục bắn vào lãnh thổ Việt Nam và các đụng độ nhỏ tiếp tục diễn ra dọc biên giới Việt-Trung. Theo Miles Maochun Yu, từng là cố vấn chính sách về Trung Quốc của Bộ Ngoại Giao Mỹ: “Chỉ trong năm 1985, Trung Quốc đã bắn một triệu quả đạn vào vùng Vị Xuyên của Việt Nam, sau đó là một loạt trận pháo kích dài ngày khác trong suốt hai năm sau đó, kèm theo các cuộc tấn công của Trung Quốc vào các vị trí của Việt Nam với sự tham gia của ít nhất 15 sư đoàn quân Trung Cộng. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1985 đến 1989, Trung Quốc đã bắn hơn hai triệu quả đạn pháo vào Việt Nam.” Hai triệu quả pháo là một con số lớn khủng khiếp trên một diện tích chật hẹp của miền Bắc Việt Nam. Con số đó chắc không ít hơn so với số lượng pháo Trung Cộng bắn vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ trong đầu thập niên 1950.
– Sau 5 năm đổi mới kỹ thuật chiến tranh, Đặng Tiểu Bình muốn thử nghiệm hiệu quả của chính sách “hiện đại hóa quốc phòng” và lần nữa nơi thử nghiệm chẳng đâu khác hơn là Việt Nam. Ngày 24 tháng 12, 1983, họ Đặng tiếp Norodom Sihanouk, lúc đó đang là chủ tịch của Chính phủ Liên Hiệp Ba Thành Phần gồm Khmer Đỏ, Campuchia Dân Chủ và Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Khmer, tại Bắc Kinh. Trong buổi tiếp xúc này, Norodom Sihanouk yêu cầu Đặng can thiệp bằng quân sự vì phía Cộng sản Việt Nam đang thắng thế trong nhiều mặt trận trên khắp lãnh thổ Cambodia. (Xiaoming Zhang, Deng Xiaoping’s Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, University of North Carolina Press, 2015)
– Đặng Tiểu Bình đồng ý giúp nhưng thay vì mở một cuộc chiến tranh biên giới khác, họ Đặng nhắm hai căn cứ chiến lược Lão Sơn (Laoshan) và Núi Bạc (Zheyinshan). Sau nhiều trận đánh suốt mùa hè 1984, Lão Sơn của Việt Nam đã bị Trung Cộng chiếm ngày 16 tháng 7, 1984. Nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã chết trên đỉnh núi Lão Sơn. Đặng Tiểu Bình xem đây là một chiến thắng lớn. Viên tư lịnh sư đoàn tham dự mặt trận Lão Sơn được đặc cách lên chức Tư lịnh Binh Đoàn 11 của quân đội Trung Cộng. (Charlie Gao, China’s Loss That You Have Never Heard About, The National Interest, August 18, 2021)
– Theo Norodom Sihanouk, Đặng Tiểu Bình đã nói với ông ta rằng “Bắc Kinh sẽ không tiến hành cuộc tấn công thứ hai vì họ muốn cho thế giới thấy rằng họ cam kết tuân thủ Hiến chương Liên Hiệp Quốc và giải quyết xung đột một cách hòa bình. Tuy nhiên, Sihanouk nói thêm, Đặng cho biết Trung Quốc sẽ tiếp tục đụng độ dọc biên giới để gây áp lực buộc Việt Nam rút khỏi Campuchia.” Nguyên văn bản tiếng Anh đăng trên báo The Washington Post, 7 tháng 1, 1987” “Prince Norodom Sihanouk, the Cambodian resistance leader, has quoted Chinese leader Deng Xiaoping as saying Beijing will not launch a second attack because it wants to show the world it is committed to the United Nations Charter and to the peaceful resolution of conflicts. But, Sihanouk added, Deng said China would continue clashes all along the frontier to pressure the Vietnamese to withdraw from Cambodia.” (Vietnamese Stand Guard On Tense Chinese Border, Sporadic Violence Marks 800-Mile Frontier, The Washington Post, January 7, 1987)
TRUNG CỘNG BAO VÂY VIỆT NAM TỪ HƯỚNG ĐÔNG
– Ngày 14 tháng 3, 1988, Trung Cộng chiếm Gạc Ma. Cuộc thảm sát này hiện nay được được nhắc lại trong các báo khá nhiều. Báo Lao Động ngày 13/03/2022 viết: “Ngày 14.3.1988, nhằm ngày 27 tháng giêng âm lịch, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm đảo đá chìm Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong một cuộc chiến không cân sức để bảo vệ đảo đá Gạc Ma, 64 chiến sĩ thuộc lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã kiên cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Nhiều người trong số họ đã nằm lại mãi mãi nơi đáy biển sâu.” Cũng theo báo Lao Động, mãi tới 11 năm sau “những bài báo viết về các anh, các cựu binh Gạc Ma mới bắt đầu xuất hiện rải rác. (Lao Động, Chủ nhật, 13/03/2022). Chiếm Gạc Ma chỉ là đầu cầu cho chiến lược bành trướng Biển Đông của Đặng Tiểu Bình. Vào thập niên 1990, đối tượng cạnh tranh chiến lược của Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo Trung Cộng sau ông ta là Mỹ, Nhật, Đức chứ không còn là Việt Nam.
– Cuối năm 1990, Liên Xô đang trên đà sụp đổ. Sáu trong số mười sáu nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” thuộc Liên Xô đã tuyên bố độc lập, nền kinh tế Liên Xô đang thời kỳ suy thoái, bức tường Bá Linh đã bị đập đổ. Boris Yeltsin từ bỏ đảng Cộng sản và trở thành lãnh đạo của phong trào dân chủ Nga. Cộng sản Việt Nam trở thành con thuyền không bến và chiếc phao duy nhất còn lại là Trung Cộng. Hội nghị Thành Đô trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 đánh dấu cho ngày trở về của đảng Cộng sản Việt Nam dưới ảnh hưởng Trung Cộng. Sau hội nghị Thành Đô, ngày 8 tháng 5 năm 1992 Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone của Mỹ, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam, nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Trung Cộng cũng hứa với công ty Creston sẽ bảo vệ bằng võ lực nếu Việt Nam can thiệp vào công việc của họ.
– Ngày 25 tháng 2, 1992, Trung Cộng thông qua Luật Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp (Law Of The People’s Republic Of China On The Territorial Sea And The Contiguous Zone). Theo luật này, Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc về Trung Cộng. Văn bản này viết: “Lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là vành đai biển tiếp giáp lãnh thổ đất liền và nội thủy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Lãnh thổ trên đất liền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đất liền và các đảo ven biển; Đài Loan và tất cả các đảo bao gồm quần đảo Điếu Ngư; quần đảo Penghu; quần đảo Đông Sa; quần đảo Tây Sa; quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa; cũng như tất cả các đảo khác thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Theo phân tích của Council On Foreign Relations, một trung tâm nghiên cứu lớn tại Mỹ, ý đồ của Trung Cộng không chỉ là kinh tế nhưng chính là quân sự. Trung Cộng muốn khóa Biển Đông khỏi sự hải hành quân sự của Mỹ. (The Law on the Territorial Sea and the Contiguous Zone of the People’s Republic of China, adopted at the 24th meeting of the Standing Committee of the National People’s Congress on 25 February 1992, National legislation – DOALOS/OLA – United Nations)
– Quan trọng nhất là việc Trung Cộng quân sự hóa Biển Đông qua việc xây dựng hàng loạt “đảo nhân tạo” và các căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa từ 2013. Bảy đảo nhân tạo đó gồm: Johnson Reef South (Đá Gạc Ma), Subi Reef (Đá Xu Bi), Gaven Reef (Đá Ga Ven), Hughes Reef (Đá Tư Nghĩa), Fiery Cross Reef (Đá Chữ Thập), Cuarteron Reef (Đá Châu Viên) và Mischief Reef (Đá Vành Khăn). Trong số bảy đảo nhân tạo, ba đảo quan trọng nhất được xây trên các bãi đá Chữ Thập (Fiery Cross), Xu Bi (Subi) và Đá Vành Khăn (Mischief). Ba đảo nhân tạo này được báo chí quốc tế gọi là “Big Three” (Ba đảo nhân tạo lớn). Tại hội nghị Shangri-La 2015 (The IISS Shangri-La Dialogue) với cấp bộ trưởng quốc phòng của 50 quốc gia, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter chính thức yêu cầu Trung Cộng ngưng xây dựng các căn cứ quân sự nổi qua hình thức các đảo nhân tạo. Tuy nhiên, ngoại trừ các biện pháp cứng rắn của các quốc gia trực tiếp trong vòng tranh chấp, không một lời yêu cầu nào hay văn bản nào có thể làm thay đổi tham vọng của Tập Cận Bình. (China Island Tracker, Center for Strategic and International Studies CSIS)
– Ngày 14 tháng 2, 2016, Trung Cộng đặt các giàn hỏa tiễn địa đối không (surface-to-air missiles) và chiến đấu cơ J-11 trên đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tờ The Wall Street Journal trích dẫn nguồn tin quân sự cho biết đây là loại hỏa tiễn HQ-9 dài 6 mét, nặng hai tấn, tầm bắn từ trung bình tới xa. (China Positions Missiles on Disputed South China Sea Island, The Wall Street Journal, Feb. 17, 2016)
– Ngày 18 tháng 5, 2018, các oanh tạc cơ H-6 của Trung Cộng cất cánh từ đảo Phú Lâm và đáp xuống một “đảo nhân tạo” của Trung Cộng trên Biển Đông. Ấn bản điện tử của Nhân Dân Nhật Báo còn đăng cả một video ngắn cho thấy oanh tạc cơ H-6K có tầm bay xa 1900 hải lý hạ cánh xuống một trong những “đảo nhân tạo”. Với loại oanh tạc cơ này, tất cả các thành phố lớn, các quốc gia vùng Đông Nam Á đều nằm trong tầm oanh tạc của H-6K đừng nói chi là Việt Nam chỉ cách Hoàng Sa 121 hải lý. (China lands bomber on South China Sea island for first time, CNBC, May 18, 2018).
– Ngày 18 tháng 4, 2020, Trung Cộng công bố thành lập hai đơn vị hành chánh mới gồm Tây Sa bao gồm Hoàng Sa và Nam Sa bao gồm Trường Sa của Việt Nam. Trụ sở của hai đơn vị hành chánh này đặt tại đảo Phú Lâm, trực thuộc tỉnh Hải Nam của Trung Cộng. Nhiều người nghĩ tình trạng Covid-19 sẽ làm giảm chính sách bành trướng của Tập Cận Bình, nhưng không, họ Tập không những chậm mà còn lợi dụng khó khăn của thế giới để đẩy mạnh hơn tham vọng xâm thực chủ quyền của các nước chung quanh trong đó có Việt Nam.
– Đặc biệt tại Đá Vành Khăn (Mischief). Ngày 22 tháng 3, 2022, sau nhiều lần chối cãi, Trung Cộng cuối cùng thừa nhận họ có quyền võ trang các đảo nhân tạo vì đó là quyền của Trung Cộng để xây dựng “các cơ sở quốc phòng cần thiết trên lãnh thổ của mình là quyền của mọi quốc gia có chủ quyền và phù hợp với luật pháp quốc tế”. Tư lệnh khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc John C. Aquilino cho biết Trung Cộng đã trang bị cho các đảo hệ thống tên lửa chống hạm và phòng không, thiết bị gây nhiễu và ‘laser’ cũng như phi cơ chiến đấu, hành động ngày càng hung hãn đe dọa tất cả các quốc gia gần đó, gần nhất là Việt Nam. (AP, China says military development of islands within its rights, March 22, 2022)
TRUNG CỘNG BAO VÂY VIỆT NAM TỪ HƯỚNG TÂY
– Dùng Campuchia để bao vây sườn Tây Nam của Việt Nam. Ngoài “bẫy nợ”, Trung Cộng còn giúp Campuchia xây dựng căn cứ quân sự Ream Naval Base để bao vây Việt Nam từ biên giới phía Tây Nam. Trung Cộng bác bỏ nhưng các không ảnh cho thấy các cơ sở được xây dựng trước đây do hợp tác với Mỹ từ năm 2010 đã bị phá hủy và các cơ sở mới đang được xây. Theo nhiều nguồn tin, năm 2017 một hiệp ước bí mật giữa Hun Sen và Tập đã được ký kết, qua đó, Trung Cộng có quyền sử dụng căn cứ Ream Naval Base trong ba chục năm. Hun Sen từ chối yêu cầu của Mỹ được vào xem tận mắt. Các chính quyền Mỹ trong thập niên này cố gắng thuyết phục Campuchia duy trì vị trí “độc lập” nhưng đều thất bại. Lý do đơn giản là đi với Mỹ Hun Sen có hại nhiều hơn có lợi. Trung Cộng không chỉ viện trợ kinh tế mà còn giúp duy trì chế độ Hun Sen, một chế độ độc tài do Cộng sản Việt Nam dựng lên và bảo vệ bằng xương máu suốt mười năm đầu. (Deal for Naval Outpost in Cambodia Furthers China’s Quest for Military Network, Wall Street Journal, July 22, 2019)
– Kể từ khi Thỏa hiệp Mậu dịch Công bằng Trung Quốc-ASEAN (The China-ASEAN Fair Trade Agreement) được ký kết năm 2010, các công ty Trung Cộng đổ tiền như nước vào ASEAN và hiện nay là thành viên thương mại lớn nhất trong vùng. Năm 2023, mậu dịch giữa Trung Cộng và ASEAN lên đến 468.8 tỷ dollar. Kết quả, các quốc gia như Thái, Miến, Brunei, Nam Dương, Singapore đã nghiêng về phía Trung Cộng.
– Ngăn chặn mọi khả năng liên kết giữa Việt Nam – Lào – Campuchia. Qua hình thức “bẫy nợ”, Trung Cộng siết vòng vây Lào và Campuchia quanh Việt Nam. Lào và Campuchia là hai nước có truyền thống gắn bó nhưng hiện nay cả hai nước đều công nhận chủ quyền Biển Đông thuộc về Trung Cộng. Lý do, Campuchia, nợ 4.5 tỷ dollar, Lào nợ 5.3 tỷ dollar là hai trong số 20 nước hàng đầu trên thế giới đang bị dính trong “bẫy nợ” của Trung Cộng. Khác với các hình thức cho vay có tính cách viện trợ (aid-Financed) của ngân hàng quốc tế hay các nước giàu có dành cho các nước nghèo để phát triển kinh tế, chiến lược “Bẩy nợ” của Trung Cộng gắn liền với chính sách cho vay với lãi suất cao (debt-financed). (Marcus Lu, The Top 20 Countries in Debt to China, Visual Capitalist, April 29, 2024)
– Mới đây, Campuchia đột ngột rút khỏi Tam giác Phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam (Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area). Một đề án quốc tế có lịch sử 25 năm với nhiều tỷ dollar đầu tư bị gián đoạn mà không cần một phiên họp, một buổi thảo luận hay tham khảo gì của ba bên. Không phải chỉ Việt-Campuchia-Lào có sự hợp tác kinh tế theo dạng tam giác mà nhiều quốc gia có cùng biên giới cũng hợp tác tương tư như tam giác SIJORI giữa Nam Dương-Mã Lai- Singapore hay tam giác TIA-GT giữa Timor Leste–Nam Dương–Australia v.v… Hun Sen cho rằng “tam giác” đã hoàn thành nhiệm vụ và cũng đổ thừa một phần cho quyết định rút nhằm tránh các thành phần chống Việt Nam lợi dụng để tuyên truyền. Người mà Hun Sen ám chỉ là Sam Rainsy, cựu lãnh tụ đảng đối lập Cứu Nguy Dân Tộc Cambodia (CNRP). Sam Rainsy vẫn còn hoạt động chống lại Hun Sen nhưng không còn hiệu quả như hai chục năm trước. Trước đây, dù ủng hộ Trung Cộng một cách nhiệt tình, Sam Rainsy đã bị Trung Cộng bỏ rơi sau khi chiêu dụ được Hun Sen. Sau khi bị Trung Cộng bỏ rơi, Sam Rainsy quay sang tố cáo Trung Cộng âm mưu quân sự hóa vùng biển Campuchia. Việc rút lui “không kèn không trống” rõ ràng cho thấy có một lực tác động khác chứ không đơn giản là “hoàn thành nhiệm vụ” và việc chống đối cũng không phải mới đây. Hiện chưa có bằng chứng cụ thể nào cho thấy sự can thiệp của Trung Cộng nhưng một ngày nếu có cũng không làm ai ngạc nhiên. Trung Cộng không muốn thấy tinh thần “ba nước Đông Dương Việt Miên Lào” sống lại dưới bất cứ hình thức nào và sự tan vỡ của “tam giác” sẽ là cơ hội tốt để Trung Cộng thế chân.
Trên đây chỉ là vài sự kiện chính được các viện nghiên cứu, các hãng tin, các báo chí quốc tế ghi lại.
Sáng hôm qua, 2 tháng 10, 2024, các ngư dân Quảng Ngãi đã bị các tàu Trung Cộng đuổi bắt đánh đập một cách tàn nhẫn và cướp đoạt hết ngư cụ, máy móc. Giống như những cái chết oan ức của 9 ngư dân Thanh Hóa trước đây, sự chịu đựng của ngư dân Việt Nam các tỉnh ven biển trong suốt 47 năm qua không sách vở nào ghi hết như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Trần Trung Đạo