Bùi Minh Quốc: Chùm thơ viết về Thơ & các nhà thơ
Lời giới thiệu: Diễn Đàn Thế Kỳ vừa nhận được một chùm thơ viết về Thơ & các nhà thơ của thi sĩ Bùi Minh Quốc, do thi sĩ, dịch giả Hoàng Hưng tuyển chọn từ tập MẸ VIỆT NAM, NXB Hội Nhà Văn, 2024. Chân thành cảm ơn hai anh và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
DĐTK.
*****
THƠ GỬI TRẦN MẠNH HẢO
Thôi mặc những mưu đồ gian trá ấy
Dòng chảy nhân dân huyết thống giống nòi
Lịch sử ạ, cái gì ra cái nấy
Thời gian rồi sàng sảy lại cho coi
TRẦN MẠNH HẢO
(Bài thơ thứ hai gửi chắt của con mình)*
Không
Không
Không
Không thể mặc những mưu đồ gian trá ấy
Máu Nhân Dân đâu phải nước xuôi dòng
Đến người chết cũng đội mồ đứng dậy
Khi trên đời còn một mảy bất công
Hỡi thi sĩ của lòng dân
Đâu ngọn lửa trái tim anh,
đâu những vần thơ thép
Hãy đâm toạc những áo mão thánh thần
cho lộ mặt quỷ ma
Rọi kính chiếu yêu
lên những vũng sáng lòa nhơ nhớp
Lật tẩy những con bài lem lém lưỡi triết gia
Ai
Ai
Ai
Ai sẽ đưa đất nước qua mọi đầm lầy phản bội
Nếu ai cũng ngồi chửi đổng than van
Giương mắt giấy trước bao trò tinh ranh hôi thối
Chờ thời gian sàng sảy mọi ngay gian?
Không
Không
Không
Không đợi đến chắt của con ta,
đến cháu con của cháu
Này kia các con ta đang trừng mắt kiếm tìm
Trong chính bản thân ta
những thế hệ xoi đường qua lửa máu
Còn chút nào năng lượng của con tim?
Đà Lạt 15.05.1989
* Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 14.05.1989
***
THÔI TA CHẲNG THÈM…
Kính tặng anh Hoàng Cầm
Thôi ta chẳng thèm tìm lá diêu bông
Cái lá vu vơ cái lá phiêu bồng
Một thời ngu ngơ một thời trả giá
Cái lá phiêu bồng cái lá không không
Ta hái ven đường nụ hoa cứt lợn
Làm thuốc phong trần chữa bệnh nhân gian
Vĩnh biệt nhé lá diêu bông huyễn tưởng
Em cầm che khuôn mặt bẽ bàng.
Đà Lạt 09 tháng 7.1991
***
CẢM TÁC TRONG ĐÊM ĐÀ LẠT
Nhân đọc thơ “Bánh vẽ” của Chế Lan Viên
Mấy thi sĩ thế kỷ này nhồm nhoàm nhai bánh vẽ
Mà thương vay những thế kỷ vắng anh hùng*
Họ thầm biết trên đầu mình có kẻ
Tay vẽ bánh cho người,
mồm nhai thứ thiệt ung dung
Anh ngồi nhấm lai rai, dẫu biết thừa bánh vẽ
Bởi sợ bị đưa ra khỏi bữa tiệc linh đình
Cái bữa tiệc tù mù mà nức lòng đáo để
Chúc tụng tía lia và ăn uống thật tình
Cốt một chỗ ngồi thôi
để có ngày được nhai thứ thiệt
Mà kiên trì nhai bánh vẽ rã quai hàm
Thứ thiệt mãi xa vời, chỉ rất gần là cái chết
Cái chết này là chết thật hay oan?
Tôi rùng mình đọc bài thơ Bánh vẽ
Mỗi chữ tạc lên cột số dặm đời
Thể phách đã an hòa cùng đất mẹ
Tinh anh còn lạnh buốt suốt thời tôi.
*Chế Lan Viên có câu thơ:
Ôi thương thay những thế kỷ vắng anh hùng
***
CHẾ LAN VIÊN: BÁNH VẼ
Chưa cần cầm lên nếm anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi
Họ cũng ngồi thôi
Nhai nhồm nhoàm.
(Rút từ Prométhée 86 – Văn học và dư luận, tháng 8.1991)
***
THƠ ƠI THƠ!
Tuổi thơ ta: chiến tranh
Tuổi trẻ ta: chiến tranh
Tuổi già ta: áp bức
Thơ ơi thơ, giông bão dồn trong ngực!
Đà Lạt 1993
***
THƠ THIÊNG LẮM, NGƯỜI ƠI
Tặng Xuân Sách, tác giả “Chân dung nhà văn”
Người làm thơ rất nhiều mà mấy ai thi sĩ
Anh thi sĩ rồi, ngất nghểu lên ngôi
tưởng có thể tự cho phép mình phản thơ được nhỉ
anh đem bán linh hồn cho quỷ
đem thơ đi đánh đĩ với đời
Trái tim bầm đen, câu thơ đỏ ngời
ngôn từ như xiếc
Nàng Thơ mãi ngây thơ nào đâu hay biết
để anh xài xể mặc lòng
Rồi một ngày có kẻ thong dong
nâng cây đàn thơ lẩy khẽ
Thì vẫn thơ anh, vẫn chính là anh đấy nhé
nào ai bịa tạc ai nào
thơ tróc hết rồi, chỉ còn lại quỷ
ngất nghểu trên ngôi
Thơ thiêng lắm, người ơi
phản thơ thì phải chết
chẳng ai giết mình, mà mình tự giết
treo nỗi nhục muôn đời.
21.09.1993
***
BÚT MÁU ĐEN
Bút máu đen máu mình rồi
Bút quay ngọn thọc máu người kiếm ăn
Văn chương đao búa vện vằn
Vẽ mặt cao quý để săn đồng bào
Sài Gòn 1994
***
ĐƯỜNG THƠ NÀY…
– Đường thơ này lắm truân chuyên
Mà đeo đẳng mãi tới niên kiếp nào?
– Lắm truân chuyên lắm ngọt ngào
Một dòng lật tẩy thiên tào đủ vui…
Đà Lạt 1997
***
ƠI THIÊN THAI…
Tưởng nhớ thiên tài Văn Cao
Thiên thai của anh đây chăng
Những tháng năm
những tháng năm
ngắc ngoải
Hồn tắt nhạc
thân tàn
mắt dại
Cái huân chương
báo hiệu liệt giường
Cái nấm mồ cao sang
muốn sánh cùng kiệt tác
Có bù đắp nổi chăng
Những tháng năm
những tháng năm
Hồn anh tắt nhạc?
Ơi thiên thai
Đất nước khôn nguôi khóc hận một thiên tài!
Đà Lạt 1997
***
TA VÀ CHÚNG
Người ta lớn bởi vì ngươi cúi xuống
Hỡi nhân dân hãy đứng cả lên!
MARAT
(Tố Hữu dịch)
Chúng nó lớn bởi vì ta cúi xuống
Ta thẳng lưng thấy chúng cũng thường thôi
Và khi chúng mang phồng mắt trợn
Chính là khi chúng sợ sắp tiêu đời.
Đà Lạt 1997
***
ÓC TIM NÀY CHẲNG AI CHO
Óc tim này chẳng ai cho
Tự mình chiêm nghiệm mà lo phận mình
Một đời một cõi nhân sinh
Thẳng lưng dẫu chạm thiên đình chẳng nao
Bùn nhơ tận chín tầng cao
Ngẩng đầu là thấy thiên tào mặt mo
Óc tim này chẳng ai cho
Thong dong mà sống tự do tự mình…
Đà Lạt 1997
***
THƠ TỪ XÓ BẾP
Anh ghi vội bên lề giấy gói thịt
Những câu thơ vừa đến bất ngờ
Món đậu phụ đang xèo trên bếp
Mắt ngó chừng hồn vẫn đòi thơ
Em từng biết
Vì độc lập anh đâu nề sống chết
Và bây giờ vào bếp chẳng xoàng chi
Vì tự do anh lại ra đi
Dẫu chỉ bằng đôi cánh thơ vẫy từ xó bếp
Em bươn chải phố phường
Nuôi chồng không uốn cong ngòi bút
Anh thủ gôn xó bếp
Hầu em chăm con
Có vui nào vui hơn
Chiều nay được tặng em
Món riêu cua món đậu chiên em thích
Và món nữa tuyệt vời là mấy vần xung kích
THƠ GIÀNH TỰ DO!
Đà Lạt 1997
***
NHƯNG LÀM SAO CÂM NÍN
Sầu vạn cổ thì vẫn sầu vạn cổ
Ta yêu người mà người chẳng yêu ta
Người thoáng gặp rồi mịt mù sương gió
Hoa hé cười mới đó đã tàn hoa…
Sầu vạn cổ, ừ, có gì đâu khác
Chỉ xé lòng nỗi đau đớn này thôi:
Nhâng nháo khắp đời quân đểu ác
Đang hè nhau hành hạ con người
Quân đểu ác thời nào mà chẳng lắm
Riêng thời nay chúng điêu luyện phi thường
Cái ngục tối lại lên màu tươi thắm
Sợi dây xiềng mềm mại đến thân thương
Ta bình lặng ôm mối sầu vạn cổ
Nhưng làm sao câm nín nỗi đau đời
Quân đểu ác giở muôn trò nhập nhọa
Bao người đang lìa bỏ chính con người.
Đà Lạt 1997
***
BI KỊCH HÓT
Tưởng bay ngàn dặm thơ
Hoá vòng vo nhảy nhót
Giữa cái lồng rất to
Tự đan bằng tiếng hót.
Đà Lạt 1997
***
Ừ THÌ…
Tặng tôi
Giữa dòng ngày tháng khơi khơi
Tỷ năm trước tỷ năm đời sau ta
Mang mang giữa triệu thiên hà
Đời mình chớp mắt thôi mà kể chi
Cớ sao trằn trọc cách gì
Cớ sao nung nấu lạ kỳ hồn ta
Ừ thì chớp mắt thôi, mà
Vẫn không thể sống không ra con người.
Đà Lạt 1997
***
TÔI GỬI THƠ TÔI
VÀO NGỌN GIÓ CAO NGUYÊN
Tôi gửi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Mặc bao kẻ bầm gan vì một lời ngay thật
Gió cứ thổi điệu vần này chân chất
Bọn giả hình lừa đảo chớ hòng yên
Tôi gửi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Thong dong thơ bay khắp mọi miền
Đến với muôn lòng yêu lẽ phải
Lòng mở với lòng thơ kết duyên.
Đà Lạt 1997
***
LƯƠNG TRI
Kính tặng anh Trần Độ
Ai khóc bể dâu buồn, ai nhấm nháp cô đơn
Ai xuôi tay nuốt nghẹn uất hờn
Ai tìm động hoa vàng núi biếc
Ai rong chơi hát điệu vô thường?
Đêm nặng trùm đêm, đời lịm ngủ
Chỉ cuồng vọng hỗn mang gào rú
Nhưng thế gian này không hẳn thế đâu
Luôn vẫn có ai đâu đó ngẩng đầu
Kìa ai như anh trầm tĩnh ngẩng đầu
Xuyên lốc gió
Nghe âm âm đâu đó…
Nghe âm âm đâu đó nấu nung gì?
Vẫn âm âm đâu đó nấu nung gì?
Anh nhận ra rồi:
Nung nấu của lương tri!
Máu muôn đời vẫn cuộn mạch lương tri
Cái nguồn mạch không phép gì chẹn nổi
Ngay cả giữa cõi lòng mê muội tối
Vẫn chập chờn le lói tiếng lương tri
Dẫu ai kia ngao ngán chẳng tin gì
Nghe tiếng gọi biết niềm tin không chết
Đêm lạnh dẫu bốn bề tê lặng hết
Vẫn còn người lên tiếng – tiếng lương tri
Chọc đêm dày, tiếng gọi rọi đường đi
Cái tiếng gọi ánh bừng như lửa thức
Người gọi người, đêm thẳm thắp muôn sao
Cái tiếng gọi vỗ hồn tôi rạo rực
Tóc bạc bỗng xanh ngời, chân mỏi lại nôn nao
Đêm Đà Lạt, 10.01.1999
***
NGHĨ VỀ THƠ
1
Thi sĩ chật công đường quán nhậu
Hí há phì phà thơ mất máu
2
Đất nước bốn mùa lũ lụt thơ ca
Có giọt chữ nào đọng mảy phù sa?
3
Những câu thơ như phóng đến tận cùng
mọi điều phải nói
Mà xem ra chưa nói được gì
Đời xám nặng mây chì
Thơ lay phay mưa bấc
4
Sao lắm lúc muốn quăng cả hồn lẫn bút
Cái cây bút nhẹ tênh mà vương nợ chi mà
Nhưng cứ mãi vậy thôi, mãi còng lưng cõng bút
Từng bước nhọc nhằn rút ngắn dặm trời xa.
5
Kinh viện nghìn chương nhạt thếch giữa biển đời
Thơ một chữ thật lòng sóng dồi động biển.
Đà Lạt 1999
Côn Sơn, 23 tháng 1.2000
***
NGHIỆP
Mình nung nấu một đời
Người liếc nửa giây chơi
Tuột trôi hay loé chớp
Cũng đành vậy THƠ ơi!
Đà Lạt tháng 9.2000
***
KÍNH BÁO CỤ ĐỒ CHIỂU
Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu
Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên
Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu
Thi nhau bốc phét để quên hèn.
Đà Lạt, 02.10.2001
***
VỀ MỘT TÊN BỒI BÚT
Cha
bút thẳng
đau đời
Con
uốn cong
đè người
móc họng.
Đà Lạt, 02.10.2001
***
CHÂN DUNG HÈN SĨ
“Cứ im lặng là vàng!”
Hèn sĩ ca hèn triết
Ngày ngày nhai lại miết
Tưởng thấy mình cao sang.
Đà Lạt, 13.6.2002
***
LẠI NGHĨ VỀ THƠ
Học theo Xuân Sách
Gió lộng ngai hồng chân cố chen
Tim hồng từ ấy vẩn mây đen
Lộn về Việt Bắc xin bùa mế
Mế bảo nan y tại hám quyền
Quyền khua lỗi nhịp mấy đường tơ
Một tiếng đờn suông giữa hững hờ
Thơ linh thiêng lắm, muôn đời thế
Đã phản thơ thì nhục với thơ.
Đà Lạt, 19 tháng 8.2002
***
GAN “NHÀ VĂN”
Không có gan dấn thân cho tự do
Nhưng có gan ngập mình vào đê tiện
Lại cả gan lem lém dạy đời
04 tháng 5.2005
***
CHỮ VÀ NGHĨA VĂN VÀ NGƯỜI
Cửa người là cửa văn chương
Cửa mình là cửa yêu thương tận lòng
Cửa văn lắm sự thẳng cong
Cửa mình chỉ một nỗi mong vui vầy
Cửa văn lắm sự bầy hầy
Cửa mình lấy sự hồn ngây làm đầu
Cửa văn thật giả biết đâu
Cửa mình đo hết nông sâu nhân tình.
Đà Lạt, 5g sáng 12.12.2009
Bùi Minh Quốc
(trích trong tập MẸ VIỆT NAM , NXB HNV 2024)