Bùi Văn Phú: Lấy Việt Nam làm trung tâm, nhìn từ hội thảo tại Đại học Berkeley
Được bảo trợ của Khoa Sử và Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, hội nghị chủ đề “Vietnam Centric Approaches to Vietnam’s Twentieth Century History” (Lịch sử Việt Nam Thế kỷ 20 từ các phương pháp tiếp cận lấy Việt Nam làm Trung tâm) đã diễn ra trong hai ngày 19 và 20 tháng Tư vừa qua tại 370 Dwinelle Hall trong khuôn viên Đại học Berkeley với sự tham dự của nhiều giáo sư, các nhà nghiên cứu và sinh viên ban tiến sĩ, thạc sĩ đến từ Hoa Kỳ, Canada, Việt Nam, Anh, Pháp, Singapore.
Trong nửa thế kỷ qua, khi nói đến Việt Nam thì đề tài chiến tranh được nhắc đến nhiều nhất và đã có rất nhiều nghiên cứu, nhiều sách viết về các trận chiến từ Ấp Bắc đến Khe Sanh, từ Mậu Thân ở Huế đến Ia-Drang; về những nỗ lực để kết thúc cuộc chiến của Lyndon Johnson, của Richard Nixon hay về các nhân vật như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, nhưng hầu hết đặt trọng tâm là Hoa Kỳ, nhìn qua lăng kính của người Mỹ hay lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
Khai mạc hội nghị, giáo sư Peter Zinoman của Khoa Sử Đại học Berkeley giới thiệu nội dung hội thảo với những tham luận, nghiên cứu theo một hướng mới, như tên của chủ đề hội nghị đã nói lên điều đó, với trọng tâm nghiên cứu là Việt Nam và người Việt, không liên quan nhiều đến các nước khác, và tuy đề tài chiến tranh vẫn có nhưng được nhìn qua lăng kính của người Việt.
Chương trình gồm tất cả bảy hội thảo với các bài tham luận từ chính trị, xã hội, kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, tôn giáo, âm nhạc, hội hoạ liên quan đến Việt Nam và về những nhân vật người Việt, có người đã vang danh một thời, có người chưa được biết đến nhiều.
Tham luận đầu tiên là của Tường Vũ, từ Đại học Oregon, nói về chiến tranh và xã hội miền Bắc từ 1967 đến 1974, qua chính sách nghĩa vụ quân sự để có quân đem vào Nam, đặc biệt là sau Tết Mậu Thân 68 và chiến dịch Xuân-Hè 72. Dẫn chứng từ hồi ký, nhật ký, thơ văn của Trần Độ, Nguyễn Tường Thuỵ, Vương Trí Nhàn hay Trần Vàng Sao cho thấy thanh niên miền Bắc không phải mọi người đều “nô nức tham gia” nghĩa vụ quân sự mà có những thanh niên trốn nghĩa vụ bị bắt, bị làm nhục, phải qua kiểm thảo kiểu như đấu tố thời Cải cách Ruộng đất và trong dân gian có những châm biếm về các bằng khen cho gia đình có con đi B hay đã hy sinh. Về đời sống xã hội, khi đó đã có những vần thơ nói lên nếp sống nghèo của dân trong khi cán bộ có đồng hồ, có đài thì tiền ở đâu mà mua.
Jason A. Picard từ Đại học VIN-Việt Nam nói về hành trình của bộ đội khi theo đường mòn Hồ Chí Minh vào chiến trường miền Nam không chỉ với mục đích “cứu nước” và “thống nhất” mà cuộc trường chinh còn là để thể hiện lòng trung thành với tổ quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà như chính sách nhà nước đưa ra, nhưng trong thực tế, qua tâm tư của một số bộ đội đã thể hiện trên báo chí, qua văn chương, hồi ký, phim ảnh thì không hẳn như thế.
Phạm Hải Chung từ Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn đề cập đến vai trò của chính trị viên trong Quân đội Nhân dân qua công tác tuyên truyền và nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội trên chiến trường.
Hình ảnh phụ nữ miền Bắc trong thời chiến đã được soi chiếu qua tham luận của Lương Thị Hồng từ Viện Sử học ở Hà Nội. Bà đã phỏng vấn một số phụ nữ đã từng tham gia Thanh niên xung phong, nhưng không hẳn mọi người đều có “tinh thần yêu nước” và muốn “giải phóng quê hương”. Có người đi nghĩa vụ vì bố mẹ chết vì bom Mỹ và muốn bảo vệ tổ quốc. Có cô bị gia đình ép gả cho một cán bộ hợp tác xã mà cô không yêu, có cô vì muốn thoát cảnh nghèo, muốn xoá lý lịch xấu vì thuộc gia đình địa chủ, có cô muốn được bình quyền nên đã đăng ký đi chiến đấu.
Cũng liên quan đến phụ nữ Việt, tham luận của Đỗ Thị Thanh Thuỷ, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ Đại học Simon Fraser đề cập đến nữ quyền nhà nước, với khẩu hiệu 5 tốt hay hoạt động của “đội quân tóc dài” và những sinh hoạt của các hội phụ nữ từ thời Pháp thuộc đến nay trong việc nâng cao vai trò phụ nữ trong xã hội và qua những chính sách của đảng và nhà nước. Theo tác giả, các chính sách nhắm tới bình đẳng giới tính mà nhà nước ban hành là để đáp ứng đòi hỏi của các cơ quan viện trợ quốc tế.
Charles Keith từ Đại học Michigan nói về liên hệ giữa cộng sản Pháp và cộng sản Việt Nam thời tiền cách mạng mà theo tác giả là giai đoạn lịch sử của cộng sản Việt Nam có mang tính chất cộng hoà qua các tổ chức nghiệp đoàn, có báo chí, hội đoàn, biểu tình, hội họp, bầu chọn đại diện.
Lê Antoine, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ ScienesPo Paris, Đại học Le Havre, bàn về vai trò của Trung ương cục Miền Nam – COSVN – cũng như vai trò của lãnh đạo cộng sản miền Nam trong việc tiếp quản những vùng đất tạm chiếm, vùng giải phóng và trong thời gian đầu sau khi chiếm được miền Nam.
Cùng chủ đề về COSVN, Cody Billock, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ Đại học Ohio, nói về bản chất của những cuộc nổi dậy chống chính phủ Việt Nam Cộng hoà mà cho tới nay chưa có nhiều nguồn tài liệu để nghiên cứu. Gần đây trong nước cho xuất bản nhiều tập văn kiện, tổng cộng 18 nghìn trang về COSVN từ 1946 đến 1975 sẽ là một kho sử liệu cho các học giả nghiên cứu trong tương lai.
Nghiên cứu về Việt Nam Cộng hoà, Alex-Thái Đ. Võ từ Trung tâm Việt Nam và Văn khố của Đại học Texas Tech đã giới thiệu một nguồn tài liệu của Việt Nam Cộng hoà qua khoảng 700 cuốn phim, phần lớn đang lưu giữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Nghiên cứu về nội dung những phim này sẽ giúp nhìn ra những nỗ lực xây dựng quốc gia và những nét sinh hoạt văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị của Việt Nam Cộng hoà trong 20 năm hiện hữu.
Nghiên cứu sinh Chu Duy Ly, sắp bảo vệ luận án tiến sĩ từ Đại học Quốc gia Singapore, nói về Thuỷ điện Đa Nhim tại miền Nam là một công trình mà các cố vấn Mỹ khuyến cáo không nên làm, nhưng chính phủ Ngô Đình Diệm đã quyết tâm và vận động được sự giúp đỡ tài chính từ Nhật để xây dựng. Cho đến nay Thuỷ điện Đa Nhim còn tồn tại như một biểu tượng của sự phát triển thời Việt Nam Cộng hoà.
Dịu-Hương Nguyễn từ Đại học U.C. Irvine nói về sinh hoạt và quan điểm của một nhóm trí thức, giáo sư từ Đại học Huế qua tuần báo Lập Trường, chỉ ra được 30 số trong 8 tháng của năm 1964 là thời điểm miền Nam đầy những biến động chính trị sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và giết chết. Theo tác giả, Lập Trường có chủ trương chống cộng, nhưng không chống cộng kiểu Mỹ và nhóm đòi hỏi loại bỏ chính phủ quân phiệt, thiết lập một chính quyền dân sự cho miền Nam.
Tại hội nghị, có diễn giả đã chọn nhân vật người Việt làm trọng tâm nghiên cứu. Alec Holcombe từ Đại học Ohio nói về đóng góp của Vũ Đình Hoè, một nhà luật học xuất thân từ Trường Luật Đông Dương, trong việc soạn thảo Hiến pháp 1959 và vai trò của ông khi làm Bộ trưởng Tư pháp liên quan đến những toà án nhân dân đặc biệt trong Cải cách Ruộng đất mà nạn nhân không được quyền biện hộ hay kháng án.
Người Việt trong nhiều lãnh vực cũng là những nét chính trong một số bài tham luận tại hội nghị. Yến Vũ, từ Đại học Fulbright Việt Nam viết về Trần Đức Thảo. Ryan Nelson, từ Đại học Ohio State, tìm hiểu về cuộc đời của Đại Cathay. Alexander M. Cannon từ Đại học Birmingham, Anh Quốc, bàn về tư tưởng chính trị văn hoá của Nguyễn Đăng Thục theo tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”. Conor Michael James Lauesen từ Art Institute ở Chicago đã phân tích ý nghĩa trong các tác phẩm hội hoạ của Bùi Xuân Phái và Vũ Dân Tân.
Nghiên cứu về phát triển kinh doanh tại Việt Nam trong đầu thế kỷ trước có Maria Baranova, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ từ Đại học George Washington, qua tham luận có nhắc đến những nhà tư sản như Nguyễn Hữu Thu, Hoàng Văn Ngọc tuy giầu nhưng không có ảnh hưởng chính trị vào đầu thế kỷ trước và ngày nay Việt Nam cũng có nhiều doanh nhân giầu, nhưng tầng lớp này không ảnh hưởng đến chính trường. Tác giả đưa ra một tấm hình chụp buổi tuyên dương doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu năm 2008, giữa đoàn doanh nhân cả trăm người là tượng Thánh Gióng to cao, nổi bật. Không hiểu ý nghĩa của một thần thoại Việt giữa những doanh nhân đã nói lên điều gì, hay ban tổ chức muốn nói gì với các doanh nhân qua bức tượng.
Cũng về phát triển quốc gia, nghiên cứu sinh Thanh Nguyễn, từ Đại học Yale, trình bày về những định hướng trong Hiến pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội gồm cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hoá tư tưởng theo kiểu Liên Xô. Những điều mà Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu cũng đã phân tích qua nhiều bài viết cho rằng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam sẽ thất bại.
Về tôn giáo, Chí-Thiện Bùi từ Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh trình bày về tiến trình Việt hoá nghi thức phụng vụ của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong giai đoạn sau Công đồng Vatican II từ 1962 đến 1975.
Qua lãnh vực văn chương nghệ thuật, Uyên Nguyễn từ Đại học Quốc gia Singapore đưa ra một cái nhìn mới về những tiểu thuyết xuất bản ở miền Bắc sau chiến tranh.
Bài tham luận viết chung về “nhạc đỏ” của ba tác giả là Vũ Thị Kim Hoa và Phạm Hải Chung từ Đại học Quốc gia Hà Nội và Đỗ Thị Nụ từ Đại học Đại Nam cho thấy âm nhạc đã được dùng để vận động quần chúng hậu phương và nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội tại chiến trường như thế nào.
Paris By Night là chủ đề nghiên cứu của Vinh Phú Phạm từ Bard HSEC Queens. Tác giả nhận định về nội dung các băng đĩa nhạc PBN từ thập niên 1980 đến nay là phản ánh tính chống cộng và các nét văn hoá của cộng đồng người Việt hải ngoại qua việc chọn ca khúc và những vở kịch và cho đến năm 2023 PBN vẫn bị cấm phổ biến tại Việt Nam. Luận đề tác giả đưa ra là trong sinh hoạt văn hoá của người Việt hải ngoại, ngày nay các nhà nghiên cứu sẽ định hình thế nào là nhạc Việt, hay nhạc của người Mỹ gốc Việt.
Vượt biên, vượt biển trong 15 năm sau ngày 30/4/1975 là chủ điểm trong tham luận của Ann Ngọc Trần, nghiên cứu sinh ban tiến sĩ Đại học Nam California. Tác giả đề cập đến tầm ảnh hưởng từ các chương trình Việt ngữ của các đài phát thanh quốc tế như VOA, BBC. Đặc biệt là đài VOA qua các buổi phát thanh liên quan đến sự hiện diện của tàu Hải quân Hoa Kỳ trong khu vực Biển Đông, hay thông tin về các chính sách tị nạn của Mỹ có là những động cơ thúc đẩy người Việt ra đi, hay còn những nguyên do khác.
Đó là tóm tắt ý chính của các tham luận đã được từng diễn giả trình bày trong 15-20 phút. Trong phần phản biện và hỏi đáp đã có nhiều đóng góp từ điều hợp viên thảo luận, những đồng môn và khách tham dự để bổ túc hay gợi mở những góc nhìn khác giúp cho bài nghiên cứu đạt tới trình độ hàn lâm cao nhất trước khi xuất bản.
Giáo sư Vân Nguyễn-Marshall từ Đại học Trent, Canada là “keynote speaker” đã nói về đề tài “The Strange Case of the History of the Vietnam War.” – Trường hợp lạ lùng về Lịch sử Chiến tranh Việt Nam.
Bà kể lại câu chuyện gia đình. Năm 1978, khi mới định cư ở Canada được ba năm thì bố mẹ bất ngờ muốn đi xem phim ngoài rạp, lúc đó đang chiếu “Deer Hunter”, là điều làm bà ngạc nhiên. Bà hỏi bố sau khi xem phim đó thấy thế nào, ông nói phim về chiến tranh Việt Nam, nhưng tất cả là về người Mỹ. Hình ảnh người Việt chỉ là bóng mờ.
Từ đó, qua học tập và nghiên cứu bà thấy vai trò của người Việt không phải là trọng tâm của những nghiên cứu về cuộc chiến có tên Việt Nam, đặc biệt là sự thiếu vắng và những cái nhìn sai lệch về Việt Nam Cộng hoà.
Diễn giả đưa ra hình ảnh, tài liệu mà nhiều học giả Mỹ đã dùng để nói xấu lãnh đạo miền Nam, như George Ball cho rằng Tổng thống Diệm là “messaiah without a message” – một tiên tri không có định hướng, mà trong thực tế ông Diệm có viễn kiến và những chính sách kiến quốc.
Hay như Tướng Nguyễn Cao Kỳ được Chester Cooper xem như “a sax player in a second-rate Manila night club” – một tay thổi kèn hạng hai trong một quán rượu ở Manila – là những thí dụ.
Bà bác bỏ cách nhìn của Christian Appy, của nhà văn Nguyễn Thanh Việt cho rằng chiến tranh Việt Nam là hoàn toàn do người Mỹ gây ra và chủ động.
Những nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn-Marshall chỉ ra những nỗ lực của các chính phủ Việt Nam Cộng hoà trong việc phát triển kinh tế, xã hội trong hai mươi năm, dù phải đối mặt với chiến tranh. Tác phẩm “Between War and the State” của bà đã minh chứng cho điều đó, qua việc nhìn lại sinh hoạt của các hội đoàn thanh niên, sinh viên học sinh, các nghiệp đoàn; các hội thể thao, văn hoá, từ thiện, xã hội, tương tế. Qua các báo chí đối lập, phong trào chống tham nhũng.
Về bộ phim “Vietnam War” được chiếu trên hệ thống truyền hình PBS ở Mỹ cách đây bẩy năm, khi đó giáo sư Nguyễn-Marshall cũng đã lên tiếng với hai nhà làm phim Ken Burn và Lynn Novick rằng phim tài liệu về Việt Nam mà người Việt không phải là trọng điểm.
Cùng quan điểm đó, Giáo sư Peter Zinoman cũng đã viết trên BBC Tiếng Việt khi bộ phim vừa chiếu tập đầu tiên: “Ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm không hề giấu giếm trong Vietnam War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh mở màn giới thiệu phần 1 của bộ phim tài liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên tả những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai cho thấy một cuộc diễu binh của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của cựu chiến binh Mỹ Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc kết thúc phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng ‘dĩ Mỹ vi trung’ làm điểm tham chiếu…” (Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War, BBC.com/vietnamese 19-9-2017)
Sự thiếu vắng tiếng nói của miền Nam cũng đã được nêu lên với đoàn làm phim trong buổi giới thiệu bộ phim tại Sài Gòn vào tháng 8/2017. Khải Đơn, một nhà báo danh tiếng, viết về buổi gặp gỡ với những nhà làm phim:
“Cô gái rất trẻ giơ tay hỏi nữ đạo diễn Lynn Novick: ‘Tại sao trong những trích đoạn được xem, tôi chỉ thấy những nhân vật được phỏng vấn từ miền Bắc Việt Nam? – Vậy trong bộ phim tài liệu sắp chiếu có những người từ miền Nam được trả lời phỏng vấn không?’ Khán phòng im lặng chờ đợi.”
“Nhưng đó không phải người đầu tiên đặt câu hỏi đó trong buổi chiếu giới thiệu phim ‘The Vietnam War’ – bộ phim tài liệu 10 tập do Ken Burns và Lynn Novick thực hiện trong 10 năm về cuộc chiến tranh Việt Nam – sắp được công chiếu.”
“Câu hỏi đại diện cho rất nhiều vết nứt hồ nghi và đầy ngờ vực của những khán giả trẻ đã có mặt tại Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn ngày hôm ấy, muốn tìm kiếm một diện mạo khác của cuộc chiến đã đóng vẩy trên thân thể mình suốt hàng chục năm dài.” (Vietnam War: ‘Cuộc chiến day dứt tất cả chúng tôi’, BBC.com/vietnamese 17-9-2017)
Theo cách nhìn lịch sử của Giáo sư Zinoman, cả chục triệu người Việt đã tham gia chiến tranh, mấy triệu người của hai miền Nam, Bắc chết vì chiến tranh, so với gần 60 nghìn lính Mỹ tử trận thì vai trò của người Việt phải là trọng tâm của các phim tài liệu, các nghiên cứu học thuật. Hội nghị hôm nay đưa ra cách tiếp cận lịch sử Việt Nam trong thế kỷ vừa qua bằng nhãn quan của chính người Việt.
Là giáo sư Khoa Sử chuyên về Việt Nam và Đông Nam Á của U.C. Berkeley, nơi đã có nhiều liên quan đến cuộc chiến Việt Nam, từ ba thập niên qua, dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Zinoman, một số nhà nghiên cứu, nhà sử học với những góc nhìn mới về cuộc chiến này đã được đào tạo như Tường Vũ, Alec Holcombe, Jason Picard, Nu-Anh Trần, Martina Nguyễn, Uyên Nguyễn, Jenny Phạm.
Tuy nhiên giáo sư cũng đã nhắc nhở họ và những nhà nghiên cứu rằng, sang năm là dịp kỷ niệm 50 ngày kết thúc cuộc chiến và sẽ có nhiều hội nghị liên quan, mọi người cần chuẩn bị để đương đầu với cách nhìn cũ của những học giả kỳ cựu.
Bùi Văn Phú
Giảng viên đại học cộng đồng từ vùng Vịnh San Francisco, California, Mỹ.