Chu Tuấn Anh: Ngôn ngữ và nền tảng để đi vào Kỷ nguyên mới không thuộc về Đảng Cộng Sản Việt Nam

Việt Nam chủ yếu vẫn làm thuê gia công cho các công ty nước ngoài 

Đúng vậy, thưa ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính, thực tế chúng ta đang bị bỏ lại phía sau vì những lời hô hào thiếu trách nhiệm của các ông, làm mất thời gian và ru ngủ dân tộc chúng ta. Trong khi đó, chúng ta cần phải quả quyết nhìn nhận rằng chế độ cộng sản Việt Nam không thể chuyển hóa đất nước để bước vào kỷ nguyên mới, và lựa chọn thay thế duy nhất là chúng ta phải quyết tâm theo con đường dân chủ đa nguyên. Đất nước chúng ta tuyệt đối không thể lãng phí thêm bất cứ một giờ phút nào nữa!

1. Chế độ CSVN đã không đưa đất nước tiến nhanh như họ ảo tưởng

Gần đây, chúng ta có thể thấy sự bối rối và sốt sắng của chế độ Cộng sản Việt Nam (CSVN) khi cố gắng thực hiện một cuộc chuyển hóa mà họ không thể đạt được. Tô Lâm đã cụ thể hóa mục tiêu của cuộc chuyển hóa này, bao gồm việc đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (thực chất là trung bình thấp) để trở thành một quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, cùng với hàng loạt cải cách hành chính nhằm chuẩn bị cho quá trình này. Nhưng tại sao nói đây là một cuộc chuyển hóa bất khả thi?

 Trong các bài viết gần đây, tôi đã trình bày quan điểm về sự phá sản của Dự án Vành đai – Con đường, một dự án từng bị lầm tưởng là có thể thay thế cho con đường dân chủ hóa bằng cách tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư công một cách cẩu thả, bất chấp tác động đến môi sinh. Tô Lâm, Phạm Minh Chính và nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ thông tin và khả năng tình báo với tư cách là những người trong cuộc để hiểu rõ về sự phá sản này hơn tôi. Theo thiển ý của tôi thì sự sụp đổ của dự án Vành đai – Con đường, cùng những sự triệt thoái của Trung Quốc, cũng là một phần (mà một phần không nhỏ) khiến họ phải loay hoay tìm cách “chuyển đổi” nền kinh tế. 

Tô Lâm cũng đã có những cố gắng học hỏi nhất định và phát biểu để chứng tỏ cho người ta thấy rằng ông đang tìm kiếm hoặc đã gần tìm thấy một con đường phát triển cho Việt Nam, thậm chí là một con đường không cần phải dân chủ hóa, thể hiện qua những phát ngôn và hành động có xu hướng như một nhà kỹ trị. Chẳng hạn, kế hoạch tinh giản bộ máy, sáp nhập các tỉnh và loại bỏ đơn vị hành chính cấp xã, cho thấy Tô Lâm nhận ra sự cồng kềnh của thể chế và thấy rằng cần phải cắt giảm để giảm thiểu chi tiêu, đồng thời tăng cường tính hiệu quả của các cấp chính quyền. Điều đó là đúng. Nhưng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự cồng kềnh và thiếu hiệu quả này là do bộ máy chính quyền được xây dựng và lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam—một chính đảng tham nhũng và bại liệt về tư tưởng. Để đánh giá liệu dưới sự lãnh đạo của Tô Lâm, Đảng CSVN có thể thực sự chuyển hóa nền kinh tế đất nước hay không, chúng ta cần phân tích xem đâu là những động lực thực sự có khả năng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.

Có lẽ, dưới thời kỳ lãnh đạo của Nguyễn Phú Trọng, chế độ CSVN luôn ru ngủ quần chúng và đảng viên bằng niềm tự hào không có thực, cho rằng Việt Nam đang phát triển rất nhanh và chưa bao giờ có được “cơ đồ” như ngày hôm nay. Đúng là Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh về con số GDP, nghĩa là tăng trưởng nhanh về “sản lượng”. Nhưng cũng cần phải hiểu một cách tương đối về tăng trưởng đó, vốn thực chất đến từ quá trình tự nhiên khi nhiều nền kinh tế trên thế giới đang chuyển mình theo hướng dịch vụ hóa, tham gia vào sản xuất các sản phẩm công nghệ cao hoặc những lĩnh vực kinh tế đòi hỏi kỹ năng và giá trị lao động cao. Các nền kinh tế cởi mở sẽ được kế thừa lại vai trò sản xuất các mặt hàng gia công nếu có một đảm bảo nhất định về an ninh, không có tình trạng chiến tranh, và có một nguồn lao động giá rẻ đông đảo. 

Như vậy, kể từ khi đổi mới, thực tế tất cả những gì chế độ làm được là chuyển đổi từ một nền kinh tế có thị phần nông nghiệp chiếm giá trị chủ yếu sang một nền công nghiệp gia công (nghĩa là sản xuất hàng hóa ở chuỗi cung ứng giá trị thấp), điều mà thực tế chính Tô Lâm cũng gián tiếp thừa nhận. Tệ hại hơn, sự chuyển dịch này cũng không nhờ “công ơn” của chế độ, mà chỉ là một sự tiếp nhận bắt buộc phải đến. Tệ hơn, ngay cả Tô Lâm và chế độ CSVN cũng phải thừa nhận—nếu chúng ta tranh luận trực tiếp với họ—rằng thực chất, tăng trưởng nhanh trong thời gian vừa qua không mang nhiều ý nghĩa đối với đất nước Việt Nam.

Đầu tiên, World Bank trong một báo cáo chính sách của mình cho biết các công ty trong nước gần như hoàn toàn cô lập với chuỗi cung ứng xuất nhập khẩu, mà thực tế chỉ xoay vòng trong nhưng doanh nghiệp FDI nước ngoài. Chế độ cũng gặp những vấn đề khó khăn trong truy thu thuế khi họ cũng thừa nhận có 60% doanh nghiệp FDI báo lỗ, có nghĩa là đất nước không nhận được đồng thuế nào từ các hoạt động kinh doanh của họ. Chúng tôi cũng cảnh báo sự lệ thuộc trên 200% GDP vào ngoại thương (thậm chí 250% nếu con số GDP được tính toán một cách lương thiện) của Việt Nam. 

Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế phụ thuộc vào ngoại thương, hiệu số xuất nhập khẩu (EX-IM) – một thành tố của GDP – cũng không mang nhiều ý nghĩa. Bởi lẽ, thực chất chúng ta chỉ đóng vai trò như một “nhượng địa” cho các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất hàng hóa và xuất khẩu. Không chỉ vậy, việc trở thành “nhượng địa” này còn diễn ra trong sự nhục nhã và phụ thuộc: duy trì sức hấp dẫn với FDI bằng giá lao động rẻ mạt, chấp nhận mức ô nhiễm tăng nhanh gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng, và đưa ra những ưu đãi đầu tư với cái giá phải trả là sự bóp nghẹt các doanh nghiệp nội địa. Như vậy, thực tế thành tích của đảng cộng sản chỉ là dậm chân tại chỗ và bị đẩy đi trước một thế giới toàn cầu hóa đã tiến lên rất nhanh mà thôi.

2. Điều gì cần cho chuyển đổi nền kinh tế để đi lên một kỷ nguyên mới?

Và một ý kiến quan trọng. Hiện nay chúng ta đều đồng ý với nhau là phải dịch vụ hóa nền kinh tế nếu muốn chuyển hóa. Nhưng trong một bối cảnh sự bùng nổ của khoa học và kỹ nghệ, ngày càng có nhiều những ý kiến cho rằng phải đặt lại mối tương quan giữa GDP và sự phát triển kinh tế. Cụ thể là có một sự nhìn nhận rằng trong kinh tế hiện đại tồn tại rất nhiều những tài sản (hay sản phẩm) vô hình, nghĩa là không cầm nắm được và đôi khi rất khó định giá cụ thể, như sở hữu trí tuệ, danh tiếng thương hiệu, bản quyền hay tác quyền, những thành tựu trong nghiên cứu và phát triển R&D, hay thậm chí là kỹ năng tổ chức và thiện chí của cá nhân và doanh nghiệp và cá nhân trong xã hội. Cần nhấn mạnh là giá trị của những tài sản phi vật thể này đôi khi không được tính hoặc không được tính toán một cách đầy đủ trong các con tính GDP, hoặc thậm chí những tài sản này có giá trị bằng 0/ZERO (nhưng thực tế nó lại có giá trị thực và rất lớn trong một nền kinh tế). 

Hiện nay, ngay cả trong bối cảnh thế giới phát triển, một số quốc gia có thể ghi nhận mức tăng trưởng GDP âm nhẹ do áp lực từ việc giảm giờ làm, số ngày nghỉ tăng lên và tác động của già hóa dân số—một vấn đề cần được thảo luận trong một bài viết khác. Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế cởi mở có thể đạt mức tăng trưởng GDP nhanh chóng. Tuy nhiên, khoảng cách giữa hai nhóm nền kinh tế này trên thực tế đang gia tăng thay vì thu hẹp, đặc biệt nếu các nền kinh tế đang phát triển chỉ dựa vào các ngành công nghiệp gia công kém giá trị, đánh đổi tăng trưởng bằng những nhượng bộ về môi trường và xã hội. Do đó, tốc độ chuyển đổi nền kinh tế là yếu tố tiên quyết để bắt kịp thế giới phát triển.

Tuy nhiên, các tài sản phi vật thể hay vô hình—những thứ không thể cầm nắm—lại đòi hỏi một thể chế dân chủ, tôn trọng nhân quyền và một nền pháp trị để duy trì. Điều này là do các chế độ độc tài không thể nuôi dưỡng tư duy minh bạch, tôn trọng phẩm giá con người hay khuyến khích những tiếng nói và những sự kết hợp đúng đắn thông qua các quyền tự do ngôn luận, cùng các thể chế vững vàng và lương thiện. Ví dụ, quyền sở hữu trí tuệ đòi hỏi sự đảm bảo rằng những người sáng tạo có quyền tự do bày tỏ và thể hiện ý kiến của mình, dù trong lĩnh vực chính trị hay phi chính trị. Họ phải được công nhận quyền sở hữu đối với cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Danh tiếng của các doanh nghiệp cũng phụ thuộc vào mức độ minh bạch và liêm chính của thể chế quốc gia. Một quốc gia cần có hệ thống pháp trị vững chắc để giải quyết các xung đột kinh tế một cách công bằng, đồng thời đảm bảo rằng các trách nhiệm xã hội, cam kết về môi trường và lợi ích cộng đồng được thực thi trong một môi trường lành mạnh.

Vào năm 2020, khi nhận được những tín hiệu rất rõ ràng về đầu tư, chế độ đã dàn dựng kế hoạch để đàn áp gia đình ông Lê Đình Kình và chiếm đoạt tài sản thông qua vũ lực. Trong năm năm tiếp theo đến nay, họ đã thể hiện xu hướng thô bạo hơn qua việc áp dụng chính sách công an trị. Vừa rồi, họ còn bắt Trần Khắc Đức, một thành viên của Tập Hợp Dân Chủ Đa NguyênTrần Khắc Đức là một thanh niên chỉ có những ưu tư lương thiện và những ý kiến đúng cho đất nước Việt Nam. Gần nhất là họ bỏ tù Trương Huy San, và Trần Đình Triển, hai trí thức phản biện tích cực nhưng cũng tự coi họ là một phần của chế độ hơn là đấu tranh bên ngoài chế độ. Sự gia tăng hung bạo, đàn áp chính trị và xã hội dân sự là những lý do rõ ràng nhất chứng tỏ cơ chế của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chuyển hóa thành một nền kinh tế dịch vụ, điều đòi hỏi phải có những đảm bảo, trong đó bao gồm quyền tự do sở hữu tài sản và tự do ngôn luận.

Như vậy, có thể kết luận là dù hô hào và kêu gọi tiến lên kỷ nguyên mới, chúng ta lại thấy các chính sách của chế độ ngày càng bất chấp và hoang dại để đem đến những con số tăng trưởng giả tạo. Chẳng hạn, họ mong muốn Việt Nam sẽ bán đất hiếm cho thế giới để phát triển các ngành kỹ nghệ ô tô và chip, và tin rằng họ có 22 triệu tấn đất hiếm. Tôi cũng đã trình  bày mối nguy hại của khai thác đất hiếm trong bài Không thể bắt đầu Kỷ Nguyên mới bằng cách lặp lại một thảm họa cũ của đất nước!

Mới đây, Hoa Kỳ đã điều chỉnh lại và xác nhận rằng Việt Nam chỉ có 3,5 triệu tấn đất hiếm. Đây có thể là tin buồn đối với lãnh đạo chế độ như Tô Lâm và Phạm Minh Chính, nhưng lại là tin vui đối với người dân Việt Nam, vì một nguy cơ tàn phá khủng khiếp về môi trường và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như điều kiện sống của người dân đã được loại bỏ một cách may mắn và tình cờ. Tuy nhiên, nếu chỉ hô hào tiến lên kỷ nguyên mới mà không thực thi dân chủ, thì bằng cách này hay cách khác, chế độ CSVN vẫn sẽ tìm cách bán rẻ môi trường, tài nguyên tự nhiên của đất nước và điều kiện sống của người dân Việt Nam để loay hoay kêu gọi đầu tư và duy trì một chỉ số GDP vô nghĩa. Đây là điều có hại cho đất nước và cần được vạch trần.

3. Dân chủ, tự do đã là những tài sản tự thân của một nền kinh tế

Trở lại vấn đề, mặc dù chúng ta có thể nói dài dòng về những thiếu sót của chỉ số GDP trong việc phản ánh các giá trị và tài sản vô hình, nhằm làm rõ sự phức tạp của nền kinh tế hiện đại—nơi không còn dựa vào việc cân đo các thành phẩm vật lý—họ đã đưa ra một khái niệm mới là GDP-B (B là Benefit), nhằm cố gắng định lượng các giá trị này dựa trên lợi ích mà những tài sản vô hình mang lại cho cuộc sống con người. Nói ngắn gọn thì thực tế những tài sản vô hình mang giá trị Zero đó thực ra là các quyền tự do (bao gồm cả quyền được có và quyền không bị/positive and negative freedoms) trong một cơ chế dân chủ. Ví dụ, trước đây trong thời kỳ tiền công nghiệp và giai đoạn thế giới đang trong phong trào công nghiệp hóa với các ngành công nghiệp nặng, việc đốt càng nhiều than đá thì GDP thực tế sẽ càng tăng, và đó là biểu hiện của sự phát triển trong nền kinh tế cũ. Tuy nhiên, ngày nay, thế giới đã nhận thức được quyền có một môi trường sống trong sạch, không bị ô nhiễm. Do đó, việc đốt thêm than đá giờ đây lại bị lên án là man rợ và đi ngược lại đà phát triển của nhân loại, hay chính là một sự thoái hóa.

Trước sự vụng về của các nền dân chủ trên thế giới và sự triệt thoái của Hoa Kỳ, nếu các nhà lãnh đạo độc tài nghĩ rằng điều này sẽ làm chậm lại tiến trình dân chủ, thì đó là một lầm tưởng. Thực tế, thế giới đang dân chủ hóa rất nhanh, như tôi đã trình bày ở trên, do nhu cầu bắt buộc của một nền kinh tế phát triển bậc cao. Thậm chí, trong thời gian tới, nhiều người sẽ nhận thấy rằng dân chủ và các quyền tự do cơ bản của con người không chỉ là nền tảng để phát triển kinh tế, mà chính nó là một tài sản trong nền kinh tế. Nói như vậy để buộc chế độ CSVN phải nhận thức rằng, ngay cả khi Việt Nam đang cạnh tranh với Indonesia và một số quốc gia trong khu vực có những tương đồng về GDP và thu nhập bình quân đầu người, thì những quốc gia có chế độ dân chủ vẫn được xem là giàu có và phát triển hơn Việt Nam, mặc dù chúng ta và họ có thể có những con số tương đồng. 

Trước đây, các chế độ độc tài thường cho rằng họ có thể trì hoãn tiến trình dân chủ hóa bằng cách hứa hẹn một tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế và chính trị mới sắp tới, sẽ có một sự nhận thức lớn rằng nếu dân chủ và tự do là những giá trị và tài sản quốc gia, thì chúng không đáng để đánh đổi. Thực tế, tiến trình dân chủ hóa đã diễn ra rất nhanh, và sự thừa nhận về dân chủ ngày càng gia tăng, chỉ có những nhà lãnh đạo độc tài mới không nhận thấy điều đó vì sự tối tăm của họ.

Rất sớm thôi, họ sẽ bỏ qua những ồn ào liên quan đến Trump và sự triệt thoái của Hoa Kỳ, và nhận thấy rằng điều đó không nghiêm trọng như họ tưởng. Ukraine cũng sẽ có thể tự phòng thủ ngay cả khi không có sự trợ giúp từ Hoa Kỳ. Điều này sẽ đưa làn sóng dân chủ thứ tư trở lại đúng quỹ đạo, và tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, dân chủ sẽ tiến triển nhanh hơn do sự chia rẽ ngày càng lớn giữa một tập thể đa số những quốc gia có vị thế và cơ hội trong tương lai nhờ vào thể chế dân chủ, và những quốc gia không thể chuyển hóa vì thiếu dân chủ. Nguyên nhân của điều này là những vấn đề tôi đã trình bày ở trên. Điều này sẽ khiến phong trào dân chủ hóa diễn ra rất nhanh chóng và cấp bách, vì vào năm 2025, đó sẽ là cuộc chạy đua nước rút cuối cùng để các quốc gia giành được tấm vé lên con tàu của Kỷ nguyên mới. 

Dân chủ hóa chậm hơn thôi là đối mặt với nguy cơ vong quốc. Đúng vậy, thưa ông Tô Lâm và Phạm Minh Chính, thực tế chúng ta đang bị bỏ lại phía sau vì những lời hô hào thiếu trách nhiệm của các ông, làm mất thời gian và ru ngủ dân tộc chúng ta. Trong khi đó, chúng ta cần phải quả quyết nhìn nhận rằng chế độ cộng sản Việt Nam không thể chuyển hóa đất nước để bước vào kỷ nguyên mới, và lựa chọn thay thế duy nhất là chúng ta phải quyết tâm theo con đường dân chủ đa nguyên. Đất nước chúng ta tuyệt đối không thể lãng phí thêm bất cứ một giờ phút nào nữa!

Chu Tuấn Anh

(16/03/2025)

Nguồn: Thông Luận