Chuyện của 3 người lính. Thơ Đào Như
NGƯỜI CHIẾN BINH VỀ THĂM NHÀ
Cuộc chiến vừa tàn
Sau ba mươi năm
Người chiến binh về thăm nhà
Nói đi anh
Sao anh đứng lặng yên như núi Cà Đú? (*)
Ngôi nhà xưa như ngôi mộ cổ
Cột kèo nghiêng đổ
Mái ngói âm dương cỏ mọc rêu xanh
Có những đêm mưa thật sâu
Có những đêm đen vô cùng
Đi ngang qua căn nhà này
Đi qua cõi lòng của mẹ
Cha đã ra đi về cõi vĩnh hằng
Mẹ còn ngồi đó đợi anh
ba mươi năm
Mẹ già
Mẹ lẫn
Mẹ không còn nhìn ra anh nữa
Nghe tiếng anh
Mẹ sờ soạng,
Mẹ khóc.
Anh ngước nhìn trời, trời xanh thăm thẳm
Anh nhìn chung quanh cỏ cây vẫn vậy
Nhà vẫn nghèo
Xóm vẫn buồn
như thuở anh đi
Dừng chân với mẹ được mươi ngày
Anh tôi lại lên đường làm nghĩa vụ của người lính.
Cuối năm 1982
Có người đến nhà cho hay
“Mẹ là Mẹ Liệt Sĩ”
Anh tôi đã hy sinh tại chiến trưòng Kampuchia
Mẹ kinh hãi
Mẹ khóc
Đêm hôm đó
Mẹ ngủ
Giấc ngủ nghìn thu
Anh đâu có hay
Thằng em của anh
Vượt biên thuở ấy
Bây giờ là
Một lão già
Mỏi mệt
Đang loay hoay
Tìm một chỗ nằm
Tại một lãnh thổ xa xăm.
(*) Núi Cà Đú-dãy núi phía Bắc cách thành phố Phan Rang chừng 10km.
***
NGƯỜI LÍNH VỪA RA ĐI
(Vô cùng thương tiếc Tướng Ngô Quang Trưởng)
Đại Bàng vừa gẫy cánh
22-Giêng-năm 2007
Người lính khóa 4 trừ bị Thủ Đức
Sau hơn ba mươi năm sống lưu vong tại Mỹ
Anh từ chối mọi thứ huân chương
Anh từ chối mọi nghi lễ an táng
Ngay cả lá cờ phủ trên quang tài của anh
Anh từ chối cả quá khứ
Quá khứ đau thương
Quá khứ sai lầm
Quá khứ phản bội
Anh muốn ra đi trong sự lãng quên
Của Lịch sử – Của đất nước
Như lúc anh còn sống
Anh đã nhiều lần tự quên mình trong chén rượu
Anh
Người lính
Của Vùng 1 Chiến Thuật
Của núi rừng Trường Sơn bạt ngàn
Của Đèo Cả- Hải Vân
Sóng biển Thái Bình Dương gầm thét dưới chân anh
Hết rồi
Những tháng ngày bão tố
Bay trên vùng trời Trị Thiên
Mây trời Ai Lao!
Anh ra đi
Có tiếng sóng Phá Tam Giang
Gào thét gọi tên anh
Có người lính già ở quê nhà
Thắp nén hương khấn nguyện
Thầm gọi tên anh
Trong cõi âm u
Trong bóng tối của lịch sử
***
ĐOẢN KHÚC 304
Anh thăm nhà về
Anh nằm ngủ
Hai tay úp trên ngực
Giấc nghủ thanh thản
Nét mặt phong trần
Chị ngồi cạnh anh
Chị khâu lại khuy áo
Chiếc áo trận màu chàm
Anh vừa mang từ Việt Nam về
Sao gần ba mươi năm bỏ lại tại quê nhà
Chị còn ngửi thấy mùi mồ hôi của anh
Chị cảm động
Chị áp áo vào lòng
Chị thổn thức
Vâng, chị đang ngồi bên cạnh anh đang ngú
Sao chị vẫn nhớ anh
Nhớ anh ở cuối trời xa
Năm sáu mươi tư
Anh vừa tốt nghiệp quân trường Thủ Đức
Anh được ném vào trận Bình Giã
Những ngày đó, với chị, biết bao là đau xót
Chị quay quắt nhớ thương chồng
Rủi ro người không về thì sao?
Nhưng là trai thời loạn
Anh vẫn hiên ngang vượt muôn ngàn sóng gió
Với chiếc áo trận này anh lội suối băng ngàn
Những năm tháng ở Đồng Tháp Mười-U Minh Thượng-U Minh Hạ-Tết Mậu Thân ở Huế, A Sầu, A Lưới, Khe Sanh, An Lộc, Đại Lộ Tử thần, Cổ Thành Quảng Trị…
Những lúc ấy chị biết nỗi lo canh cánh bên lòng anh là chị, người vợ ở hậu phương
Những thư anh viết cho chị từ KBC
Những thư anh viết trên thùng đạn
Những thư tràn đầy yêu thương
Không có màu khói lửa chiến tranh
Không có chết chóc hận thù
Đối với anh
Đời chiến binh thắng bại là lẽ thường
Điều quan trọng là ta có thể làm gì cho lịch sử
Sau ba mươi tháng tư bảy lăm
Anh trở lại những vùng binh lửa anh đã từng đi qua
Với thân phận, người tù cải tạo
Những địa danh An Dưỡng, Suối Máu, Kà Tum, Bù Gia Mập, Vườn Đào, Phú Quốc, Khám Lớn Chí Hòa, Đồng Tháp, Lý Bá Sơ, Cổng Trời, Bắc Thái, Hoàng Liên Sơn, Lào Kai…
Những trại tập trung
Những nhà tù cải tạo
Khi nhắc đến làm đau lòng cho những ai yêu nước
Hơn mười năm
Trong lao tù cải tạo
Những ngộ nhận, những nhầm lẫn, những hận thù phi lý
Không ngừng đổ xuống trên thân phận những chàng trai yêu nước.
Chị ôm chiếc áo,
Siết chặt vào lòng
Chị nức nở
Anh giật mình thức giấc
Ôi! Em làm gì vậy?
Chiếc áo ấy cũ xưa quá rồi
Thời thế đã đổi thay
Không còn ai cần mặc những cái áo nặng nề như vậy nữa đâu…
Chi vẫn cúi xuống ngồi yên lặng
Anh đến ngồi bên chị
Em khóc?
Anh ôm vai chị
Anh thều thào:
Chiến tranh mà em
Dù sao nó cũng qua rồi../.
Đào Như
