Cù Mai Công: 60 năm Đảo chính 1-11-1963 lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm (tt)

Kỳ 4: SAU ĐẢO CHÍNH, PHẢN ĐẢO CHÍNH LẠI LIÊN TIẾP ĐẢO CHÍNH VÀ PHẢN ĐẢO CHÍNH

Cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm tạo ra hai luồng cảm xúc đối nghịch cả trong lẫn ngoài nước: một, vui mừng đã lật đổ chế độ “gia đình trị”; hai, bàng hoàng khi ông Diệm bị giết.

Người Mỹ đứng sau lưng, bật đèn xanh cho nhóm sĩ quan làm đảo chính lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm thì ai cũng rõ rồi. Nhưng khi nghe tin ông Diệm bị giết, Tổng thống Mỹ Kennedy cũng bần thần. Đa số người Bắc di cư vốn hàm ơn ông Diệm đưa mình vào Nam thì bàng hoàng. 

Ghế ngồi mà Tổng thống Ngô Đình Diệm dự lễ Các linh hồn sáng 2-11-1963 và cầu nguyện lần cuối tại nhà thờ cha Tam trước khi bị sát hại. Ngay chiếc ghế hiện nay vẫn có tấm bảng ghi nhận sự việc này – Ảnh Trần Việt Đức

Khi nghe ba tôi nói Tổng thống Diệm bị giết, mẹ tôi thốt lên “Giêsu Maria, lạy Chúa tôi” rồi vào ngồi trong góc nhà, đầm đìa nước mắt, đấm ngực than: “Hết về Bắc lại rồi ông ạ”. Chả là nhiều người Bắc 54 đến lúc đó vẫn tin sẽ có ngày ông Diệm đưa mình về lại quê hương. 

Nhà thờ Cha Tam, nơi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu cầu nguyện lần cuối trước khi bị ám sát.

Phải chăng vì vậy, không nói đâu xa, ngay chính vùng Ông Tạ là vùng Bắc 54 làm ăn phát triển nhất trong các khu Bắc 54 ở miền Nam trước 1975 nhưng nhà cửa cơ bản vẫn chỉ xây tạm bợ. Nhiều nhà vẫn nhà lá hoặc nhà gỗ, mái tôn… Tiền bạc làm ra dành dụm cho ngày về lại quê xưa. Ông Diệm không còn, nhiều nhà cửa vùng Ông Tạ bỗng vọt lên nhà đúc, nhà bê tông ba, bốn tầng. Năm 1964, nhà ảnh Á Đông ở ngã ba Ông Tạ là cả một “tòa cao ốc” năm tầng. Có lẽ họ đã thôi nghĩ chuyện về Bắc mà ở lại miền Nam lâu dài…

Nhưng sự giận dữ phe đảo chính vẫn còn đó, có dịp là bùng lên. Một đêm đầu tháng 9-1964, hàng ngàn người dân các khu xóm trong vùng Ông Tạ và lân cận kéo nhau đến trụ sở Bộ Tổng tham mưu đầu đường Thoại Ngọc Hầu, cách ngã ba một cây số, phản đối tướng Nguyễn Khánh. Tướng Khánh không thuộc nhóm đảo chính 1-11-1963, nhưng ngay sau đó phát biểu ủng hộ Hội đồng Quân nhân Cách mạng và là người tán thành việc Mỹ đưa quân vào miền Nam. 

Trước đó, có vẻ như tướng Khánh có cảm nhận mình bị đối xử không tốt. Tướng tham gia đảo chính là Trần Thiện Khiêm cũng cảm thấy mình bị coi nhẹ. Sáng sớm 30-1-1964, hai tướng bắt tay nhau làm đảo chính Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Cuộc đảo chính thành công khá chóng vánh, hầu như không tiếng súng, truất phế các tướng lĩnh chủ chốt cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 là Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Mai Hữu Xuân. Nhóm này gọi đây là Chỉnh lý. Không chỉ bắt thiếu tá Nhung – nghi can số một đã giết hai anh em đại tá Tung–thiếu tá Triệu, Tổng thống Diệm–cố vấn Nhu, tra tấn đến chết để “trả thù cho ông cụ” mà còn bắt hai tướng Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Trung tướng Khánh lên nắm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng thay trung tướng Dương Văn Minh. Trung tướng Trần Thiện Khiêm làm đệ nhất phó chủ tịch.

Bộ chỉ huy cầm đầu cuộc Chỉnh lý đặt trong Tòa hành chính tỉnh Gia Định (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh). Khi đó, đại tá Huỳnh Văn Tồn làm tỉnh trưởng Gia Định. Nhà ông Tồn trong cư xá Thoại Ngọc Hầu (nay trong hẻm 15 Phạm Văn Hai), cách nhà tôi hơn hai trăm thước, tôi đi học qua lại hàng ngày. 

Không hiểu sao, ngày 13-9-1964, đảng Đại Việt lại làm cuộc binh biến, cầm đầu là đại tá Huỳnh Văn Tồn, tư lệnh Sư đoàn 7 và trung tướng Dương Văn Đức, tư lệnh Quân đoàn IV. Tướng Nguyễn Văn Thiệu dù đang là tham mưu trưởng liên quân ở Bộ Tổng Tham mưu nhưng không có quân trong tay nên cầu cứu với thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Sư đoàn 1 về Sài Gòn phản đảo chính thành công. 

Trở lại cuộc biểu tình của dân Ông Tạ. Đoàn biểu tình phá rào, tràn vào cổng. Mười năm sau di cư, dân Ông Tạ mới có một đêm náo động như vậy. Đi suốt đêm, đến sáng thì hung tin báo về: sáu người biểu tình bị bắn chết. 

Lại biểu tình tiếp, diễu hành tới Tòa Đô chánh (nay là trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Dân di cư các xóm đạo cũng kéo tới tiếp viện. Chính quyền Sài Gòn lúc ấy phải xoa dịu bằng cách cho chôn sáu nạn nhân ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi – chủ yếu dành cho sĩ quan cấp cao và người nổi tiếng thời Pháp, thời Việt Nam Cộng hòa. Linh mục Trần Ngũ Nhạc, chánh xứ An Lạc lên tới nghĩa trang làm lễ tang.

Như đã nói, tư dinh của ông Thiệu, ông Khiêm ở cư xá sĩ quan cao cấp Trần Hưng Đạo–Bộ Tổng tham mưu. Con gái ông Thiệu làm lễ vu quy ở nhà này và ông cũng di tản cùng ông Khiêm hồi 1975 từ đây. Bà Thiệu và bà Khiêm hồi hai ông chưa làm tổng thống, thủ tướng thường ngày đi chợ Ông Tạ chung. Ông Thiệu trước đảo chính 1-11-1963 cũng lân la tính mua khu đất của bà con người Nam cố cựu xã Tân Sơn Hòa, cạnh khu đất của trung tá Dư Quốc Đống, tư lệnh phó Lữ đoàn Nhảy dù (sau lên trung tướng). Sau đảo chính, thấy ông Đống bán đất cho trung tá Huệ, xây rạp Đại Lợi (nay là trung tâm hội nghị tiệc cưới trước chợ Phạm Văn Hai), ông Thiệu bỏ ý định này. Miếng đất đó ông Huệ mua luôn xây building Đại Lợi cho Mỹ thuê. Sau 1975 là trại giam Đại Lợi của quận Tân Bình, hiện là chung cư.

Còn ông Khiêm có nhà riêng sau nhà thờ Chí Hòa, sát tường rào phía sau trại dù Phạm Công Quân (năm 1971, bà Thiệu tổ chức quyên góp, làm hội chợ xây bệnh viện Vì Dân, nay là bệnh viện Thống Nhất). Ba má bà Khiêm có một khu đất khá rộng sát bên vùng Ông Tạ xây cho thuê trên đường Huỳnh Quang Tiên (nay là Đặng Văn Ngữ), gần cơm tấm Ba Ghiền hiện nay. Khu đất này sau 1975 một thời gian là Công an quận Phú Nhuận, hiện là cao ốc 40 Đặng Văn Ngữ. Chị bà Khiêm là giám thị trường Ngô Sĩ Liên vùng Ông Tạ tôi học. 

Đối diện trường Ngô Sĩ Liên là cư xá Việt Nam Thương Tín, trong đó có nhà em họ ông Thiệu là Hoàng Đức Nhã, bí thư kiêm tham vụ báo chí (press secretary) của Tổng thống Thiệu; sau đó làm tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi. Gia đình ông Nhã ở đây từ đầu thập niên 1960 đến 1975.

Trong khi đó, sau khi phản đảo chính thất bại và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng của tướng Dương Văn Minh tước binh quyền, đại tá Bùi Dzinh–viên sĩ quan trung thành tuyệt đối với nền Đệ nhất Cộng hòa Ngô Đình Diệm, nhà cửa cho tới nay vẫn ở vùng Ông Tạ đã lên kế hoạch “trả thù cho ông cụ” bằng việc âm thầm chuẩn bị cho cuộc đảo chính của chính mình, cùng với tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo (sau 1975 mới biết là đại tá Thảo là tình báo của phía bên kia). 

***

Kỳ 5: CUỘC ĐẢO CHÍNH 20 TIẾNG VÀ “HẬU CỨ CHÍNH TRỊ” ÔNG TẠ

Sau khi phản đảo chính 1-11-1963 thất bại và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng của tướng Dương Văn Minh tước binh quyền, gia đình ông Dzinh đã từ dinh tư lệnh Sư đoàn ở Sa Đéc dọn về cư xá Lữ Gia, Phú Thọ, cạnh nhà nữ tài tử Kiều Chinh.

Đại tá Bùi Dzinh khi là tư lệnh Sư đoàn 9 năm 1962 – Ảnh Trần Đức Cầu. (Photo Trần Đức Cầu trên đường Gia Long Qui Nhơn. Ông Cầu là anh ruột của cô Trà Giang, nữ diễn viên điện ảnh khi đó ở miền Bắc

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm do Tiểu đoàn 8 nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ở cư xá Lữ Gia, năm học 1963-1964, các con ông như Bùi Dzũng, học nội trú lớp đệ ngũ – nay là lớp 8, cùng hai em trai: Cường, lớp đệ thất (lớp 6) và Bình, lớp nhì (lớp 4) trường Đắc Lộ (nay là Trường trung học cơ sở Ngô Quyền, Tân Bình) ở gần ngã tư Bảy Hiền. Anh trai tôi cùng tuổi, cùng khối học, cùng nội trú với Bùi Thanh Bình, con ông Bùi Dzinh ở đây. Anh Bình là con trai thứ tư của ông Dzinh, sau này học khoá 31 Trường Võ bị Sĩ quan Đà Lạt. 

Năm 1964, ông Dzinh mướn nhà thầu Vũ Thịnh xây ngôi nhà đầu tiên ở Khu chỉnh trang/vườn cao su Phú Thọ trên đường Nguyễn Văn Thoại (nay là đường Lý Thường Kiệt) nhìn xéo sang khu đất nay là chợ Tân Bình. Đối diện bên kia đường là nhà của đại tá Quỳnh, chỉ huy trưởng Trường sĩ quan Chiến tranh chính trị Đà Lạt.

Xây nhà cho mình nhưng ông Dzinh cũng xây dựng một kế hoạch cho đại sư. Nỗi tiếc thương “ông cụ” (Tổng thống Diệm) trong ông vẫn cháy bỏng. Và ngày 19-2-1965, ông ra tay: cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh. Cuộc đảo chính do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy. Cụ thể ông đã cùng trung tá Lê Hoàng Thao mang quân từ Long An chiếm trại Lê Văn Duyệt (Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô, nay là Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh). Trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô bị quản thúc tại đây suốt 24 giờ trước khi rút lui ngày 20-2-1965.

Tướng Nguyễn Khánh, 
hình chụp năm 1964.

Theo một tài liệu mà đại tá Thảo nắm được, Mỹ và Nguyễn Khánh đã thỏa thuận sẽ ném bom xuống miền Bắc vào 20-2-1965, vì vậy cuộc đảo chính sẽ tiến hành ngày 19-2-1963.

Trong cuộc đảo chính này, quân đảo chính mang 45 xe tăng, thiết giáp cùng, các đơn vị địa phương quân, lực lượng Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là Trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 chiếm trại Lê Văn Duyệt, Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và phi trường – Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt. 

Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ đưa máy bay cứu Nguyễn Khánh, bay ra Vũng Tàu. Không rõ chuyện gì trong nội bộ phe đảo chính mà trên tờ tin Việt Tiến (in ronéo, phát bí mật), đại tá Phạm Ngọc Thảo, bút hiệu Lê Minh viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20 giờ ngày 19-2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”.

Cuộc đảo chính thất bại. Tuy nhiên, cùng với nhiều cuộc biểu tình phản đối, ông tướng có chòm râu dê rất hài Nguyễn Khánh buộc phải lưu vong với chức danh “đại sứ lưu động”. Ông tướng nay rất vui, theo anh Lê Văn Nuôi, trong bài viết “Xé hiến chương Vũng Tàu và buộc Nguyễn Khánh từ chức” trên báo Tuổi Trẻ ngày 20-4-2005, khi bị sinh viên biểu tình, hô “Đả đảo độc tài quân phiệt!”, tướng Nguyễn Khánh “cũng một tay vung lên, một tay cầm micro: “Đả đảo” (!).

Một hội đồng tướng lĩnh lập ra, do Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cầm đầu, ra lệnh tướng Lâm Văn Phát và hai đại tá Bùi Dzinh, Phạm Ngọc Thảo và 12 sĩ quan khác ra trình diện trong 24 tiếng. 

Hầu hết đào thoát (bỏ trốn). Ngày 26-4-1965, Tòa án Quân sự tuyên bố “tử hình khiếm diện” (vắng mặt) bốn sĩ quan chủ chốt của cuộc đảo chính: tướng Lâm Văn Phát, hai đại tá Bùi Dzinh, Phạm Ngọc Thảo và trung tá Lê Hoàng Thao. 

Đại tá Bùi Dzinh bị kết án tử hình với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp”. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông Dần trên một con đường nhỏ nay là Chữ Đồng Tử, cạnh trường Mai Khôi tôi học. Sau đó, ông sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. 

Bị lùng sục ráo riết, ông chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) một thời gian. Ông bị bắt ở đây, đưa về tạm giam ở Tổng nha Cảnh sát Quốc gia – Sài Gòn trước khi bị giải sang khám Chí Hòa tháng 5-1965.

Chính quyền tịch thu nhà của ông ở đường Nguyễn Văn Thoại. Vợ ông và chín người con nhờ người cậu ruột là trung tá Lý Trọng Lễ (sau này là dân biểu tỉnh Bình Long rồi làm tỉnh trưởng Khánh Hòa thời Đệ nhị Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu) ở dãy nhà lầu đối diện hồ tắm Cộng Hòa mua căn nhà số 203B đường Lê Văn Duyệt nối dài (sau năm 1967 đổi số 207 rồi cuối cùng là số 211 đường Phạm Hồng Thái, Gia Định – nay là Cách Mạng Tháng Tám); nhờ người dì đứng tên và ở đó từ tháng 9-1965 cho tới giờ.

Căn nhà ở đầu đường Sở Mỹ (nay là đường Lê Minh Xuân) và Nguyễn Văn Thoại, xéo chợ Tân Bình được chính phủ Sài Gòn trả lại năm 1967 sau khi miễn án tử hình, trả tự do cho ông – nhân dịp Tổng thống Thiệu ban hành hiến pháp nền Đệ nhị Cộng hòa.

Gia đình ông ở chính là ngôi nhà đối diện hồ tắm Cộng Hòa cho đến khi đi nước ngoài cuối năm 1980. Căn nhà luôn đóng kín cửa phía đường Cách Mạng Tháng Tám. Khách ra vào bằng cửa sau. Bà cựu đại tá Bùi Dzinh tướng to cao, phúc hậu. Cùng số phận đau buồn, trước khi định cư ở Pháp, hai bà cựu phu nhân hai đại tá Lê Quang Tung (nhà cách đó hơn trăm thước, trong hẻm An Tôn (nay là hẻm 947 Cách Mạng Tháng Tám) và Bùi Dzinh thường qua lại thăm viếng nhau…

Đại tá Phạm Ngọc Thảo thoạt đầu cũng trốn về vùng Ông Tạ, với che chở của linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ bút báo Xây Dựng và sau này là chánh xứ tiên khởi giáo xứ Xây Dựng. Đại tá Thảo vốn gốc Công giáo. Cha Lãm cho biết: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo”. 

Đại tá Phạm Ngọc Thảo.
Ảnh tư liệu.

Và thế là đại tá Phạm Ngọc Thảo bị bắt nhanh chóng và sát hại dã man. Lúc đó, linh mục Nguyễn Quang Lãm với bút danh Thiên Hổ đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của đại tá Thảo. Mười năm sau, năm 1974, nhà báo linh mục Thiên Hổ còn viết một loạt bài nhiều kỳ trên báo Hòa Bình, lại nêu nghi can đã giết đại tá Thảo. Tướng Sáu lèo” Nguyễn Ngọc Loan trước sau không nhận mình là thủ phạm. Ngày 20-12-2012, trong bài viết “Cái chết bi thảm và sứ mệnh hoàn hảo”của anh Hoàng Hải Vân trên báo Thanh Niên, linh mục Nguyễn Quang Lãm kể đã từng hỏi Nguyễn Cao Kỳ: “Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.

Có lẽ cha Lãm và nhiều vị chức sắc Công giáo không nghĩ đại tá Thảo là sĩ quan tình báo bên kia. Tổng thống Ngô Đình Diệm có thể cũng vậy, dù trước đó, ông Dương Van Hiếu, chỉ huy Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (cơ quan tình báo, phản gián của Ngô Đình Cẩn do Dương Văn Hiếu và Nguyễn Tư Thái phụ trách) đã bí mật theo dõi đại tá Phạm Ngọc Thảo, đề nghị tổng thống Ngô Đình Diệm lưu ý.

Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung từng bắt một loạt sĩ quan tình báo chủ chốt phía bên kia: ông Trần Quốc Hương (tức Mười Hương–chỉ huy mạng lưới tình báo), Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Vĩnh Nghiệp, đại tá Lê Câu (chỉ huy Quân báo miền Nam)…

Nhà ông Hiếu ở đầu một con hẻm nhánh bên trái của hẻm vô nhà thờ An Lạc (nay là 686 Cách Mạng Tháng Tám) vùng Ông Tạ, cách nhà linh mục–nhạc sư Kim Long một căn. Con trai đầu của ông tên Thuận. Mấy bố con đều vui vẻ, hòa nhã với và con lối xóm. 

Sau đảo chính 1-11-1963, do là chỉ huy một đơn vị của cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn, ông Hiếu Dương Văn Hiếu bị bắt, tù khổ sai chung thân ở Côn Đảo. Nhưng một năm sau, ông được thả, về buôn bán thuốc tây mưu sinh. Tối 28-4-1975, ông Hiếu và Thuận, con trai lớn di tản cùng trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia. Hơn chục năm sau, ông bảo lãnh vợ và tám con còn lại định cư ở San Jose, California, Mỹ.

Riêng tướng Phát ra trình diện, bị Hội đồng Kỷ luật Quân đội tước cấp bậc, buộc ra khỏi Quân đội vào tháng 10-1965. Trung tá Lê Hoàng Thao sau cũng được tha bổng và rời quân ngũ. 

Cù Mai Công

(còn nữa)