Đặng Mai Lan: Chim lệch đường bay từ thuở ấy*
Paris trong tôi là hình ảnh những đoạn cầu lừng lững trên sông, ngăn chia khu phố, kết nối những con đường; là những pho tượng được dựng ở mọi nơi với nhiều nhân dáng, những hình tượng rạng danh lịch-sử và nền văn-hóa của đất nước này; là ngọn tháp chọc trời cao ngất gọi mời những bước chân du khách háo hức được bước lên tầng lầu cao nhất của kỳ quan thế giới. Và có thể ai đó cũng như tôi, sẽ nhận ra cái quyến rũ đích thực không từ những song sắt lạnh lẽo kiên cố, đã được rào chắn kỹ càng để tránh mọi bất cập rủi ro. Sự quyến rũ chính là những không gian bao la hiển hiện toàn cảnh một Paris lộng lẫy. Tôi đã có dịp được làm việc bên trong ngọn tháp này và nhận ra điều đó.
Ngọn tháp, những nhịp cầu trên sông, những đoạn cầu ngắn dành cho xe điện băng qua phố, những pho tượng, hay những trụ đèn cổ xưa tôi hằng thấy… Tất cả là một màu xám lạnh, nhưng chúng biết vui-buồn theo không gian, thời tiết của bốn mùa.
Tôi đã đứng trong sương sớm nhìn Paris khoác áo sương mù. Nhìn giòng sông, nơi ven bờ có những con tàu nằm yên ngủ. Tôi đã đặt tay lên những vai cầu lạnh buốt, ngắm những làn khói mong manh lãng đãng qua bao đôi mắt đèn đêm thao thức, chờ rạng đông tiễn biệt.
Paris, “mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ”
Paris, “Mai anh về giữa bến sông Seine, anh về giữa một giòng sông trắng. Là áo sương mù hay áo em“(1)
Paris, “Tuyết rơi mỏng manh buồn, ga Lyon đèn vàng, cầm tay em muốn khóc…” (2)
Paris đã đi vào thi-ca từ những năm đầu của thập niên 50. Những bài thơ được phổ nhạc đã lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia và mãi mãi. Nhưng tôi yêu Paris những ngày mưa, những chiều tan sở, ngồi trong lòng xe nhìn ra bên ngoài mây trời xám ngắt, mưa lướt thướt trên sông, trên những cây cầu. Cái vẻ đìu hiu ấy luôn cho tôi những cảm giác buồn bã, trống vắng. Tất cả mang một vẻ ảo não…như một ngày cuối năm, năm cùng tháng tận của một đời sống buồn tênh.
Hãy kể đến những hào nhoáng của khu thị tứ Paris, hiển hiện nơi các cửa hiệu thời trang tấp nập những du khách nước ngoài. Trong một buổi mua sắm, một du khách Trung Hoa đã có thể bỏ tiền mua những sản phẩm mà trị giá của nó bằng giá của một căn chung cư nho nhỏ. Hay còn những ai khác tôi chưa được biết. Có lẽ vì thế, nên cửa tiệm nào cũng có nhân viên bán hàng người Á-châu, thường là người Trung Hoa hay Nhật Bản. Sẽ là một ưu điểm, nếu những nhân viên này biết nói tiếng mẹ đẻ của mình.
Kinh tế của đất nước này có thể bị suy thoái từ một nền kỹ nghệ nào đó, nhưng thời trang thì nhất định không thể lung lay. Dù chỉ là một người thợ, tôi có chút may mắn được hòa nhập với cả trăm nhân viên trong một vài ngày làm fitting, shooting để chuẩn bị cho một đêm trình diễn thời trang, quảng cáo trên những tạp chí.
Được nhìn ngắm những người mẫu đi qua-đi lại dưới bao đôi mắt quan sát của những nhà thiết kế, những nhiếp ảnh gia; được cầm trong tay vài ba thứ quần áo mà tôi biết ai sẽ khoác chúng lên người cũng là một điều thú vị. Không chỉ là một diễn viên lừng danh của nền điện ảnh Pháp, hay một cô ca sĩ đến từ Hoa Kỳ trình diễn, mà phải kể đến vị “Đệ Nhất Phu Nhân”. Đệ nhất mà! Để không trùng với những trang phục mà một khách hàng giàu có nào đó có thể sẽ mua, người cố vấn thời trang của bà mệnh phụ đã yêu cầu đám thợ chúng tôi phải làm khác đi kiểu mẫu.
Bảo sao đã đến tuổi được nghỉ ngơi nhưng tôi vẫn cứ đi làm, đam mê với công việc!
Tại sao tôi lại không viết ra những gì trong cuộc sống khá linh động của mình. Viết về một kinh thành bốn mùa đầy những sắc thái thơ mộng trên những nẻo đường. Hay viết về những ngày phố đầy lửa khói bạo loạn bởi những người biểu tình chống đối, đòi cải cách xã hội, mà những cửa tiệm dành cho giới thượng lưu thường là mục tiêu cho những kẻ quá khích trút cơn phẫn nộ. Đám nhân viên chúng tôi đã trở về nhà bằng những cửa ngõ đặc biệt, ăm ắp nỗi lo. Những nam đồng nghiệp của tôi thường là người đồng-tính. Viết về cá tính, năng khiếu của họ cũng là một đề tài lý thú.
Và đâu phải chỉ riêng một Paris hoa lệ. Ở xứ sở này còn biết bao nét đặc trưng của những tỉnh lỵ, những thành phố tôi đã đi qua suốt mấy thập niên dài.
Tại sao không viết? Một bạn văn đã hỏi tôi như thế! Viết là sống, được sống trọn vẹn đời của người khác là một thử thách đầy thú vị, nhưng sống lại đời mình bằng tâm tưởng thì không gì hạnh phúc hơn. Tôi đã không thể sống khác với những suy tư, nghĩ tưởng tự tâm hồn.
Đã hơn bốn mươi năm,
Chim lệch đường bay từ thuở ấy.
Con chim ấy là tôi, đã lệch đường bay nhưng vẫn ngoắc ngoải ngóng về phương trời cũ.
Đôi khi tôi cảm thấy mình lạc loài, cô đơn ở đời sống này. Tôi tìm những thứ đã chìm sâu dưới đáy biển thời gian. Dẫu có tìm thấy lại cũng chẳng là gì, chỉ là những ngoi ngóp chập chờn, biến hình biến dạng.
Sau gần nửa thế kỷ gặp lại nhau, Khiết nói sao tôi cứ hay nhớ về những nỗi buồn, những mất mát đã xảy ra trong đời mình mà theo anh thì nên buông, bỏ. Tôi muốn nói với anh, những gì anh đang nghiền ngẫm về cuộc sống hiện tại, con đường anh đang đi chưa thuyết phục, níu kéo được bước chân tôi. Nhưng cách sống của tôi ít nhiều, dường như cũng nằm trong những phương thức cốt lõi gọi là “chuyển hóa tâm thức” để đời sống tâm hồn được thoải mái nhẹ nhàng hơn mà anh hay nói.
Là một người nhạy cảm, dễ buồn, vui, giận dỗi nhưng tôi luôn chấp nhận mọi thứ mà cuộc đời trao gửi. Chấp nhận một thứ luật “bù trừ”. Tôi tin cuộc đời không có gì tuyệt đối. Được và mất thường đi với nhau. Hai sự kiện đến với tôi liền lạc và gần như trở thành một kinh nghiệm sống. Tôi hiểu những trạng thái tâm lý của mình. Nhưng tôi không tìm cách buông bỏ như Khiết khuyên. Tôi biết lấy niềm vui này đặt lên nỗi buồn kia. Tôi thủy chung tuyệt đối với quá khứ. Chỉ có trí nhớ thường phản bội, đã bôi xóa, làm mờ đi tất cả. Và tôi nghĩ, con người chỉ thực sự an nhiên khi không còn trí nhớ.
Tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng tôi không tin vào tri thức của mình khi bàn về lãnh vực này. Tôi sẽ đuối lý, nên tôi chỉ cười.
Nỗi buồn, sự đau đớn khi đứng trước cái chết của người thân, quen, là một nỗi buồn không thể sánh ví. Tôi đã đi qua những đau đớn chia lìa. Nhưng sau sự mất mát lại là những đền bù kỳ diệu. Có thể gọi đó là những hạnh-duyên như một sắp đặt trật tự của đất trời. Sau bóng tối sẽ là bình minh. Người này ra đi để lại chỗ ngồi cho người nọ. Ngẫu nhiên như nắng chan hòa sau những ngày mưa. Trong đời sống tôi, sự kiện này đã hai lần xảy ra. Và bây giờ với Khiết là lần thứ ba. Chỉ khác một điều Khiết không mới, Khiết cũ xưa như những con số đánh dấu thời gian mà chúng tôi nhẩm tính qua một tấm hình. Những tiệm hình ngày xưa luôn in sau lưng ảnh năm tháng tấm hình được chụp. Nhưng nếu không có những ghi chú, tôi vẫn nhớ được khoảng thời gian ấy. Trí nhớ đôi khi là một ngọn đèn sáng rực, có thể rọi xuyên suốt những ngóc ngách quá khứ.
Khiết còn giữ được rất nhiều hình ảnh thời học trò. Đúng hơn, sau khi anh vượt biên, những kỷ niệm của riêng anh đã được gia đình anh cất giữ. Những tấm hình với nhiều khuôn mặt, dĩ nhiên tôi không thể nào biết hết, hoặc tôi đã quên. Và tôi chỉ xin anh chụp lại cho tôi tấm ảnh có sáu người ngồi trên thềm nhà của một khách sạn ở Vũng Tàu. Chúng tôi thường có những cuộc đi chơi ra khỏi thành phố. Hơn năm mươi năm, giấy đã ố vàng nhưng màu ảnh vẫn còn đậm rõ những gương mặt rạng rỡ thanh xuân. Tôi thích giữ bức hình này vì sáu người trong ảnh có tôi, bây giờ chỉ còn bốn.
Sau ba năm Sài Gòn đổi chủ, Tánh biến mất không một dấu vết nào để lại. Tánh mang tất cả vào lòng đại dương. Bây giờ là Ngọc Lan, người tôi vừa gặp lại ở Nam Cali chưa lâu lắm. Cái chết của bạn làm sống lại quá khứ. Từng khuôn mặt hiện ra, những khuôn mặt tuổi trẻ sáng ngời ngày ấy bây giờ ở đâu? Hẳn khi biết tin Ngọc Lan mất họ sẽ buồn như tôi. Tôi nhất định phải tìm họ.
Người tôi nghĩ đến đầu tiên là Út. Tên Út, nhưng trong nhóm chúng tôi, có thể nói anh là người đầu đàn, là người bày ra những chuyến đi xa, gặp gỡ. Nơi xa nhất là Tây Ninh, gần nhất là ngôi nhà xinh xinh của gia đình anh, mà anh được sở hữu một khoảng không gian rất riêng, cho phép bạn bè đến tụ tập, đàn hát những ngày nghỉ học. Ca hát, nhưng đôi khi những câu ca bỗng trở thành những lời tán tỉnh như thật, như đùa. Đắm đuối nhìn nhau nghêu ngao “Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng”(3) chưa đủ. Táo bạo hơn, có chàng dám cầm ly nước chanh của một nàng đưa lên cao, không phải để ngân nga uống ly chanh đường, uống môi em ngọt… (4), mà chỉ nheo mắt cười với nắng và mơ mộng hỏi mây rằng: môi đâu, môi đâu? Hình như đó là một tiểu tiết trong cuốn “Vòng Tay Học Trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, mà có lẽ những cô cậu học trò sinh viên ngày đó đều tò mò tìm đọc.
Út có tính khôi hài, dễ thân thiện. Tôi và NL thân với anh hơn những bạn khác. Nhà của hai Lan cùng một đường, chỉ cách nhau một con ngõ nhỏ. Thỉnh thoảng anh đến nhà tôi với dăm ba câu chuyện, rồi tạt sang nhà NL. Út có người anh trai giữ một chức vụ quan trọng trong guồng máy chính quyền thời đó. Tôi nghĩ, gia đình anh có lẽ đã rời khỏi đất nước trong những ngày biến loạn. Nhưng không tìm anh, thì tôi biết tìm ai bây giờ. Đó là một cánh cửa gần nhất may ra tôi có thể mở được.
Và chúng tôi đã tìm thấy nhau, nghe lại giọng nói, nhìn nhau cười đùa qua màn hình điện thoại.
Người đi, người đến.
Tuần trước tôi ngồi với một người đàn ông trên một bãi cỏ, trong một không gian bao la vắng lặng. Mỗi người một góc, cả hai chúng tôi cùng xếp bằng dưới một khoảng đất trống mà diện tích đã được đánh dấu, phân chia. Một khoảng đất nhỏ hẹp nhưng sâu thẳm bên dưới là cả một kiếp người. NL đã đến đây, nằm đó, trong ngôi nhà thiên thu của đời cô chỉ vừa được đặt nền, chờ ngày xây cất.
Nơi chúng tôi ngồi không một bóng cây. Chỉ có bóng mát khiêm nhường của cây dù mà người đàn ông mang theo được nghiêng bên này, ngả bên kia. Anh đang cố che chắn cho tôi tránh khỏi những ánh nắng chẳng mấy dịu dàng giữa trưa khô khốc. Sự tử tế ân cần của anh làm tôi nhớ vợ anh tha thiết.
Tôi vuốt ve, thầm thì với những nhánh cỏ lởm chởm trên đất khô về những buổi trưa tôi ra đầu ngõ chờ bạn đến, hoặc NL đã đứng đó đợi tôi. Nắng ngày ấy cũng chẳng khác nắng bây giờ. NL thùy mị, điệu đàng hơn tôi. Nên dù đi học hoặc đi chơi bằng chiếc xe Honda Dame của nàng hay xe Yamaha của tôi, tôi vẫn là người cầm tay lái. Thuở chưa biết yêu người, tôi yêu thứ cảm giác lâng lâng cùng xe trôi vun vút trên đường. Mặc cho tóc rối, da khô, đôi bàn tay rám nắng. Nhưng NL thì không, con nhỏ khôn ghê, cứ nép sát vào lưng tôi trốn nắng. Tôi nhỏ con hơn NL, nhưng lại là người che chở nắng mưa cho bạn mình. Dẫu buồn cách mấy, người đàn ông vừa mất vợ phải cười khi nghe tôi kể công, khoe với anh những ngày tôi đã rất anh hùng, đã “hy sinh nhan sắc” cho vợ anh như thế nào.
Một ngày, qua bao chuyện vui-buồn của tôi và anh với người đã khuất, đủ để chúng tôi trở nên thân thiết. Trước khi trầm mình trong cơn bệnh, NL đã mơ một lần được đến Paris, nhưng chuyến tàu cuối cùng của đời cô đã cập bến quá nhanh. Tôi nói với anh, anh cũng có thể đến Paris cùng linh hồn cô ấy. Tôi sẽ đưa anh vào Giáo đường Notre-Dame, hay vào Vương cung thánh đường Sacré-Cœur trên đỉnh đồi Montmartre cầu nguyện. Đó là điều tôi mong mỏi.
Và bây giờ tôi đang đứng với Khiết trên một con dốc của Alum Rock Park, một công viên rộng như rừng ở miền Bắc Cali. Tôi nhìn xuống hai bên triền dốc. Cỏ chớm thu chưa vàng, những vòng xanh thoai thoải, nhấp nhô, lại làm nhớ những mùa hè ở một nơi khác. Cũng đồi dốc, suối khe, chỉ thiếu những bờ cát mỏng.
Ngày đó, với hai Lan nhí nhảnh hồn nhiên còn thêm một Mai Anh nghiêm trang chững chạc vì cô đã xếp áo học trò, theo đời cơm áo sớm hơn những người bạn cùng trang lứa. Giữa ba cô gái là một Út thông minh hoạt bát, luôn tạo ra những tiếng cười giòn giã; là một Tánh điển trai đa tình, ăn mặc chải chuốt, lúc nào cũng buông ra những câu nói tình tứ mặc cho người nghe (là tôi) nghĩ sao cũng được; là một Quyền hồn nhiên sôi nổi. Với những thứ mà Quyền có thời đó, nói theo ngôn ngữ thời này thì người ta sẽ gọi anh là một “thiếu gia”.
Mai Anh giờ lưu lạc chốn nào? Khiết còn giữ được gì trong ký ức của anh về tôi thuở đó? Tôi chỉ nhớ một anh chàng hiền lành lặng lẽ, thường tìm một góc nào đó ngồi nghe lũ bạn cười nói ồn ào. Khiết ngày xưa gầy ốm thư sinh, giờ cao to tráng kiện. Nếu tôi nói ra điều này, có thể anh sẽ dạy cho tôi một bài học làm thế nào để giữ cho “thân-tâm an lạc”.
Chúng tôi đã già! So với những ngày đầy đặn nét thanh xuân, tôi bây giờ co cụm lại như thời gian phải cạn dần đi nơi mỗi kiếp người.
Đường trước mặt không còn nơi đến, tôi quay về thương nhớ một thời xưa.
Tôi đã đứng trên cao – ngồi dưới thấp với hai người bạn thời niên thiếu. Nơi vùng đất lạ, bỗng quay quắt nhớ quê nhà. Dường như chưa bao giờ tôi nhớ Sài Gòn đến thế. Nhớ những Chủ nhật tươi hồng với bao hẹn hò háo hức. Tôi dắt xe ra khỏi nhà, lòng ngẫu nhiên vui khi nghe những câu ca được phát ra từ máy thu thanh của nhà hàng xóm. Tôi chạy xe thong dong dưới những con đường xanh lá. Khi dịu dàng trong đôi tà áo lụa, khi quần xòe rộng với áo ôm sát vai mềm, bờ lưng thon con gái. Thứ trang phục với những sắc màu, mang chút phong cách thời trang hiện đại. Tôi vẫn chưa quên thứ cảm giác mát rượi mơn man làn áo mỏng, những lọn tóc dài xác xao bay theo từng cơn gió chướng của Sài Gòn những ngày bão rớt.
Áo cũ, đường xưa chỉ còn trong tâm tưởng. Nhưng những đời cây trên hàng phố ấy là đời của trăm năm. Sao tôi không về, đứng dưới một rặng cây nào đó. Ngước ngóng, tìm nghe. Nghe lại tiếng chim hót cùng những tán lá trên cao, rì rào bao nỗi buồn vui của một thời hoa mộng.
Có con chim nào lạc hướng lại không mong được bay về phương trời cũ!
Đặng Mai Lan
( Paris tháng 4, năm 2024)
* Tựa được trích từ bài thơ “Ngôn ngữ Chiều” (Ngô Nguyên Dũng)
1- Paris có gì lạ không em (Nguyên Sa – Ngô Thụy Miên)
2- Tiễn em (Cung Tầm Tưởng)
3- Biết đến thuở nào (Tùng Giang)
4- Trả lại em yêu (Phạm Duy)