Đặng Mai Lan : Tháng 4, từ một bóng cây

Mỗi năm, vào độ cuối đông, những loại hoa được trồng trên phố, nơi công viên từ mùa trước hầu như đều được nhổ bỏ, thay thế bằng những loài hoa mới. Mùa xuân chưa qua, nên hoa vẫn rực rỡ muôn sắc màu dưới con nắng chớm hè.
Tôi không ngắm hoa, tôi dừng lại nơi một cội cây. Hai cánh tay tôi hẳn không thể nào ôm trọn hết vòng thân của nó. Nhưng nhìn nó không có vẻ gì to lớn lắm, cũng không cao ngất với lấy đỉnh trời, vì ngước lên, tôi có thể nhìn rõ những chùm lá nhòn nhọn đan nhau. Những chiếc lá kích cỡ như bàn tay của tôi. Lá không xanh màu biếc, lá đậm một màu rêu. Lá của một thân cây già nua đầy những vết nhăn, mà rễ của nó trồi lên khỏi mặt đất như cái xác khô của những sinh vật bò sát đã chết từ một kiếp nào.
Cách thân cây năm bảy bước chân là một trạm xe buýt, có băng ghế và mái che mưa nắng. Tôi thản nhiên như một người chờ xe, thích đứng một góc của riêng mình và hồn nhiên như một đứa trẻ. Tôi rờ rẫm mân mê những lớp vỏ khô ngoằn ngoèo, chia nhau những đường cắt thời gian. Tôi ngó lên những tán lá dày và chợt nghĩ đến một cơn mưa. Mưa rơi trên lá! Những phiến lá lặng lẽ kia, liệu chúng có đủ làm một mái dù che tôi khỏi ướt, nếu trời mưa?
Tôi không biết cây tên gì? Con đường này tôi qua lại khá nhiều lần sao bây giờ tôi mới nhìn thấy nó? Nó đã sống trên con phố này được bao lâu? Nơi đây không phải là Thảo Cầm Viên và nó cũng không là một loại thảo mộc đặc biệt để được khắc tên, đề bảng. Nó hiện hữu nơi này như bao loại cây khác, những sinh vật dịu dàng tỏa bóng đường trưa. Phố xanh mát, tươi vui vì cây, vì lá.
Tôi nhìn suốt con đường phía xa. Chút gió nhẹ, chút bụi đường bay lên… Dường như, hồ như, như thể… Tất cả những thứ “như” và “mơ hồ” nào đó đang lay động, chờn vờn trên đôi chân tôi trong chiếc váy hoa lấp lửng qua đầu gối. Áo mùa hè được may bằng một loại vải dệt từ những sợi lanh thô chống nóng. Chất vải không được mịn màng, thẳng thớm, nhưng sao cảm giác mát mềm như được vuốt ve từ một loại tơ tằm của áo cũ một thời nào, xôn xao từng tế bào da thịt.
Cuối đường ấy sẽ dẫn về đâu? Cây xanh ngăn ngắt. Trong cái khối xanh chập chùng giữa buổi chiều nắng ấm, cùng chút gió hiu hiu… Thứ không khí ấy có gì rất quen thuộc. Lòng tôi lâng lâng.
Bây giờ, đứng trên tầng lầu này, tôi vẫn nhìn thấy nó dưới kia, ngọn cây, nhánh lá. Trên cao nhìn xuống, những tán lá ngập nắng. Cái màu rêu buồn mà khi nãy tôi đã ngước nhìn lên xem chừng vui hơn, tươi hơn. Bóng cây đổ xuống đường. Bóng luôn là một hình ảnh đẹp, cái đẹp mong manh vì dễ dàng tan biến, đổi thay cùng ngoại cảnh. Nhưng nó không phải là ảo ảnh. Cách nào thì tôi cũng đã sống vui buồn với những chiếc bóng khi ẩn, khi hiện. Tôi sẽ không còn là tôi khi những chiếc bóng bay đi.
Tôi vừa lan man gì đây? Trước khi đến đây tôi đã muốn xua đuổi mọi thứ trong đầu…
Nơi tôi cần đến là một trong hai căn phòng được xây sát theo chiều dọc, trên tầng lầu của thư viện. Phòng khá rộng với những dãy bàn ghế xếp ngay ngắn như một lớp học và cửa phòng luôn được đóng kín. Gọi là kín nhưng tất cả những gì bên trong, đứng phía ngoài nhìn vào đều thấy rõ mồn một, bởi cửa phòng là một khung kiếng rộng, trong suốt.
Ngoài những kệ sách uy nghi, thư viện còn có những chiếc bàn tròn, những ghế bành thấp được đặt rải rác khắp nơi, mang đến một cảm giác thoải mái, mời gọi những bờ lưng. Ngồi đó, người ta có thể nhìn thấy đường phố, nhà cửa, cây cỏ, hoa lá bên ngoài qua những bức tường kiếng. Tất cả chừng ấy thứ cho thấy, đọc, không phải chỉ cần những trang sách.
Nhưng bây giờ tôi lại do dự không biết mình chọn chỗ ngồi nào? Vào hẳn trong căn phòng kia như bao lần hay ngồi nơi góc nhỏ này, trong chiếc ghế mây lót nệm mà vải bọc in hình những ngọn trúc xanh tươi mát, như có ý ngầm bảo chiếc ghế này được tạo ra từ những thân trúc ở một xứ sở nhiệt đới nào đó. Và biết đâu nó được mang đến từ Việt Nam.
− Lâu lắm mới thấy bà trở lại, có lẽ bà đang tập trung viết gì đó phải không?
Câu hỏi làm tôi giật mình. Tôi nhìn người đàn bà ngơ ngẩn:
− Tôi viết gì nhỉ? Tôi có viết gì đâu…
Nụ cười của người đàn bà như cái chốt khóa xinh xắn của một chiếc hộp ký ức. Chỉ nhấc nhẹ một nấc, chiếc hộp được mở ra. Gương mặt bà và những gì vừa hiện về trong tâm tưởng làm tôi cảm động.
Bao năm rồi tôi mới quay lại nơi này, vậy mà người quản thủ thư viện vẫn nhìn ra tôi. Hình như tôi chưa từng nói gì về mình với bà ấy, nhất là chuyện viết lách. Chúng tôi chỉ chào nhau khi tôi đến và chia tay lúc về. Nếu có, là vài câu chuyện về nắng mưa, thời tiết.
Bà ngồi nơi quầy tiếp tân này và tôi ngồi trong kia. Hai chỗ ngồi cách nhau bởi một lối đi nhỏ, nhưng vị trí cả hai nơi gần như đối diện. Vô tình hay cố ý tôi không rõ, nhưng tôi biết bà đã từng quan sát những động tĩnh của tôi qua bức tường thủy tinh trong suốt.
Phòng dành cho những sinh viên, học sinh đến luyện bài vở, nhất là vào mùa thi. Với họ, có lẽ tôi là người già nhất, và thường xuyên lui tới. Tôi không mang dáng vẻ của một cô giáo vào thư viện soạn bài, hay một nghiên cứu sinh đang dày công tìm tòi một luận án nào đó. Chỗ ngồi của tôi được thu hẹp gọn gàng, không một thứ sách vở, giấy tờ nào vương vãi trên bàn, ngoài chiếc máy tính. Tôi cũng không cắm dây nghe từ máy vào tai như bọn trẻ. Hoặc tôi đọc, hoặc tôi viết. Nhưng ai có thể mang máy đến thư viện ngày này sang ngày nọ chỉ để đọc. Hẳn bà đã nghĩ điều này. Tôi viết, bà ấy tin là tôi viết gì đó, cũng nào có sai.
Năm tháng ấy là những ngày hè mà cái nóng hung hãn khác thường. Tôi tìm đến đây tận hưởng thứ không khí mát lạnh là chính, viết là phụ. Bởi vì khi cần viết thì bất kỳ nơi chốn nào, ngồi đâu tôi cũng viết được. Ở nhà, một góc trong căn bếp nhỏ, cũng là một bàn viết lý tưởng của tôi.
Tôi hướng mắt nhìn vào căn phòng:
− Tôi không viết gì cả, tôi cần đọc. Tôi sẽ ngồi đây, dành chỗ trong ấy cho bọn học trò.
Tôi nói và chỉ chiếc ghế mây, nơi tôi có thể nhìn thấy tàn cây và con đường phía xa. Nếu muốn, tôi có thể đếm được bao nhiêu chiếc xe bus đã dừng lại trên quãng đường này.
Những lời tôi vừa nói với người đàn bà là những lời rất thật. Tôi không có một ý tưởng nào để viết trong lúc này. Nhưng tôi đến đây vì rảnh rang, vì cần một sự yên tĩnh. Dẫu căn nhà tôi ở, những tiếng động ồn ào chỉ có khi những cánh cửa sổ được mở ra.
Sau khi hoàn tất một cuốn tiểu thuyết. Một câu chuyện mà khi viết, tôi cảm tưởng như đang trầm mình trong một cơn sốt. Tôi mê man, mộng mị. Tôi viết như mở cánh cửa của một căn nhà từ lâu đóng kín. Căn nhà tôi đã từng sống và bỏ đi. Tôi hân hoan tìm lại những chiếc bóng của mình ẩn hiện trên từng đồ vật. Căn nhà có một chiếc tủ thấp nhiều ngăn. Mặt tủ đầy bụi bám và có những khe nứt ràn rụa, chạy dài theo từng sớ gỗ. Chúng như những giọt lệ tức tưởi vì bị ruồng rẫy, lãng quên.
Những gì đã được cất giấu bên trong các ngăn kéo kia? Tôi kéo thử một ngăn, nhưng không cách nào mở được. Một nơi không có sinh khí, hoang liêu, chiếc tủ không được ngó ngàng tới có khác nào một xác chết của thời gian, khác nào một quan tài.
Và tôi đã mở tung chiếc tủ, những ngăn kéo, bằng tất cả sức lực của mình. Ngôi nhà này không thể là một nghĩa trang, mãi mãi. Tôi phải tháo khối gỗ này ra từng mảnh nhỏ, mang nó ra khỏi nhà đến một nơi của riêng nó, một cánh đồng, một khu rừng, một hố sâu.
Tôi tưởng khi cái xác gỗ nặng nề không còn hiện diện trong ngôi nhà này nữa, ngôi nhà sẽ thoáng hơn, tôi sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Nhưng tôi lại chơi vơi như thân thể bị mất trọng lực. Tôi rơi trong tịch mịch buồn bã.
Nhiều tháng nay tôi đã như thế.
Cuốn sách được kết thúc cũng vào giữa tháng 4. Vì những háo hức, những cơn tỉnh-mơ của tác giả. Trong những trang chữ, có những chữ bị nhầm lẫn trở thành sự sơ suất tệ hại. Tôi tạo ra nó, nhưng không quyết định nó sẽ được ra đời vào khoảng thời gian nào. Sao lại là tháng 4? Mà đâu phải chỉ có cuốn tiểu thuyết ấy? Tôi còn bao nhiêu truyện ngắn mà những con chữ trượt ngã, chấp chới, hụt hẫng trên những muộn phiền.
Tháng 4, ngọn tháp cao lừng lững, đỉnh giáo đường, dòng sông, cây cầu xám, đền đài, và những pho tượng trên phố, vào những sớm mai, vẫn còn huyễn hoặc một màu sương đục. Nhưng những hoa cúc dại đã nở trắng trên bao thềm cỏ.
Tháng 4, thiên nhiên dậy thì, hứa hẹn một mùa xuân sắc. Những cánh primevère đủ màu đã hé cánh trên những mảnh sân, những con đường đất sau nhà. Chẳng bao lâu nữa sẽ là hoa muguet, jonquille, iris, lavande…, nhưng dường như tôi không còn háo hức với sự thay đổi sống động của mùa màng, thời tiết.
Tháng 4, tôi muốn đóng mọi cánh cửa. Cánh cửa của ký ức, tưởng tượng, tưởng nhớ.
Tôi không muốn thấy lại hình ảnh những chiếc tàu trên biển, những cánh tay chới với đưa lên, những vòng kẽm gai, những con mắt thất thần, ngơ ngác. Tôi không muốn nhìn thấy phố phường tán loạn, tan hoang. Nghe động cơ hối hả cất lời vĩnh biệt từ những khối sắt lạnh lẽo bay trên bầu trời. Những khối sắt lù lù chuyển mình trên phố tôi, nghiến nát bao lòng đường êm ả. Tôi không muốn nghe lại những bài hát não nề khúc ly hương, di tản. Tôi không muốn đọc báo, những bài báo mới hoặc cũ đều có những chữ “cuối cùng” hay “sụp đổ”. Những từ ngữ như những vết dao đâm.
Tôi không muốn nhìn thấy những bộ xương khô với những miếng kim khí hoen rỉ, mà cho đến bây giờ người ta vẫn tìm thấy nơi một góc rừng, một cánh đồng, một hầm hố…, một nơi của đất trên quê hương tôi.
Tôi muốn quên, quên luôn những gì đã viết ra, dù truyện tôi không hề có những hình ảnh tang thương này. Nhưng đó là một dấu mốc khởi đầu, nhỏ nhoi, nằm trong một vòng vây bao la nghiệt ngã của định mệnh, vận mệnh. Thứ vận mệnh thống khổ, phủ trùm lên số phận nhược tiểu của một dân tộc.
Một độc giả trẻ nói rằng: văn chương tôi được viết bằng một ngòi bút tận tụy với quá khứ. Bạn đâu biết, khi mở lại những ngăn ký ức, dù đẹp, dù vui là đã tự bóc ra những vết thương của chính mình. Những vết thương không bao giờ lành, vì chúng ta đã mất đi nơi chốn mà từ đó những kỷ niệm đã được sinh ra. Cách nào thì tất cả đã mất từ một mùa xuân.
Tháng 4, tôi muốn quên tôi, đừng là tôi nữa.
Nhưng làm sao tôi có thể hóa thân là một người khác?
có người Việt nào không thương về dĩ vãng
có người Việt nào không tôn thờ kỷ niệm
có người Việt nào không cảm nhớ chiều
có người Việt nào không hoen ướt mưa [1]]
Phải rồi, tôi cũng như bạn thôi, hỡi người họa sĩ làm thơ!
Tôi là người Việt Nam không còn tuổi trẻ, không còn tương lai để hướng tới. Tôi ngoái về quá khứ, quá khứ của một người Việt ly hương, từ một quê hương rách nát.
Tôi ngồi đây với chiếc máy tính. Tôi không viết, không đọc. Tôi ngồi ngắm một tàn cây trong nắng. Chỉ là một thân cây già nua, những bóng lá, đường trưa và những hạt bụi vô hình cũng khiến tôi nhớ phố xưa. Nhớ những cơn mưa nhỏ ngày nào rơi đều trên lá, những cánh áo tình nhân dập dìu, vui, chiều hò hẹn.
Nếu còn viết nữa, những con chữ của tôi lại sẽ nói về những phiền muộn, những chiếc bóng âm u tiếc nhớ. Không thể nào khác hơn, vì những chiếc bóng thủy chung như hơi thở, chúng sẽ theo tôi đến cuối đời. Nhưng thực sự, bóng theo tôi hay chính tôi đã khư khư ôm giữ nó như một thứ gia tài chắt chiu, dành dụm? Tất cả được trải rộng bằng chữ. Tôi và chữ, chữ và tôi lại cùng nhau thủ thỉ những nỗi buồn, nếu tôi còn viết nữa.
Ngồi nơi này, trong ánh nắng chiều chợt tưởng về một nơi khác. Bóng ngày chập chờn, hòa nhập bóng đêm.
Đêm, trăng thật sáng, sương thật mềm
Ngày, nắng-gió cùng hương khói bay lên
Nơi, một không gian bát ngát tịch lặng, mặc nhiên đón nhận bao thời tiết của đất trời. Vì những con người ở đó không kêu ca, than phiền hay kháng cự.
Một nơi, đất thơm lừng mùi vàng mã.
Tháng 4, tròn 50 năm thương tiếc. Trọn vẹn nửa kiếp người. Nhưng từ đó đã là một thiên thu.
Đặng Mai Lan
(Mùa thương tiếc/ 2025)
[1] Thơ của Đinh Trường Chinh