Đào Như: Nhớ về “Một cái Tết ở Hà Nội”
Sau hơn bốn mươi năm dừng chân ở đất tạm dung, phần nhiều chúng ta đã hơn hai màu tóc trên đầu, nhưng vẫn còn nhớ sao chợ Tết. Cây tre nêu, tràng pháo chuột nổ lép bép ngoài sân hiện ra trong tâm hồn chúng ta đậm đặc từng nét trong những ngày cuối tháng Chạp. Nhớ khói hương ngày Tết như nhớ mùi sữa mẹ thuở còn nằm nôi. Dù cho có hay không ăn Tết đi nữa, không ai chối cãi được: “đi chợ Tết”, “sắm Tết, “ăn Tết”, “chúc Tết”…đã là một góc văn hóa của dân tộc, một phần của quá khứ thân thiết của đời mình. nhất là cho những ai vừa ngoài bảy mươi, tám mươi như chúng tôi.
Nhớ Vũ Bằng, sau khi di cư vào Sàigòn năm 1954, chỉ cách Hà Nội không đầy hai ngàn cây số, cùng trên quê hương đất nước. Đến những năm sáu mươi trong tâp truyện ngắn “Thương Nhớ Mười Hai” của ông, Vũ Bằng cũng ra riết nhớ Tết ở ngoài Bắc, nhất là chợ Tết trong làng quê miền Bắc hay của Thăng Long, Hà Nội tại các chợ Bằng, chơ Mơ, chợ Ô cầu Dền, chơ Đồng Xuân, chợ Ngầm, chợ Đệp…đã thành những hoài niệm Tết của Vũ Bằng.
Từ những năm 1939-40, nhà thơ Thê Húc-Phạm Văn Hạnh-trong một đoạn phiếm du, đã miêu tả “Một Cái Tết ở Hà Nội” năm xưa: “Tết năm nay tôi ở Hà Nội. Và cũng phần nhiều năm kể từ hồi nhỏ. Vì Hà Nội là quê tôi, tuy ông bà tôi ở mãi xa kia, bên bờ sông Bassac, cuồn cuộn ánh sáng quanh năm.
Ăn Tết với tôi là “sắm Tết”. Trong con mắt tôi, Tết chỉ có mấy ngày trước. Đến, là hết rồi. Xuân qua cho tôi cái cảm giác là lúc nở với lúc tàn cùng trong một phút mà tiếng pháo đầu năm khua động trong lòng tôi những đường tơ đau đớn lạ lùng.
Nên mấy ngày trước Tết tôi sống mãnh liệt, sống trong chờ đợi…cái phút đương qua.
Tôi đi lên, đi xuống mấy phố Hàng Ngang, Hàng Đào, rồi vào chợ, rồi đứng tần ngần
trước cửa hiệu các chú khách. Người ta đi lại sắm Tết. Tôi cũng vậy. Và cùng nhiều bạn thiếu niên như tôi (kể cả các bạn gái). Chúng tôi nhiệt thành lặn lội trời mưa phùn lấm láp, vui sướng nhìn cả một vườn đào cử động trên các ngả đường. Hình như được chen lấn trong đám đông, vội vàng hớn hở, lòng tôi cũng hớn hở vội vàng?
Mấy bức tranh tàu xanh đỏ giữ tôi lại hàng giờ. Chú khách Vân Nam bán hàng, áo bông trứng sáo dài quét gót, vòng tay dấu trong tay áo như một phép thuật lạ. Tôi ngỡ một tiên ông ở phương xa đến thử khách trần, và bức họa mỹ nhân cặp trên tường nhìn tôi hữu ý…
Quay lại, những bức họa lòe loẹt con gà, con cóc, như ở các truyện cổ tích chun ra, làm sống lại cả một thời xưa. Tôi thấy tôi đi “khám phá cuộc đời”, cái gì cũng đượm vẻ huyền bí, cái gì cũng nhuộm một mầu tươi.
Pháo, câu đối, cam, hoa đào, cho đến môi người thiếu nữ, cảnh vật là bản nhạc theo điệu hồng.
Nhưng sao lòng tôi chưa lên tiếng tiếng họa, hay còn đơi khúc Bạch Tuyết Đương Xuân?
Vì lòng tôi vốn dĩ như vậy, ở giữa cảnh xanh tươi còn khao khát cảnh xanh tươi, và vẻ đẹp bên mình chỉ khêu nỗi nhớ nhung một vẻ xa vời, báu lạ. Tôi nhớ đến một người đàn bà gặp một buổi chiều chợ Tết năm kia, “Nàng” bận tang phục bằng hàng đen, tóc vấn dối, phấn đánh qua loa. Một mùi thơm đầy sắc dục theo nàng như từ trong phòng ra. Lách trong đám muôn hoa, nàng chỉ mua mấy bó hoa Violettes còn ở chợ. Rồi đi…Tối hôm ấy, khi về nhà, tôi không còn ngửi thấy mùi đào, mùi cúc nữa, và nằm mơ như một trận mưa tím bay tỏa khắp bên mình.
Tôi lần lần đi ngược những năm về trước, mỗi năm đều để lại cho tôi một hình ảnh đẹp, hình ảnh của một người đàn bà. Cũng bận đồ đen và con mắt còn đen hơn nữa…
“Nàng” ngồi xe điện, nàng vào các cửa hàng, mua một cành hoa. Rồi đi…không bao giờ gặp lại…
Năm nay tôi lại gặp một hình ảnh đẹp. Trước cửa một hiệu thuốc Bắc, một chàng Cao Ly đứng bán hoa lạ. Trên biển giấy đỏ cắm ngay bên cạnh đề mấy chữ ” Hợp Thời Mẫu Đơn Hoa Vương”. Hỏi giá, không hơn hai chục bạc; còn hoa, chơi đến tháng ba chưa tàn. Đành là chưa mua được, nhưng tự nhủ là cũng chưa ai mua, tôi đứng lại ngắm những buổi bình minh hé trên mấy hoa hồng phớt, và lặng chờ một Giáng Tiên sắp sửa qua, vô ý vướng gẫy một cành…
Nàng Giáng Tiên không bao giờ qua.” (*)
Dù “nàng Giáng Tiên không bao giờ qua”, nàng Giáng Tiên không trở lại chùa Phật Tích ở Kinh Bắc để vướng gẫy một cành “Hợp Thời Mẫu Đơn Hoa Vương” một lần nữa…Dù cho chúng ta có ăn Tết hay không ăn Tết nữa, văn hóa Tết đã là một phần văn hóa của dân tộc, là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca và âm nhạc. Ăn Tết, hoài niệm Tết vẫn là mạch sống rạo rực khơi động tâm hồn chúng ta mỗi độ Xuân về…/.
Đào Như
(*) Trích từ “Giọt Sương Hoa’- tác giả Phạm Văn Hạnh-Hà Nội-1941