Hoàng Hưng: Trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều. Vài ghi chép khi đọc lần đầu.

“Tự do, Thượng đế ban cho đồng loại của chàng ở khắp nơi. Như Người làm ra nước cho những con cá. Làm ra bầu trời cho những cánh chim. Làm ra lời cho những đôi môi. Làm ra tình yêu cho người đàn ông và người đàn bà. Một ngọn cỏ tự do làm thành thảo nguyên. Một cái cây tự do làm thành cánh rừng. Một con cá tự do làm thành biển cả. Một con chim tự do làm thành bầu trời. Một con người tự do làm thành vũ trụ”.

Bìa sách in đoạn thơ này, liệu có thể coi là “tuyên ngôn” hay “chủ đề” của Trường ca?

Một tấm bảng tuyệt vời trước cổng, không khỏi khiến ta háo hức mở cửa lâu đài! 

Đó chính là một đoạn trong chương 14 “Vũ điệu Tự do”, một trong những chương hay nhất của trường ca, có thể đọc như một bài thơ độc lập, một “tuỳ bút thơ” ca ngợi Tự do rất đẹp đẽ, hào hùng! 

Lời tâm sự đầu sách của tác giả cho biết: Lò mổ là một cảnh sống thực đã ám ảnh ông da diết, vào cả “những đêm mộng mị và cả cơn bệnh tật tinh thần…”. Ám ảnh của câu hỏi lớn lao: “đời sống tôi đang sống có thực là một đời sống?”

Chương một “Có phải chúng ta tội lỗi?” như sự triển khai câu hỏi trên, mở ra nhiều câu hỏi về sống-chết-sinh thành, về tình yêu, về ngôn ngữ… Những câu hỏi miên man về đời sống khiến nhân vật trữ tình chủ yếu của trường ca là “chàng” phải ra đi để tìm lời giải đáp.

Chương này cũng là một “tuỳ bút thơ” đặt vấn đề, rất kích thích sự chờ đợi của người đọc.

Và… có sự “nín thở” để xem tác giả phát triển, xử lý thế nào “vấn đề” quá rộng lớn và phức hợp ấy?

Chương hai “Mộng du” mới thực sự là cảnh mở đầu: LÒ MỔ với chân dung ông đồ tể lão luyện, người “dạy chàng nghề giết bò”; với bức tranh một màu “đỏ tối” khắp nơi; nằm trong một thành phố “của những tiếng rống”, “ngập tràn những búa”. Phải chăng LÒ MỔ là biểu tượng của ĐỜI SỐNG trong hình dung của tác giả?

Một biểu tượng thành phần quan trọng của nó, sẽ được hiển thị bằng bút pháp calligramme (thư đồ thi, một sáng tạo của Guillaume Apollinaire đầu TK 20): những chữ “ruồi” đậu kín 15 trang của chương ba! (có lẽ không nhất thiết phải có để tạo thêm sức mạnh cho tác phẩm, ngược lại tính “hình thức chủ nghĩa” [formalistic] của nó lại đối lập và có thể làm hại cho việc triển khai biểu tượng ngôn ngữ chung của cả tác phẩm?

Cũng không mấy thuyết phục về thử nghiệm hình thức là chương 10 “Trong hầm mộ ngôn từ” với những bản thảo không hoàn chỉnh!

Có lẽ các thử nghiệm mang tính hình thức không phải thế mạnh của tác giả? 

Biểu tượng Lò mổ-Đời sống sẽ được gặp lại trong các chương 6 “Đôi mắt thiên thần” với nhân vật “chàng” từ Lò mổ đi ra cuộc đời bên ngoài mang nặng những ám ảnh của Lò mổ như “những bông hoa máu” và câu hỏi: “sống trong một cái chết hay chết trong một đời sống?”, “tại sao tôi không thể rời bỏ nơi này?”; chương 12 “Con bò mùa thu” với hai nhân vật: con bò bị giết và chàng, cảnh giết chóc diễn ra như một “nghi lễ thiêng liêng trên mặt đất đau buồn”; chương 16 “Phán xử” – màn “kịch thơ” với 3 nhân vật: Lão đồ tể – chàng – bày ruồi, với thông điệp cái ác không thể được tha thứ!; chương 18 “Hãy đứng dậy” là cảnh con bò cuối cùng bị giết và con bê chào đời dưới ánh sáng của Niềm Tin vào Chúa! 

Những chương khác, lại như độc lập với Lò mổ – biểu tượng chung của tác phẩm, là những những “tuỳ bút thơ”, “triết lý thơ”, “song tấu thơ” với những chủ đề khác nhau: sự sống-cái chết (chương 4 “Sân ga thời gian”); sự cứu rỗi của Đấng tối cao (chương 7 “Hãy ngước lên”); ảo ảnh (chương 8); tình yêu và cái chết (chương 11 “Đội danh tình yêu”); cuộc sống vĩnh hằng sau cái chết (chương 13 “Cánh đồng bất diệt”); Tự do (chương 14 “Vũ điệu tự do”), tình Mẹ (chương 15 “Thư gửi Mẹ”); sự thú tội và chuộc tội (chương 17 “Lời cầu xin”).

Và… khá nhiều chương trong số đó là những bài thơ hay!

Có lẽ tác giả chưa đủ sức xử lý quá nhiều chủ đề lớn như thế trong một cấu trúc chặt chẽ mà người ta thường trông đợi ở thể loại “trường ca”! Ôi, những cấu trúc lớn như tiểu thuyết trường thiên, giao hưởng… chưa bao giờ là thế mạnh của người Việt! 

Song, quả thực tôi chưa đọc một tập thơ nào của Việt Nam mang nặng tính biểu tượng-triết lý như thế về tổng thể đời sống con người, với nhiều mặt phức tạp, phi lý, đối lập, ngổn ngang, với nhiều câu hỏi thống thiết, với giọng thơ bi tráng, trí tưởng tượng mãnh liệt, bút pháp đồng hiện và siêu thực, liên tưởng bất ngờ… 

Muốn xui tác giả bỏ công dựng một đêm trình diễn sân khấu cho tác phẩm này, với bài trí của chính hoạ sĩ, chắc chắn sẽ là đóng góp đầy ấn tượng cho sinh hoạt Thơ Việt Nam hôm nay!…

Hoàng Hưng