Hồi ký của Dương Như Nguyện: Kiến thiết Quốc Gia, thế hệ nằm xuống, những mất mát, và giấc mộng vỡ

Luật sư, Thẩm phán, Nhà văn,
Nhà thơ Dương Như Nguyện

I.

ÔN CỐ TRI TÂN:  CÂU CHUYỆN VĂN CHƯƠNG CUẢ 30 NĂM TRƯỚC 

Ghi chú cuả tác giả: Năm 1993, nguyệt san Thế Kỷ 21 (“TK 21”) đăng bài hồi ký dưới đây cuả tôi, “Nhữ ng Cỗ Quan Tài Cuả Tĩnh Tâm.” Độc giả Nguyễn Hà ở New Jersey yêu cầu TK21 đăng bản tiếng Anh cho thế hệ con cháu cuả mình. Tôi không nhận được lời yêu cầu đăng trên mặt báo. Mãi đến gần 30 năm sau, tôi tìm được số báo trong nhà của song thân sau khi ông bà đã qua đời. 

Tuy nhiên, sự tương ứng giữa tác giả và độc giả không bao giờ là quá trễ. 

Bản tiếng Anh mà độc giả Nguyễn Hà yêu cầu chính là khởi thủy tiếu thuyết lịch sử “Con Gái Cuả Sông Hương,” Tôi ký tên là Ng.Uyên Nicole Duong, xuất bản bởi Ravensyard Ltd. năm 2005 (bàn dịch Việt ngữ cuả Tiến Sĩ Linh Chân Brown), Lake Union tái bản năm 2011; trước đó, hồi ký ngắn tiếng Việt này nằm trong tập truyện “Mùi Hương Quế” xuất bản bởi Văn Nghệ, Calfifornia, năm 1999.  

Ray rứt vì vô tình bỏ qua trong 30 năm lời yêu cầu tha thiết cuả độc giả khi hồi ký mới ra đời, tôi đã khai triển ý kiến cuả thân phụ tôi về hồi ký ngắn này, và đưa một ấn bản mới có ý kiến cuả thân phụ tôi trong ấy.  Ý kiến đóng góp cuả thân phụ tôi, cố giáo sư Dương Đức Nhự cuả Đaị Học Văn Khoa Saigon cũ, đã được in đậm trong ấn bản online sau đây.  

Đồng thời tôi viết một ký sự bằng tiếng Anh kể lại sự thành hình hồi ký tiếng Việt này, qua cách mô tả tương quan giữa cha và con gái, dành cho các thế hệ mai sau.  Ký sự ghi lại vài nét chấm phá về  cuộc chiến tranh Đông Dương, công cuộc kiến thiết quốc gia (nation-building) cuả VNCH từ cuộc di cư 1954, và việc gia nhập vào dòng chính cuả phụ nữ tỵ nạn sau cuộc đổi đời năm 1975.  Ký sự mô tả một phần cuả quá trình phát triển nền văn học tiếng Việt ở Mỹ, thập niên 1990, và ôn lại hành trình văn hoá chủng tộc cuả người Việt tỵ nạn ở Mỹ qua việc xuất bản văn chương sáng tạo tiếng Việt. Cả hồi ký tiếng Việt và ký sự tiếng Anh đều được viết theo dạng tiểu thuyết (novelistic art): có người kể chuyện (narrator), nhân vật chủ thể (protagonist), nhân vật phản thể (antagonist), sự căng thẳng cuả vấn đề (literary conflicts), và cao điểm/nút thắt mở để kết thúc (climax/resolution/denouement). 

Hy vọng ký sự viết bằng tiếng Anh này sẽ đến tay độc giả Nguyễn Hà cho thế hệ con cháu cuả ông/bà. 

***

II.

Nhìn lại: Những Cỗ Quan Tài của Tĩnh Tâm

Câu chuyện cuả dòng sông và tinh tú

Hồi ký ngắn được tiểu thuyết hoá (literary petit memoir), ấn bản 2023

©Dương Như Nguyện (DNN) ©1988;2023

Tranh Đinh Trường Chinh

Người đàn bà đẹp đầu tiên tôi gặp trong đời là bà ngoại tôi. Khi tôi có trí khôn thì bà ngoại tôi đã ngoài sáu mươi tuổi. Ở tuổi đó, người bà vẫn thẳng, tóc dài gần chấm đất, tuy đã muối tiêu nhưng vẫn còn óng ả, lướt thướt. Bà có chiếc mũi dọc dừa, gò má cao, cặp môi mỏng và con., Khuôn mặt xương xương mang nỗi buồn u uẩn, thanh tao của một phụ nữ quý phái, có nét phảng phất giống Martha Graham, nhà vũ đạo nổi tiếng cuả Hoa Kỳ. Đó là những đường nét rất hiếm thấy trên khuôn mặt phụ nữ thuần túy Việt Nam.
Bà ngoại tôi pháp danh là Tĩnh Tâm. Tên thật của bà là Hương Quế. Xứ Huế đã đặt cho đàn bà những cái tên đẹp lạ lùng: Yên Chi, Dạ Khê, Tiểu Bích, Tú Thiềm, Phiến Tuyết, vân vân.

Mọi người chung quanh cho rằng bà ngoại tôi là một người đàn bà khó tính, khắc nghiệt và lạnh lẽo. Bà có một chứng bệnh không bác sĩ nào chữa được. Đó là bệnh nóng cổ. Cổ bà nóng và rát, làm bà ray rứt, khó chịu, ăn ngủ không được, người đâm bẳn gắt. Bà ngoại tôi rất chiều con cháu, nhưng hay la mắng, rầy rà gia nhân. Mẹ tôi là con độc nhất của bà. Gả mẹ tôi cho ba tôi là người Bắc di cư, bà ngoại tôi luôn luôn mang nỗi buồn phải xa đứa con một.

Tôi chưa hề thấy bà ngoại tôi khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Bà ngoại thích coi cải lương, say mê. Nhiều khi xúc động, bà khóc sụt sùi. Con người tình cảm ấy không thể nào khắc nghiệt hay lạnh lẽo. Khi bà la mắng người làm, giọng bà như độc thoại, buồn như một điệp khúc than thở, không hề có tính cách đay nghiến của một người chủ thiếu lòng nhân. Lúc về già, người độc nhất mà bà cằn nhằn là ông ngoại tôi. Nhiều khi không duyên cớ. Ông ngoại tôi người nhỏ bé, gầy gò, tính vui vẻ, hồn nhiên. Bà con gọi đùa là Lão Ngoan Đồng như trong truyện kiếm hiệp. Khi bà ngoại tôi càu nhàu, ông ngoại tôi chỉ phớt tỉnh, ngồi đọc báo.

Mẹ tôi kể cho tôi nghe cuộc đời bà ngoại. Bà chỉ có một người chị gái sinh đôi. Hai chị em con quan xứ Huế, gia đình phong lưu trưởng giả. Người chị gái, bà Ấm, lấy chồng đông con nên vất vả. Bà ngoại tôi lấy ông ngoại tôi là con quan, được đủ miếng ăn thì lại phải chịu những đau đớn khác.

Ngoài cảnh làm dâu trong chế độ gia đình phong kiến, bà ngoại tôi là một người mẹ xấu số. Đẻ ba con trai đều chết cả ba. Mẹ tôi thì èo uột, hay đau ốm. Bà ngoại phải đem cho chùa, đổi tên, cho thần thánh khỏi bắt đi. Vì không có con trai, bà phải cưới vợ hầu cho ông ngoại rất nhiều lần. Mẹ tôi kể có lần bà phải nằm giường sát phòng hợp cẩn của ông ngoại và người hầu trẻ. Ông ngoại tôi là một thứ “ông phán” phong nhã, hào hoa, có không biết bao nhiêu vợ hầu vợ lẽ. Không có con trai, bà ngoại tôi phải nuôi con nuôi, hoặc con trai của những người vợ hầu. Những người con trai này lớn lên (trừ người con út) đều phụ công nuôi dưỡng của bà ngoại tôi, gây hoạ cho gia đình, rồi bỏ đi.

Thuở nhỏ tôi không hiểu được lòng ưu uất của người vợ lớn là bà ngoại tôi, cũng như nỗi cô đơn của bà. Ở tuổi thơ ấu, tôi không hiểu được căn bệnh nóng cổ của bà. Mẹ tôi bảo bà tưởng tượng ra bệnh. Tôi thì cho rằng bà nóng cổ vì hay hút thuốc lá Cẩm Lệ.

Tôi lớn lên trong lòng thương và tình quyến luyến của bà ngoại. Có lẽ tôi đã lây tính đa sầu, đa cảm, hay khóc thương phận người của bà. Tuy trí óc non nớt, tôi cũng biết bà ngoại là người hay phiền muộn. Bà thích tôi ngồi coi cải lương với bà, một điều mà bố tôi cấm đoán. Tôi tự cho mình là người bạn nhỏ của bà. Tôi tự nguyện lớn lên sẽ làm cô giáo, mua nhà ở Huế cho bà ngoại ở.

Tôi nhớ mãi có lần tôi bắt gặp bà ngoại tôi nhỏ lệ, không phải vì tuồng cải lương hay vì giận ông ngoại. Nước mắt bà thấm ướt mái tóc dài. Tay bà run rẩỵ. Bà kể cho tôi nghe về một hình ảnh mà lâu lâu bà vẫn thấy trong một giấc mộng đã ám ảnh bà cả đời. Bà dặn dò tôi đừng kể cho ai nghe, kể cả mẹ tôi.

Trong giấc mộng ấy, bà ngoại tôi, người đàn bà đẹp xứ Huế mang pháp danh Tĩnh Tâm, ngồi một mình bên một dòng sông tĩnh lặng. Có thể là dòng Hương Giang, có thể là con sông Bến Ngự, hoặc có thể là khúc sông chảy qua làng Cồn, sau Đập Đá. Trên dòng sông, có những cỗ quan tài trôi từ từ, lặng lẽ.

Người đàn bà ngồi đợi để vớt những cỗ quan tài.

Giấc mộng chỉ đến đó thôi, rồi bà ngoại tôi tỉnh dậy.

Bàn tay nhỏ bé của đứa cháu gái bé nhỏ là tôi lau nước mắt cho bà ngoại tuổi ngoài sáu mươi. Tôi không thấy sợ, chỉ thương bà ngoại tôi nằm thấy ác mộng. Cơn ác mộng lặng lẽ và im lìm, không tiếng động.

***Càng lớn, tôi càng nhớ mãi về giấc mộng của bà ngoại tôi. Có lần tôi hỏi, “Ngoại có biết trong quan tài có gì không?” Bà lắc đầu, không nói. Cái lắc đầu của bà có nghĩa gì tôi không rõ. Bà không biết trong quan tài có gì, xác của người thân, xác của người lạ? Hay là bà lắc đầu vì không muốn trả lời câu tôi hỏi.

Tôi vẫn thắc mắc mãi tại sao bà ngoại tôi nằm mộng thấy quan tài? Tại sao bà mang nhiều phiền muộn? Bà tương đối là được sung sướng vật chất và đời sống được bảo đảm. Trong khi cả nước khổ cực theo chiến tranh, theo nạn đói năm Ất Dậu, theo cuộc kháng chiến chống Pháp và những ngổn ngang của lịch sử, thì bà ngoại tôi vẫn may mắn làm người thiếu phụ quý phái đất thần kinh.

Năm mười lăm tuổi, tôi đủ thông minh để phỏng đoán là những cỗ quan tài trong giấc mộng tượng trưng cho những cái chết của ba người con trai bà. Không có con trai là thảm kịch của cuộc đời bà ngoại tôi. Có thể những cỗ quan tài ấy tượng trưng cho nỗi đau khổ của bà khi phải chứng kiến những cái chết của những đứa con trai nhỏ vì bệnh sài kinh. Những cái chết là sự hủy diệt sức sống và lẽ an vui của đời bà. Không có con trai, bà sớm mất tư thế trong gia đình. Nghe chuyện, tôi cảm thấy bất mãn cái vô lý, vô nhân của một xã hội chuyên chế đã gây nên sự đau buồn cho bà ngoại. Đồng thời, giấc mộng của bà làm tôi suy nghĩ đến cuộc đời của những phụ nữ Việt Nam khác trong dòng họ tôi.

Trái với bà ngoại tôi, bà nội tôi không có một cái tên quý phái cuả xứ Thần Kinh. Bà nội tôi là con một cụ đồ hay chữ ở Sơn Tây. Vì thế, tuy con gái không được đi học, bà tôi lại thuộc lòng Tam Tự Kinh. Bà thấp lùn, nước da trắng nõn, mặt tròn trịa, phúc hậu, tính tình đơn giản, nhu mì, không bao giờ bẳn gắt. Lấy ông nội tôi là người chủ ruộng, bà nội tôi vẫn phải làm việc vất vả, quán xuyến việc đồng áng, nhà cửa. Rồi hai ông bà bỏ hết của cải, ruộng vườn di cư vào miền Nam, để tránh cuộc đấu tố. Lúc mới vào Sài Gòn, bà tôi phải đi gánh nước thuê, hằng ngày phải dậy từ ba giờ sáng đi bán xôi rong để nuôi gia đình cho đến khi bố tôi được bổ đi dạy. Bố tôi bảo bà nội lùn xủn vì suốt đời phải gồng gánh bưng xách. Những gồng gánh bưng xách đã hủy diệt sức lớn trong xương cốt của bà từ thuở còn là thiếu nữ.

Càng về già, bà nội tôi càng say sưa kể lể những chuyện quá khứ ở miền Bắc Việt Nam. Bà là nạn nhân của tục tảo hôn. Bà bị gả cho một cậu bé trai lên bảy. Buồn tủi, bà trốn về nhà cha mẹ. Sau đó, bà lấy ông nội tôi là con nhà địa chủ. Bà trông nom tá điền, lại phải làm dâu, rồi cũng phải để ông nội tôi lấy vợ bé, và là con dâu trưởng, bà luôn luôn đứng mũi chịu sào, tảo tần sương gió. Sinh đẻ hơn mười lần, chỉ nuôi được năm. Trong cuộc chiến tranh Việt Pháp, người con gái đầu lòng của bà, cô cả chị bố tôi, bị tử nạn năm hai mươi tuổi. Cô cả là người phụ nữ học thức, nói tiếng Pháp thạ̣o, và là nữ y tá Việt Nam đầu tiên cuả vùng Việt Bắc.

Ngày còn là học sinh ở Việt Nam, tôi vẫn suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao trong cuộc đời bà nội tôi cũng có những cái tang đau khổ, những biến cố đánh nặng vào đầu óc, vậy mà bà nội tôi không mộng thấy quan tài. Hay là bà nội tôi cũng có nằm mộng đấy, mà không kể lể, khóc thương?

Chiếc quan tài ám ảnh tuổi thơ của tôi cùng với hình ảnh những người đàn bà khác trong họ. Tôi có người cô họ, tên Oanh, năm hai mươi hai tuổi thì chồng chết trận. Cô than khóc, vật vã, gào thét, vất vưởng, mắt lạc thần cả mấy năm sau đó. Trong họ hay bảo: cô khật khùng vì đau khổ. Tôi có người dì họ, tên Thanh, chồng chết đã lâu. Bà ngồi bán nón ở chợ Đông Ba, Huế để nuôi con. Đứa con trai của bà chết trận. Quan tài của con chở về, bà cũng khóc lóc, vật vã, khật khùng như cô Oanh. Chứng kiến nỗi đau khổ của họ, tôi vẫn tự hỏi không biết rồi họ có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi lềnh bềnh trên sông như bà ngoại tôi?

Cũng năm mười lăm tuổi, tôi đọc cuốn Phái Thứ Hai (Deuxième Sexe) của nhà văn Pháp Simone de Beauvoir, tình nhân của triết gia Jean Paul Sartre. Trí óc tôi chưa đủ phát triển để hấp thụ hết cái thuyết tranh đấu cho nữ giới trong tác phẩm của de Beauvoir. Nhưng tôi đã đủ lớn khôn để nhận thức rằng trong tác phẩm của nhà văn nữ này, không có cái ám ảnh đau thương của những cỗ quan tài như trong giấc mộng của bà ngoại, không có những gồng gánh, bưng xách đến lùn cả người như trong đời bà nội, cũng không có những cỗ quan tài bọc cờ và những cơn vật vã, khật khùng của cô Oanh và dì Thanh. Những phụ nữ Âu Mỹ tranh đấu để được quyền. Còn những phụ nữ trong gia đình tôi phấn đấu để sống còn, và sống là sống cho người chứ không phải cho mình. Tôi tự hỏi tại sao cùng trên mặt đất này, mà những mẫu người đàn bà được Simone de Beauvoir phân tích là tác phẩm của trí tuệ và ý thức, còn những người đàn bà thân yêu trong đời tôi là tác phẩm của nước mắt chảy ngược vào lòng?

Hình minh hoạ: Pixabay

***

Tháng tư năm bảy lăm, bố tôi mang vợ con, cha mẹ và anh em vào phi trường Tân Sơn Nhất để đợi máy bay sang Mỹ. Dĩ nhiên là ông bà ngoại tôi ở lại Sài Gòn chứ không thể nào theo con gái và gia đình con rể. Cuộc ly biệt quá ngắn ngủi, vội vã. Để tránh xúc động, ông ngoại tôi lánh mặt con gái, con rể, và các cháu. Mẹ tôi cũng tránh vương vấn chia tay với ông bà ngoại, và tôi cũng thế. Tôi nhớ mẹ tôi gọi bà ngoại vào trao tay hòm chìa khóa thay thế lời từ biệt.

Bố tôi dùng xe hơi chở gia đình vào phi trường. Tôi nhớ mãi hình ảnh bà ngoại tôi đứng ngơ ngác bên cửa sổ sân nhà, không dám hỏi chuyện để tránh xúc động khi những người thân của bà đang tíu tít sửa soạn cho cuộc hành trình vô định. Bà đội nón lá như lúc đi chợ, tóc muối tiêu búi đàng sau, đôi mắt buồn như muốn khóc.

Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bà ngoại tôi.

***

Bây giờ tôi đã lớn, tôi không làm cô giáo, không sống ở Huế, và bà ngoại tôi đã chết.

Một buổi chiều mùa hạ năm bảy chín, tôi theo một người bạn trai Mỹ làm nghề phó nhòm, muốn chụp ảnh tôi để “lăng xê” tôi làm người mẫu. Tôi gọi điện thoại về nhà, thì bên kia đầu dây mẹ tôi tức tưởi: “Con ơi, bà ngoại chết rồi!”. Tự nhiên trong bụng tôi đau nhói như có mũi dao đâm. Tôi không khóc nhưng lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác gọi là “đau như đứt ruột.”

Bà ngoại tôi chết trong đau đớn vì bạo bệnh mà không đủ thuốc men. Bà mất đi không một lần thấy lại đứa con gái thân yêu, con rể, và các cháu ngoại, nhất là đứa cháu đã chia sẻ những giọt nước mắt cuả ác mộng, và những lần coi cải lương với bà.

Cái chết của bà ngoại làm tôi thấm thía thêm ý nghĩa “sinh ly tử biệt.” Lần cuối cùng nhìn bà ngoại buổi chiều tháng tư năm bảy lăm, khi bà tần ngần đứng bên cửa sổ nhìn con cháu ra đi là ý nghĩa nỗi khổ “sinh ly.” Và tin bà chết ở bên kia bờ đại dương là ý nghĩa niềm đau “tử biệt.” Tôi tự an ủi, cho rằng tôi không phải là người độc nhất thấm thía cái đau sinh ly tử biệt. Mà đó là cái đau chung của cả một dân tộc kém may mắn trên bản đồ thế giới. Nô lệ và chiến tranh. Một cơn lốc chính trị xoay chuyển cả nguồn gốc của một văn hóa nghèo, chậm tiến. Trong phần tư thế kỷ mà hai lần di tản cả triệu con người, vượt đường trường, vượt đại dương.

***


Tôi vẫn tự hỏi trong thời gian chúng tôi ở Mỹ, và bà ngoại sống thiếu thốn ở Việt Nam, không biết bà có nằm mộng thấy những cỗ quan tài trôi sông, và bà có thấy những gì bên trong những cỗ quan tài đó ? Điều đó bà chưa hề hé môi chia sẻ với tôi. Hay với bất cứ ai, kể cả chồng con.


Trong những năm tháng này, cuối thập niên tám mươi chuyển sang thập niên chín mươi, tôi có một hồi rảnh rỗi trong nghề nghiệp để đọc lại văn chương Việt Nam. Lần đầu tiên, tôi ngồi đọc hết mấy ngàn câu Truyện Kiều, để ngẫm nghĩ về nước mắt, định mệnh, và sự phấn đấu của cô Kiều, về thân phận đàn bà mà Nguyễn Du thương xót như thương xót chính thân phận tài hoa kẻ sĩ, và nỗi cô đơn tột độ của người thức giả:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như


Cũng năm đó, vô tình tôi đọc một truyện ngắn của bà Bùi Bích Hà, làm tôi nhớ giấc mộng của bà ngoại. Tôi không biết là truyện có thật hay không. Nhà văn kể lại truyện của một người đàn bà Việt Nam đi vớt xác con trên đường vượt biển. Truyện làm tôi bàng hoàng, nhắc tôi nhớ hình ảnh người đàn bà chịu đựng, ngồi một mình chờ những cỗ quan tài lềnh bềnh trên sông. 

Những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.


Tôi đi tìm một cuốn sách tâm lý giải mộng của Tây phương. Trong cuốn sách đó, tác giả bảo nằm mộng thấy quan tài là cảm giác bất an của người bị đe dọa bởi thiên tai, đại họa, sự trừng phạt vô cớ của định mệnh, hoàn cảnh, ở ngoài khả năng và quyền hạn của con người, không đo lường được.

Nhưng trong giấc mộng cuả bà ngoại tôi, ngoài những cỗ quan tài, còn có dòng sông. Tôi bắt buộc phải nghĩ đến những dòng sông, mang tất cả vật thể từ nguồn ra biển. Trên những dòng sông, có rong rêu, có phù sa, có thây ma, có xác người, và cả những cỗ quan tài thô sơ, đốn từ lòng cây trong rừng, được vội vã thả trôi để có thể theo sông về đến bến cố hương thay vì chôn vùi nơi đất lạ̣ quê người. Tất cả đều trôi ra biển. Ra với đại dương. Và về với đại dương.


Muà Đông cuối năm đó, tôi ra đứng bên bờ Đại Tây Dương, ngắm tượng Nữ Thần Tự Do khi thành phố Nữu Ước chưa lên đèn. Tôi đứng đấy cho đến khi trời tối xẫm và bầu trời bắt đầu xuất hiện những vì sao.  Gió lành lạnh. Và hơi nước lành lạ̣nh. Tôi ngửng mặt nhìn lên trời, màu xanh ngắt tuyệt vời đã tối dần thành màu đen thẫm như ́vạt áo dài nhung cuả bà ngoại t̀ôi ngày xưa.  Tôi ngước nhìn những vì sao phía trên bầu trời Nữu Ước đã lên đèn, mà nghĩ đến số phận cuả con người nhỏ bé.  Văn hoá cội nguồ̉n tôi hay tin vào những vì sao chiếu mệnh con người.  Tôi biết tìm đâu ra vì sao mang số kiếp đính mệnh cuả bà ngoại tôi?  Vì sao nào ̣đang chờ đợi tôi?   Tôi nghĩ đến sự̣ huyền diệu mông lung cuả tạo hoá, bên cạ̣nh cái hùng vĩ, đồ sộ và lồng lộ̣ng cuả khoa học phát minh, khi những phi hành gia cuả Mỹ và Nga như Neil Armstrong và Alan Sheppard CHANGE đã vượt ra khỏi bầu khí quyển, từ không gian không trọng lượng mà nhìn về quả điạ cầu, bỗng nhỏ bé hẳn đi như thân phận li ti cuả tỷ tỷ tỷ con người chen chúc tranh nhau trên mặt đất.

Đột nhiên tôi thảng thốt, ớn lạnh toàn thân.  Một tia chớp đánh ngang qua óc tôi:  những năm tháng đã qua đột nhiên biến mất: hình ảnh ngày chia ly tháng tư 1975 trở lại rõ mồn một như mới hôm qua trong tia chớp kinh hồn đó:  hình ảnh bà ngoại tôi mặc quần đen, aó bà ba, tóc búi đằng sau, đội nón lá, và mắt buồn như khóc…Ngày chia tay là ngày vĩnh biệt:  cửa Saigon đóng lại sau lưng tôi, và bên kia cánh cửa của chia ly, bà ngoại tôi đã chết mà không thấy tôi và mẹ tôi, không gặp lại chúng tôi, không có hai người phụ nữ, cháu và con, thân yêu bậc nhất trong đời bà, bên cạnh.  Cuộc chia ly 1975 chính là cái chết bất đắc kỳ tử trong lòng đời sống, vì sau đó, chẳng bao giờ gặp nữa. “Ai nhớ chăng chùm hoa màu thạch thảo, mộng trùng lai không có ở trên đời…Nous ne nous verrons plus sur terre, odeur du temps brin de bruyère…” (Apollinaire). Trời ơi, trời ơi, tôi hiểu ra rồi, trong giấc mộng nhìn thấy những chiếc quan tài trôi theo thời gian trên dòng sông vĩnh biệt, bà ngoại tôi đã thấy lại cái chết cuả những đứa con thơ, cuả người thân trong chiến tranh, và chiếc quan tài cuối cùng, trời ơi trời ơi, bà đã nằm mơ thấy, đã tiên đoán trước cái chết cô độc cuả chính mình sau 1975, bà đang chờ đợi để vớt chiếc quan tài cuối cùng cho chính bà, khi sinh ly trở thành tử biệt. Trời ơi, trời ơi, bà đã thấy trước cuộc đổi đời 1975 và đó là ý nghĩa cuà những chiếc quan tàì lềnh bềnh trên sông, trên “vận nước nổi trôi”  (Phạm Duy).  Trời ơi, trời ơi, tôi không có mùi thời gian trên nhánh hoa thạch thảo như Apollinaire, mà hai bà cháu tôi chỉ có những cỗ quan tài cuả Tĩnh Tâm…

Trời trời ơi…

…trĩu nặng trong lòng…những cỗ quan tài trôi trên sông là những hố sâu nước mắt….

…khóc sinh ly tử biệt…

Sinh ly là tử biệt.

***

Tôi quay lại nhìn đường chân trời rực rỡ cuả đô thị Nữu Ước, lấp lánh trong màn ̣đêm như cạnh tranh với những vì̀ sao ở tận đỉnh cao cuà̉ màn đêm. Quên đi thời gian, tôi đứng lặng trước thành phố đã lên đèn. Hình ảnh người phụ nữ cầm chiếc đuốc soi bờ đại dương sừng sững một mình ở cửa biển, để luôn luôn chào đón nhân loại khốn cùng đang đổ x̀ô về cứu cánh của đường ̣̣đi không đến, ngày và đêm, tự nhiên làm tôi nhỏ nước mắt.

Bà ngoại tôi đã yên phần. Trong ý nghĩa tôn giáo phương Đông, bà đã về xứ Phật. Ở nơi chốn xa lạ này, trên quả địa cầu này, tôi đang nhỏ nước mắt cho bà, cho tôi, hay vì ai, cho ai? Tôi đâu dám bắt chước con người tài tử Nguyễn Du khóc người ba trăm năm trước để hỏi người ba trăm năm sau. Tôi khóc vì tôi nhớ lại cuộc di cư ngày nào. Tôi nhớ đến khuôn mặt đẹp và ánh mắt sầu muộn của bà ngoại tôi. Giấc mơ hồn nhiên của tuổi thơ, sẽ làm cô giáo nuôi bà ngoại ở Huế, tôi đã bỏ mất. Bà không còn chỉ là bà ngoại, mà là hình ảnh Tĩnh Tâm, người phụ nữ sinh trước tôi hai thế hệ. Hình ảnh bà mang tôi về tuổi thơ xứ mẹ. Hình như tôi khóc vì trong lòng tôi cũng mang hình ảnh những cỗ quan tài như trong giấc mộng của Tĩnh Tâm. Vì tôi mang nặng một nơi chốn đã đi vào tiềm thức tôi, một nơi chốn mà thân phận đàn bà là tiếng kêu rên xiết trong những tập tục và thành kiến văn hóa bóp kẹp con người, nơi chốn của một cuộc chiến tranh tức tưởi, và những hỗn loạn lịch sử vời vợi thương đau, đã gây nên sự phá sản, không phải chỉ vật chất, kinh tế, mà e còn lan sang địa hạt tinh thần.

Tôi tự hỏi có người phụ nữ Việt Nam nào nhạy cảm, là nạn nhân của xã hội chiến tranh đó, mà không mang trong lòng những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm? Tôi may mắn sinh ra trong một thời đại không phải gồng gánh, bưng xách như bà nội tôi, không phải cưới vợ hầu cho chồng như bà ngoại tôi, không phải là nạn nhân của tục tảo hôn, không phải tủi sầu vì không có con trai. Tôi may mắn không phải đi vớt xác con, đi nhận xác chồng, như những người phụ nữ bất hạnh của cố hương đầy đau khổ.


Tôi tin vào thuyết tiềm thức tập thể của nhà tâm lý học Carl Jung. https://en.wikipedia.org/wiki/Carl_Jung. Cho nên tôi đứng đó, đối diện tượng Nữ Thần Tự Do, bên bờ biển Đại Tây Dương, CHANGE một người đàn bà di dân đến từ nước Việt Nam nhỏ bé, trước ngưỡng cửa thế kỷ hai mươi mốt, nhớ đến hương hồn của bà ngoại và nghe tiếng kêu khóc của những người đàn bà Việt Nam xấu số. Tôi đến Mỹ khi còn là đứa bé gái hăm hở trước cuộc đời. Cuộc di cư đã cho tôi lối thoát và cơ hội để áp dụng sự phân tích của Simone de Beauvoir vào đời sống của chính mình. Nhưng tôi vẫn nhỏ nước mắt, hướng về Tây phương và quay lại Đông phương, thường tự hỏi mỗi nơi sẽ đem lại những gì cho tính nhạy cảm và cái tiềm thức văn hóa trong tôi. 
Nước mắt tôi vẫn nhỏ, cho dù bề ngoài tôi cứng rắn, vì tôi đã nghe, đã chứng, và đã xót xa trong lòng về những cỗ quan tài của Tĩnh Tâm.

_____________________________

Dương Như Nguyện ̣(c)1988

Trích từ Mùi Hương Quế, xuất bàn đầu năm hai ngàn (c)2000, bởi Nhà Xuất Bản Văn Nghệ (Orange County, California)  

Renewed version (c)2023 (Houston, Texas)

III.

KÝ SỰ TIẾNG ANH CHO THẾ HỆ THỨ HAI:  NHÀ VĂN VIẾT VỀ VIẾT VĂN

WRITER WRITING ON WRITING

ABOUT THE ORIGINAL VERSION OF 

“THE FLOATING COFFINS OF TĨNH-TÂM” : 

AUTHOR’S REFLECTION

Bản tiếng Anh này đã được đăng trên trang web của University of Oregon-US Vietnam Research Center

Và đây là Appendix 1 trang đầu tiên của bản tiếng Anh, tác giả Dương Như Nguyện viết tặng độc giả Nguyễn Hà: 

IV. Appendix A

THE FLOATING COFFINS OF TINH TAM: STORY OF THE RIVER AND THE STARS 

The 2023 renewed version

A gift to my reader Nguyễn Hà, whom I have never met.

“Here it is, Daddy, my renewed piece, 

with your two additions, bearing your fingerprints, footprints, 

prints of your thoughts, fruits of your prose, 

stars from your eyes, stars of your brain, 

wherever you are now, out there, waiting for our reunion:  

our family, our roots, the foundation of our culture in exile, 

together again, on our river, and among our stars”

©DNN 3/2023

Time flows like rivers going downstream.  Time moves forward like rivers passing through forests and flowing onto the sea.  Only we go backward to find memory, like stone-bearing Sisyphus climbing up his mountain.  Time moves forward toward the end of our life, while we turn around and go backward, up the hill of our shouldered burden, to catch a glimpse of our past. In the unreachable sky, up there, peeping from the unending depth of the universe, stars look down on us, the silent witnesses of our life, watching over us, involved, yet uninvolved like nonchalant spectators. They speak our journey, our climb against our fate…DNN

[The English manuscript, fully developed and updated from its 1988 published Vietnamese version, is reserved for future book publication in the mainstream]

~~~***~~~