Inrasara: Hành trình vào minh triết Cham

Khác với triết lí là một hệ thống tư duy dựng nên bởi một cá nhân xuất chúng, Minh triết được đúc kết từ câu chuyện thực của đời sống thường nhật, từ kho tàng tục ngữ hay châm ngôn, từ truyện ngụ ngôn, huyền thoại hay huyền sử; có thể rút ra từ các sinh hoạt lễ tục – lễ hội, quan điểm và sinh hoạt tôn giáo – tín ngưỡng, nhất là từ tác phẩm văn chương xuất sắc, từ tư tưởng của bậc trí giả qua các thời đại lịch sử… Minh triết khác triết học, không dành cho giới đặc tuyển, là vậy. 

Đâu là minh triết Cham?

1. Minh triết Cham được thể hiện trước hết qua “Tinh thần Đất”.

Người Việt có thành ngữ: “Nơi chôn nhau cắt rốn” để chỉ quê cha đất tổ. Cham thì khác, ông bà nói: “[nơi] chôn nhau đặt viên gạch” (Dar thauk padauk kiak). Chôn nhau thì chỉ mới liên quan đến máu mủ, còn “đặt viên gạch” [dựng tháp] là đặt nền móng cho đời sống tâm linh. 

Đó là huyền nghĩa của Đất. Nhà được dựng nên trên Đất đó. 

Bimong Tháp gạch là biểu tượng tâm linh Cham.  Ở đâu có Cham là ở đó có tháp, ngược lại ở đâu có tháp, đó là đất Cham. Tháp, để người Cham phụng tự. Tháp chiếm vị trí tối thượng trong đời sống tâm linh Cham.  

Tháp Po Klong Garai, Phan Rang, Ninh Thuận.

Ở đâu Cham không đặt viên gạch (padauk kiak), thì đó không phải đất Cham, Cham không ở. Có cho họ cũng không màng. Bởi mảnh đất muốn thành Đất cần đến các cuộc tẩy rửa bền và lâu. Thời hưng thịnh Champa đã từng đánh Khmer, đánh để thị uy chứ không có ý “thực dân” lấn chiếm. Hay khi suy yếu, bị đẩy vào thế buộc, Cham chạy loạn đến ở nhưng họ không coi đó là Đất thuộc về mình, mà chỉ là miền tạm dung. Tạm dung, để còn phải trở về với Đất. 

2. Thứ đến là tư duy Cham, thứ tư duy mà sử gia Tạ Chí Đại Trường đặt cho cái tên là: “Tư duy biển lớn”.  

Đời sống Cham gắn chặt với biển.Ngay ở đầu thế kỉ thứ V, vua Champa là Gangaraja đã vượt đại dương sang bờ sông Hằng. Thế kỉ thứ VII, người Cham đã có giao lưu với Nhật Bản. Chuyện vua Chế Mân lấy công chúa Java cuối thế kỉ XIII, hay chuyện Po Rome (thế kỉ XVII) cưới công chúa Malaysia, là một mảnh huyền sử về văn hóa biển đáng giá (G. Maspéro, Le Royaume du Champa, Van Dest, Paris, 1928).

Từ những cuộc đi viễn dương đó, người Cham đã dựng nên nền hải sử dài và sâu. Và chính tinh thần phiêu lưu cùng “tư duy biển lớn” hình thành nền văn hóa biển Cham. 

Nếu người Việt kêu: trời đất ơi, thì ngay nhà bên cạnh, người Cham: trời biển ơi ‘Lingik tathik lơy’. Người Việt nhìn lên thấy trời, cúi xuống thấy đất; Cham thì khác, dưới chân họ là mênh mông biển nước. Cham có làm ruộng [đất], nhưng đó là cánh đồng miền Trung nhỏ hẹp bốn mùa hanh gió. Ông bà Cham xưa chủ yếu sống bằng nghề biển, nhờ biển và với biển. Họ kêu trời kêu biển ‘Ew lingik ew tathik’ chứ không phải “la trời la đất” như người Việt. Cũng vậy, tôi nói “Mưa tối trời tối biển” ‘Hajan xup lingik xup tathik’, trong khi thằng bạn Việt chăn trâu của tôi kêu: Mưa tối mù trời đất.

Nghĩa là biển tràn ngập đời sống, văn chương và ngôn ngữ Cham. 

“Cư dân Cham cổ thường xuyên có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hoá với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương” (Nguyễn Đức Hiệp, 2006, “Lâm Ấp, Champa và di sản”, Vanchuongviet.org).

Lối sống khác, lối nghĩ khác làm nên lối nói khác. Hai thế kỉ qua, Cham không còn làm nghề biển nữa, nhưng biển vẫn còn sống trong đời sống và tâm thức Cham. 

3. Tinh thần học. Truyện cổ ĐI TÌM HỌC BÁN VỢ

Một người nông dân hiền lành, có vợ và đứa con trai mười hai tuổi. Đang sống rất yên ổn và hạnh phúc, bỗng một hôm ông nẩy ý định đi tu. Ý tưởng nung nấu mãi để một năm sau ông quyết định tìm đến một guru Bà-la-môn nổi tiếng nhất vùng để học đạo. Vị sư nói:

Dạy ngươi kinh sách thì ta lại phải học thêm gấp hai lần ngươi. Ta đã già, không có của cải gì cả.

Không chần chừ, người nông dân bảo:

Nhà con có một mẫu ruộng, con xin hiến cho guru.

Ta không có trâu để cày.

Con có cặp trâu đã thuần.

Ta cũng không có người chăn trâu.

Con có đứa con trai khỏe mạnh, người nông dân nói sau giây lát ngập ngừng.

Ta sống cô đơn, không có ai lo cơm nước.

Con nguyện lo cho guru.

Không, ta và ngươi dành tất cả thời gian cho học tập và tu luyện.

Nhà ngươi có vợ chứ? Vị sư hỏi sau một hồi im lặng.

Người nông dân lưỡng lự giây lát, cuối cùng ông nói dạ một tiếng vừa đủ cho người đối diện nghe.

Hôm sau, người nông dân đi qua nhà vị sư Bà-la-môn cùng với tất cả tài sản và hai người thân yêu của mình.

Một, hai rồi ba tháng, người học trò chỉ được phân công chép một bản kinh duy nhất. Lần một, lần hai, ba… vị sư Bà-la-môn đều lắc đầu và bảo chép lại. Đến lần thứ bảy, guru nói:

Được rồi, lòng con không còn bợn bụi trần. Ta có thể truyền dạy cho con tinh hoa của giáo lý Bà-la-môn.

Ba năm trôi qua. Sau một buổi thiền định, vị sư nói với đồ đệ:

Vụ gieo cuối cùng đã mãn, con có thể cho cháu dắt trâu về.

Nửa năm sau, vị sư nói:

Vụ gặt cuối cùng đã xong, bây giờ phần mẫu ruộng lại thuộc về con.

Rồi sáu tháng sau, guru lại bảo:

Bữa tiệc cuối cùng đã tàn, người vợ của con có thể về nhà. Và cả con nữa, bài học cuối cùng đã dứt, con không phải cần đến ta nữa.

Thưa thầy, con xin ở lại suốt đời phụng sự thầy.

Không, con phải tự đi một mình. Để sau này con còn phải làm thầy. Cả ta, ta cũng không cần đến con nữa.

Vị sư già nói xong, quay lưng bước nhanh về phía núi.

Để sở hữu tri thức, người học sẵn sàng trả giá đắt. Ông dám hi sinh, cả hi sinh điều không thể hi sinh: vợ, con… Trong lịch sử Thiền học, muốn đạt đến chân lí, không ít trường hợp người học đạo còn phải trả giá bằng tính mạng của mình nữa! 

Học, không phải để mưu lợi mà để biết. Thầy, không buộc trò phải làm nô lệ mình: nô lệ vật chất nhất là, nô lệ tinh thần. Khi trò đã khôn lớn, hãy bỏ thầy mà đi. Hãy đi một mình, và thầy phải đuổi trò đi, để trò dám và biết đi một mình. 

Những năm 1950 trở về trước, người Cham từ “trí thức” cho đến nông dân, đều được học chữ thánh. Dù Cham tổ chức dạy – học nhóm với số lượng ít ỏi, có khi chỉ một thầy một trò, khá bất tiện. Thế kỉ XI, các sứ giả Tàu thử du nhập lối tổ chức theo trường quy Trung Hoa vào Champa, nhưng bất thành. Quan niệm về kiến thức của người Cham hoàn toàn khác. Kiến thức không phải thứ mang chia sẻ đồng đều ở trường lớp, mà nó chính là thách thức cho cá thể quyết mưu cầu nó, dọn sạch tâm để đón nhận nó. Tục ngữ: 

Sunuw đơ bauh habei, gru si brei đa ka o hacih

Bùa bé bằng củ khoai, thầy muốn cho, ngại ai chưa sạch.

Ông ngoại tôi là thầy cao đạo trong vùng, tác giả thi phẩm Ariya Rideh Apwei nổi tiếng. Đêm trăng sáng, nằm ngửa trên chõng tre ngoài sân, ông ngâm Ariya Glơng Anak. 

– Đoạn đó cháu thuộc rồi ông à. 

– Thuộc rồi cũng phải học lại, ông ngoại bảo. 

Mãi sau này, tôi mới hiểu: thuộc cũng cần đọc lại.

4. Lễ và múa: tinh thần chơi

Nét đẹp thiếu nữ Chăm trong lễ hội Kate. Ảnh: Inra Jaya (Phú Tuệ Tri)

Cham có hơn trăm cuộc lễ, mỗi năm. Có lễ hội là có múa. Ca – múa – nhạc kết hợp nhuần nhị, với nôi dung và hình thức vô cùng phong phú. Ở nơi công cộng mang tính khu vực, trong palei hay trên tháp. Đi kèm với múa là nhạc. Tên gọi các điệu múa Cham cũng là tên được đặt cho điệu trống ginơng. 72 điệu cả thẩy. 

Múa có Múa quạt Tamia tadik. Dụng cụ chính là chiếc quạt, xòe ra hay xếp lại cả cặp hoặc một xòe một xếp. Múa đội lu Tamia Đwa buk, xuất phát điểm là Múa đội Thong hala (cỗ bồng trầu) trong lễ dâng nước thánh trên tháp, sau: kết hợp với thao tác đội lu nước trong sinh hoạt ngày thường, mà thành. Múa Đwa buk có nhiều biến thái đẹp mắt, nhưng thao tác đặc sắc hơn cả là các cô gái thả cả hai tay, khi thì đứng lúc lại ngồi hay nghiêng mình khá thoải mái. Múa khăn Tamia Taniak. Riêng Múa kiếm Tamia Carit, Múa đạp lửa Tamia Jwak apwei (hay Múa roi) là các điệu múa sôi động, gây phấn khích cao độ; ở đó các thao tác uy dũng tượng trưng cho vị tướng xung trận sẵn sàng vượt qua khó khăn gian khổ. Múa chèo thuyền: dụng cụ múa là cây chèo được thay bằng cây mía, điệu múa này mô tả động tác chèo thuyền khi đi trên biển. Múa phồn thực Tamia Lang lơp. Người múa là nam, với khúc gỗ được đẽo như hình dương vật, múa dẫn đường, sau đó là các cặp khác, vừa vui nhộn vừa linh thánh.

Lễ, để Cham tri ân tiền nhân có công xây dựng đất nước, hay thể hiện sự sùng bái một, một vài vị vua được thần hóa; lễ và múa còn là cơ hội và môi trường cho Cham chơi. Cham biến mỗi lễ thành buổi biểu diễn nghệ thuật, sôi động và hào hứng.

5. Tinh thần Mẫu của Cham 

Mương, có Mương Đực Mương Cái. Giếng, có Bingun Likei Bingun Kamei. Tôn giáo thì có Cam Ahier Cam Awal

Phần đông các nhà tu hành thuộc đa phần tôn giáo khác nhau sống đời “độc thân”, lơi lỏng hay nghiêm ngặt, tùy. Cham ngược lại, các vị chức sắc Cam Ahier lẫn Cam Awal buộc phải có… vợ. Không có không được! Sự thể nhiều lúc đẩy các vị rơi vào tình trạng éo le dở khóc dở cười. Không may bà mất trước, ông phải tìm bà khác lắp vào chỗ trống [có khi vội vã], để có… Danauk.

Vụ việc có lí do chính đáng của nó. Cham theo chế độ gia đình mẫu hệ. Quý ông, nhất là các chức sắc cần có Sang (nhà) để ở, có Danauk (chốn, nơi, vị) để ngự. Mà Danauk này phải là nhà vợ. Biểu hiện rõ nhất ở Cam Awal, khi có việc ‘hu bruk’ ví như cấp Acar lên cấp Mưdin… cần đến Danauk Kamei mới xong việc. Ở nhà hay trong Sang Mưgik (nhà chùa Bà-ni), bà ngồi ngay cạnh ông, lập Danauk để lo cho ông hành sự… Vô phân biệt.

Từ tinh thần Mẫu đó, cộng đồng Cham nẩy nòi ra Ba không: Không ăn xin nói lên tinh thần tự lập; không đĩ điếm nói lên cách [kiếm] sống lương thiện; không mù chữ (tri thức) liên quan đến cái biết để sống và chết ở đời. Cả ba không ấy được biểu hiện sinh động trong đời sống và văn chương Cham.  

Cái ba không cổ sơ ấy đặt ra những câu hỏi thiết yếu nào cho cuộc sống hiện đại? Rõ hơn, nó ban tặng cho thế hệ hôm nay bài học nào về lối sống ở đời, về nhân cách con người? Câu trả lời: Con người cần trang bị tinh thần tự lập, không ỷ lại – vào cá nhân, gia đình, đảng phái chính trị hay tông phái tôn giáo; muốn thế con người cần tôi luyện tri thức, biết để phân biện đúng sai, tốt xấu; qua đó con người hành xử hướng thiện đúng với chữ nhân của sinh thể mang tên con người.  

5. Thông điệp Ariya Glơng Anak và nghệ thuật giải sân hận

Cham hầu như không biết căm thù. Giận thì có, nhưng thù, hận, căm thù, hận thù – không, có lẽ. Lạ! Trong văn chương Cham không có một nửa dấu vết căm thù. 

Tiếng Cham, “căm” là ‘janưk’, “thù” là ‘mưbai’. Hai từ này hay đi chung với nhau thành cặp đôi ‘mưbai janưk’ hay ‘janưk mưbai’: thù hận, hận thù. 

Ariya Po Parơng được viết cách nay gần một thế kỉ rưỡi, chỉ toàn giận là giận. Cả Ariya Twơn Phauw, tác phẩm thơ kí sự ghi chép cuộc chiến của Twơn Phauw với quân Minh Mạng, tuyệt không có bóng dáng căm thù. Nhưng tại sao Ariya Glơng Anak, tác phẩm được cho là nhân bản nhất suốt lịch sử văn học Cham, chữ ‘janưk, mưbai, janưk mưbai’ lại có mặt dày đặc? Ariya Glơng Anak, dài chỉ 116 câu ariya Cham nhưng đã đựng chứa và cưu mang cả biển khổ cuộc người. 

Ariya Glơng Anak ra đời đầu thế kỉ XIX, khi Champa đã tan rã. Biến thiên cuộc thế và thay đổi của lòng người gây ra đại khủng hoảng, mang tính quyết định sự tồn vong [không phải đất nước nữa – đã mất rồi, mà] của sinh mệnh dân tộc. Hận thù có mặt khắp xung quanh, trong không gian, do người ngoài mang đến “tặng” ta, nó có mặt giữa anh em bà con bè bạn ta, và ngay nơi thẳm sâu lòng ta nữa. Kẻ thức giả cô đơn và cô độc giữa cuộc thế và lòng người. Ariya Glơng Anak viết để cảnh giác, để cảnh báo. Viết như là trối trăng. Đó là thông điệp cuối cùng của thức giả lớn cuối cùng trong ngày tàn cuộc cuối cùng. 

Nhưng bên cạnh ‘mưbai, janưk, janưk mưbai’, tác giả Ariya Glơng Anak không quên ‘haniim’ (phúc, lành, thiện: 6 lần) hay ‘haniim ayuh’ (phúc thọ) hay ‘haniim phwơl’ (thiện lành). Rất nhiều lần lặp lại. Không phải như một đối kháng nhị nguyên mà, như một mở lối thoát, một khai thông hướng đi. Trong không khí ngột ngạt của lịch sử, Ariya Glơng Anak đã mở ra cho chúng ta, một sinh lộ khiêm tốn nhưng thiết thực, hé cho chúng ta thấy, trong đêm tối đen mò của thời cuộc, một tia sáng yếu ớt của niềm hi vọng.

6. Bhap ilimo văn hóa quần chúng, là đỉnh cao của Minh triết Cham. 

Bhap ilimo’ là một trong những từ cốt tủy của trường ca Pauh Catwai. ‘Bhap’ nghĩa là “nhân dân”, “quần chúng”; ‘ilimo’: “văn hóa”. Tác giả Pauh Catwai không nói văn hóa dân tộc mà là “văn hóa nhân dân”, nền văn hóa của, bởi và cho bộ phận đông đảo dân tộc, chứ không nhấn vào thành phần ưu tú. Hai lần tác giả nhắc đến nó, đặt nó ngay cuối câu ariya Cham.  

Đánh giá một dân tộc, không chỉ ở dân tộc đó sản sinh bao nhiêu vĩ nhân, bao nhiêu công trình vĩ đại mà còn/ nhất là ở tầng lớp quần chúng của dân tộc đã đóng góp gì, đóng góp như thế nào vào nền văn hóa đó, quan niệm thế nào về nó? Với Cham, sáng tạo văn học nghệ thuật không chỉ là công việc dành riêng cho giới đặc tuyển, mà còn là và nhất là quần chúng, ngay cả khi dân tộc đã có chữ viết. Nhất là dân tộc Cham tiếp nhận văn hóa Bà-la-môn vốn mang tiếng là đối xử phân biệt. Có thể nói, ở thập niên 1970 trở về trước, không người nữ Cham nào mà không biết múa. Ong Mưdwơn Cham xuất thân từ quần chúng – nghĩa là không phải “nối dõi tông đường” như bên Paxeh – là hạng nghệ sĩ toàn năng. Là chủ lễ của tất cả lễ Rija, Mưdwơn gru có khả năng chơi và chơi thuần thục mọi nhạc cụ Cham.  Ông vừa là ca sĩ dauh hát, vừa là vũ công ‘tamia múa, cạnh đó ông còn là thi sĩ [vô danh] chính hiệu. Hàng trăm Damnưy được hát trong các dịp lễ này là các tác phẩm vô danh của nhiều thế hệ Mưdwơn khác nhau. Sáng tác và tái tạo đầy cảm hứng với những biến thái khác nhau ở từng vùng, từng lễ, thậm chí từng kì lễ Rija. 

Quần chúng Cham vừa sáng tác, vừa lưu truyền vừa tái tạo văn hóa dân tộc là vậy.

7. Cuối cùng, sống có nghĩa là tạ ơn

Con người cô đơn không nơi nương tựa. Bên Phật gọi là “vô sở trú”; Chúa nói: con của loài người không có đất gối đầu; nhà thơ Đức Rilke đặt cho cái tên: “Không có quê hương trong thời gian”. Thế nên mỗi ngày phải là ngày linh thánh với ta. Hắn thấy tất cả đều có lí do tồn tại. Mỗi sinh thể có mặt đều có lí do, mỗi tác phẩm, mỗi công việc, mỗi động thái… Và hắn cảm tạ cuộc sống:

Sống nghĩa là tạ ơn – ơn ngãi đầy tràn

nằm ngoài chân trời đếm đo được/mất

tạ ơn làm cho ta lớn lên.

Tạ ơn thì không so đo tính toán được mất. Không hơn thua. Mỗi ngày khi chúng ta mở mắt nhìn mặt trời là một ngày linh thánh, một ngày đáng sống. Hãy biến ngày đó thành cuộc lễ của cuộc đời. Còn nếu ta tính toán chi li, thì chính nó biến ta ngày càng trở nên bé nhỏ, vụn vặt, lắt nhắt. Tâm hồn ta không thể lớn được, dù ghế ta giữ có to tới đâu, bằng cấp cao cỡ nào, thành tích vĩ đại ra sao đi nữa…

Quỳ gối trước đoá hoa dại nở đồi trưa

tạ ơn bàn tay đưa ra bất chợt

tạ ơn câu thơ viết từ thế kỉ trước

giọng cười xa, nụ hôn gần.

Quỳ gối trước mặt trời thức giấc mỗi sớm mai

… Dẫu không là cái đinh gì cả / tôi vẫn cần thiết có mặt

vậy nhé – tôi xin tạ ơn TÔI

(Inrasara, Lễ tẩy trần tháng Tư, 2002)

Inrasara