Ngự Thuyết: Bèo mây

Nhớ Ân, Khánh, Oanh.

The Snow of Kilimanjaro (Tuyết Trên Đỉnh Kilimanjaro) của Hemingway là một truyện ngắn đặc sắc. Cùng với những hồi ức của một nhân vật, một nhà văn, sống sôi nổi, thích phiêu lưu, là cái ân hận đã không ghi lại, viết lại, trước khi lìa đời, những trải nghiệm đáng nhớ trong cuộc đời của mình. 

Chẳng hạn, nhân vật đó đã trải qua một Giáng Sinh đã xẩy ra rất lâu và đầy biến cố, “Nhưng hắn không hề viết một dòng nào về chuyện ấy, cũng không viết gì về ngày Giáng Sinh lạnh lẽo, sáng rực, có những ngọn núi chạy băng ngang qua những đồng bằng …” [1]

Trong một đoạn khác nói về cuộc tình đổ vỡ trong bối cảnh của một thế giới lắm đổi thay mà hắn là nhân chứng – “hắn là người trong cuộc, đã nhìn thấy cuộc sống ấy, và có bổn phận ghi chép lại; nhưng bây giờ hắn không còn viết được nữa rồi.” [2]

Lại một đoạn khác: “Không, hắn không bao giờ viết về Paris. Không phải thứ Paris mà hắn quan tâm. Nhưng những thứ khác hắn cũng chưa bao giờ viết đến thì sao? Chẳng hạn cái trang trại và màu xám bạc của lùm ngải đắng, dòng nước trong chảy nhanh dưới những mương rãnh, và màu xanh đậm của cỏ linh lăng. Những con đường mòn chạy lên những ngọn đồi và đàn gia súc vào mùa hè nhút nhát như nai. Tiếng kêu và tiếng động đều đều và cả đàn súc vật di chuyển chậm chạp làm bụi tung lên khi người ta lùa chúng xuống vào mùa thu …” [3]

Cứ thế, chen lẫn những hồi ức là những ăn năn, hối tiếc đã không ghi lại những trải nghiệm đáng nhớ trong đời mình. Có lẽ người viết nào cũng hơn một lần mang tâm trạng ăn năn, hối tiếc đó của Hemingway.  Nhất là những người sống xa quê hương hoặc lưu vong như chúng ta. 

Tôi bỏ nước ra đi đã lâu ngày. Cách đây trên dưới 20 năm, tôi trở về thăm. Bà con, bạn bè đón tiếp quá ư niềm nở c — điều đó khỏi phải nói nhiều. Nhưng có điều này tôi rất ngại.  Tôi không muốn gặp công an khóm phường để phải khai báo tạm trú, tạm vắng. May thay, mấy người em họ của tôi biết ý đã rất chu đáo làm công việc đó cho tôi. Chuyến về thăm ấy đã để lại trong tôi ngổn ngang trăm thứ chuyện, vui buồn lẫn lộn. Lẽ ra tôi phải ghi lại những mẩu chuyện đáng nhớ đã xẩy ra khi những người bạn rất thân yêu của tôi còn tại thế. Gọi là giữ lại cho nhau chút ít kỷ niệm. Nhưng, một cách tình cờ, tôi có ghi trong cuốn sổ nhỏ mấy chi tiết về chuyến đi trên sông nước. Chỉ chừng đó thôi.

Ghi lại rồi để nằm yên đó. Cuốn sổ bỏ quên lâu ngày trong kệ sách. 

Một số bạn tôi đã qua đời. Tôi bỗng cảm thấy như mang một món nợ đối với họ. Cho nên, hết nằm lại ngồi, giở cuốn sổ tay ra đọc, cố nhớ thêm những gì đã xẩy ra của quãng thời gian xa xôi đó. Và loay hoay viết.  

Sau khi ở lại Sài Gòn mấy ngày, thăm bạn bè, phố phường, tôi ra Huế. Cùng đi, có người em họ, Â., và người bạn, O. Hai người rất thân thiết. Hai bạn đã phải rán thu xếp công việc làm ăn hàng ngày để có thể dành riêng hơn một tuần lễ cho tôi. Chúng tôi đồng ý với nhau đi bằng xe đò để được dễ dàng ghé lại nhiều nơi, hay chí ít, từ trên xe nhìn quê hương cũ. Soát lại trí nhớ, lòng bồi hồi. Có nơi nguyên vẹn như xưa, có nơi đổi thay không nhận ra nổi.

Xe ghé lại Nha Trang khá lâu cho hành khách nghỉ ngơi, giãn tay giãn chân, và ăn trưa. Quán ăn khá lớn và tươm tất. Tôi và Â. ngồi vào bàn chọn món ăn trên thực đơn trong khi O. đi quanh. Chàng này tính vốn hiếu động. Xe dừng nơi nào hắn ta cũng rảo chân đi nhìn cái này, ngắm cái kia, hỏi han các cô bán hàng, cười đùa. 

Chỉ một chốc sau, O. trở lại bàn ăn với nụ cười toe toét, bên cạnh là một cô nàng mắt xanh, tóc vàng. Xin mở dấu ngoặc: Trước 1975, cả ba chúng tôi đều có dạy môn Anh văn ở Sài Gòn. 

O. nói:

“Cái con nhỏ này ngồi một mình trước bàn ăn trông tội nghiệp quá. Moa dẫn nó tới đây với tụi mình cho vui nghe.”

Hai chúng tôi đồng ý ngay. Một cô nàng phương Tây trẻ tuổi, khoảng dưới 30, khá đẹp. Hỏi ra, cô là người Anh, tên là Katherine Faulkner. Sau biết thêm cô là bác sĩ mới ra trường, đang đi du lịch mấy nơi ở Châu Úc, châu Á, trước khi trở về Tô Cách Lan làm viiệc cho một bệnh viện. Cô cho biết cô vừa từ nước Lào qua, và rất thích phong cảnh êm đềm bên Lào, và nhất là dân Lào hiền hòa. 

Chúng tôi vẫn biết người Tây phương, kể cả phái nữ, không ngại đi du lịch một mình ở những nơi xa lạ. 

Từ đó về sau, chúng tôi đi đâu, Katherine vui vẻ theo đấy, ở chung khách sạn, riêng phòng. 

Ra đến Hội An, chúng tôi ở lại qua đêm tại một khách sạn lớn. Sáng hôm sau dậy sớm, Â và tôi định rủ O. đi bộ xem những con phố cổ ra sao. Nghe nói Hội An trong buổi sáng sớm đẹp lắm, êm đềm và tĩnh lặng vô cùng. Nhưng không thấy O. đâu cả. Chờ khá lâu, cũng không thấy. Có lẽ anh chàng hiếu động này lại xuống dưới kia tán chuyện với cô tiếp tân xinh đẹp. Một khi O. đã bị người đẹp hút hồn, khó kéo hắn đi nơi khác.

Â. và tôi cùng đi với nhau vậy. Danh bất hư truyền, Hội An sáng tinh sương đẹp ngoài cả mong ước. Lúc trở về, cũng không thấy cái anh chàng mê gái này, chúng tôi tới phòng tiếp tân hỏi. Họ cũng không biết gì hơn. Một người bảo thử ra tìm ngoài hồ bơi, khá xa. Tôi hỏi đường đi. 

Quả nhiên O. và Katherine đang ngồi bên nhau chuyện trò, ăn mặc bình thường, nghĩa là không mặc đồ tắm. Thấy chúng tôi, Katherine vồn vã. O. “thanh minh thanh nga.” Khi chia tay trở về phòng chuẩn bị đi ăn sáng, O. mời cô nàng cùng đến ăn, và bạo mồm tỏ tình với cô nàng trước mặt hai chúng tôi: I love you.  Sau một cái mỉm cười nhẹ nhàng, cô ta nói với chúng tôi rằng rằng bạn của hai anh quả là người nhanh nhẩu, tốt bụng, vui tính. Anh ấy luôn luôn muốn làm vui lòng kẻ khác. Xoay qua O., cám ơn anh nhiều. 

Ra đến Huế, chúng tôi ở tại một khách sạn gần sông Hương. Sau mấy ngày đưa chúng tôi đi thăm bà con, thăm mộ, thăm lại những thắng cảnh, mấy đứa em họ rủ đi “chơi trên sông, trên nước, mênh mông. Sẽ là một chuyến đi ướt át đó anh.” Chúng tôi hoan nghênh ngay, dù mùa này Huế đang mưa dầm. Katherine xin đi theo.

Một chiếc thuyền có hai mái chèo, có máy nổ, có mái che. Thuyền khá lớn đủ để chở bốn người chúng tôi và khoảng mươi người nữa — đó là những người em họ, vài đứa cháu của tôi, và vài đứa bạn của các cháu. Nhưng không có phao nổi để phòng thuyền đắm. Katherine nêu lên điều đó. Chúng tôi bảo không phao cũng không sao, chúng tôi quen vậy rồi. Cô nàng có vẻ ngạc nhiên, và im lặng. Thật ra về sau này nhờ “văn minh” có nhiều phương tiện, và biết quý mạng sống, nên đi thuyền trên sông, trên biển phải có phao, hoặc áo phao. Trước kia khác. Chúng tôi lì lợm, chẳng cần phao, giống như trước kia.

Chúng tôi sẽ theo đường thuỷ đến núi Tuý Vân, có ngôi chùa cổ. Khá xa. Tuý Vân gần cửa Tư Hiền, đi thêm một đoạn sẽ đến vùng Cảnh Dương rồi Cảng Chân Mây. Tiếp theo sẽ đến Lăng Cô, và Đèo Hải Vân, nối liền Quảng Nam với Thừa Thiên, Huế. 

Mưa nhẹ. Thuyền neo tại bến đậu gần cầu Trường Tiền. Lên thuyền lúc 8 giờ sáng, và hướng về Ngã Ba Sình, chỗ gặp của sông Hương và sông Bồ. Nhìn phía trái, xa xa là lò gạch Nam Thanh chìm trong mưa mù, nằm giữa những cánh đồng xanh man mác và ướt át. Khói từ lò gạch bay lên uốn éo trong khoảnh khắc ngắn rồi lẫn trong màn mưa. Sóng càng lúc càng lớn khi thuyền đến gần ngã ba sông. 

Tới ngã ba sông, nếu rẽ trái sẽ đi trên sông Bồ, sẽ chạy qua các làng Vân Cù, Liễu Cốc, Hương Cần bên trái con sông. Làng Phù Lương bên phải, cũng gần đấy. Sông Bồ dài lắm, chảy qua nhiều làng quê khác nữa. Nhưng chúng tôi rẽ về hướng cửa Thuận An, từ đó nếu theo hướng bắc sẽ đến bến đò Ca Cút, các làng Thế Chí, Quảng Công, v.v …, và Phá Tam Giang. Chúng tôi sẽ theo hướng nam. 

 Thuyền ghé lại chợ Quy Lai mua thịt heo, đùi heo còn tươi gói vào lá chuối xanh, rau sống, ớt tỏi, chai nước mắm, bánh mì và mươi lon bia. Nhân tiện tới thăm đình làng Quy Lai cổ kính cách chợ không xa, được xếp vào Di Sản Văn Hóa Quốc Gia. Trở lại thuyền, chúng tôi hướng đến đầm Thanh Lam rồi đầm Hà Trung, v.v… 

Mưa càng lúc càng nặng hột, sóng càng lớn, đánh tung vào mạn thuyền, nước bắn ướt mọi người. Mái thuyền hơi nhỏ không đủ che kín con thuyền. Thảo nào mấy em họ của tôi đã nói đây là “một chuyến đi ướt át.” Phái nữ được ngồi bên trong. Cũng may trên thuyền có mấy cuộn bao ny-lông. Những chàng thanh niên vội lấy kéo cắt cuộn ny lông ra thành từng vuông quấn quanh vào người. Tuy thế ai nấy đều bị ướt át, vì trên thì mưa to, dưới thì nước bắn vào. 

Thuyền vẫn bươn bươn tiến nhanh. Cá dưới đầm tránh thuyền chốc chốc nhảy tung lên khỏi mặt nước khoe cái bụng trắng xoá lóng lánh. Có những vùng nước trên đó bèo hàng nối hàng trôi nổi lềnh bềnh. Thuyền chạy xuyên qua, bèo rẽ thành lối, rồi tụ lại. Năm ba cánh bèo bị giạt ra xa hơn hoặc bị thuyền kéo đi theo một quãng khá dài.  

Thuyền đi hơn 3 tiếng đồng hồ thì mọi người đều ướt mèm và đói. 

Các cô, các cậu bèn hè nhau, người thì lấy gàu múc nước từ dưới sông, dưới đầm lên để rửa sạch những gói thịt heo, kẻ thì chặt thịt ra thành những miếng to bằng mấy ngón tay, rồi cho vào nồi đun sôi lên bằng lò ga mang theo. Khi nước vừa sôi, thả thịt heo vào, nước nguội bớt. Chờ nước sôi lại, cái nồi gần cạn nước, lại thêm nước lạnh vào. Nước thì khỏi lo, chỉ việc lấy nước ngay bên mạn thuyền từ dưới đầm màu bạc trắng đục chứ không trong trẻo như nước máy. Cứ để cho nước cạn rồi thêm nước vào như thế mấy lần, cho đến khi thịt heo chín. Tôi ngạc nhiên hỏi, một cô em nói luộc thịt heo theo cách đó thì mới thơm, ngon. 

Katherine chẳng biết phải làm gì, vả chăng chẳng được ai giao việc gì để làm. Cô ta ngồi yên nhìn ngơ ngác, ngạc nhiên. Một em có vẻ ngại ngùng nói:

“Chắc cái o con gái da trắng này “gớm” cái lối nấu ăn của tụi mình.” 

Một em khác tiếp lời ngay:

“Mặc kệ cái o nớ. Nhập gia tùy tục.”

“Đừng nói rứa. Người ta buồn. Tội nghiệp.”

“Không răng mô. Mình nói tiếng Việt nó không hiểu đâu.”

Quên mang theo chén, dĩa, đũa, muỗng. Những ngón tay làm đũa, muỗng; lá chuối làm chén, dĩa. Nước mắm chế vào lon bia đã uống cạn được cắt ra làm hai, lấy phần dưới. Nước mắm chia làm hai loại, một nửa có cho vào chút ớt thôi, nửa kia rất nhiều ớt và tỏi. Tỏi tươi và ớt trái còn xanh. Mỗi trái ớt to bằng và dài hơn ngón tay cái, cay, giòn, thơm, cắn nghe rốp rốp. Cầm nguyên trái ớt cạp mạnh, khỏi lấy dao xắt lát. Bánh mì thì dễ, ai muốn ăn bao nhiêu bẻ lấy ra mà ăn, khỏi cần lấy dao cắt.

Từ lâu tôi biết thịt heo tại những vùng quê ở Huế ngon lắm. Heo cỏ nhỏ con được cho ăn thân chuối tươi trộn với nước mả (nước vo gạo) và cám, nấu sôi lên. Hồi trẻ còn đi học tại Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi nhận được quà Huế của hai O gởi vào trong đó có cái đùi heo luộc — đùi trước nhiều thịt, mỡ, da, núc ních. Mấy chàng sinh viên nhớ nhà, nhớ món ăn quê hương, tranh nhau “đớp” như điên, trầm trồ khen nức nở. Lần này trên con thuyền trôi nhanh, dưới cơn mưa rào rào và lạnh, sóng nước lênh láng, mà bụng thì đói, món thịt heo luộc chấm nước mắm cay “xé họng” ăn với bánh mì nướng nóng hổi, và được trợ hứng bằng bia lon. Sao mà ngon đến thế. 

Katherine nhìn chúng tôi ăn uống “xộc xộc”, sửng sốt. Cô ta chỉ khe khẽ ngứt chút bánh mì gặm gặm như thỏ ăn lá bìm bìm. O. mời cô ta ăn thịt heo, cô cười nhẹ và lắc đầu. Tôi bồi thêm:

“Ngon lắm, ăn thử một miếng chơi thôi. Không sao đâu, không răng mô (Trong lúc quá vui, tôi định nói no star  where, no tooth where, sợ cô không hiểu).”

Nể mất lòng, cô nàng thò hai ngón tay nhón lấy miếng thịt heo nhỏ không mỡ. Tôi vội dặn thêm:

“Nhớ chấm thịt vào cái lon ít ớt nhé.”

Ăn xong miếng thứ nhất, không đợi ai mời thêm, cô đã vội vàng “vồ” miếng thứ hai, rồi thứ ba, thứ tư … không chút ngại ngùng. 

Chúng tôi cười to, mấy người em cũng kín đáo cười. Katherine cố làm tỉnh. 

Trong mấy người đó, cũng có một người em dạy tiếng Anh tại một trường trung học ở Huế, một người cháu làm việc tại sở Du Lịch thành phố, cả hai đều nói tiếng Anh khá lắm. Nhưng không hiểu vì sao không ai chịu bắt chuyện với Katherine. Hay là họ muốn đặc biệt dành cho ông O. đa tình cái hân hậnh độc quyền thù tiếp “người đẹp của riêng ông”. Bù lại họ luôn luôn giữ một thái độ nhã nhặn vừa phải, không quá vồn vã, cũng không lạnh nhạt. Mọi người đều cảm thấy vui vẻ, tự nhiên, thoải mái. 

Tuổi trẻ bây giờ tự tín hơn. Ngày xưa có người gặp dịp nói chuyện với người nước ngoài, nhất là người Âu, Mỹ, thường vồ vập xoắn xuýt quá đáng. 

Thuyền vẫn chạy dưới cơn mưa tạnh dần giữa cái đầm mênh mông, sóng nước lênh láng. Lắm lúc tiếng máy nổ chát chúa, và tiếng sóng vỗ mạnh vào mạn thuyền, át cả tiếng hát vang dậy. Vâng, có mấy em hát hay. 

Tôi thích đi thuyền bằng mái chèo hơn, nhưng đường xa, chèo thuyền thì bao giờ mới tới. 

Trời lạnh thêm. Một lần chúng tôi đi lạc vào vùng có đăng đó bao quanh nhiều vòng.  Đó là vùng ngư dân đánh cá. Phải mất hơn một tiếng chúng tôi mới thoát ra khỏi “mê cung”. Chúng tôi đã cẩn thận quay thuyền lại con đường cũ, và tìm đường mới mà đi chứ không giở trò “làm liều” phá những cái đó cái đăng để băng qua cho mau. 

Và thế là đã đi gần hết đầm Hà Trung. Sắp đến đầm Cầu Hai. Nghe nói cá dưng, cá dìa tại đầm Cầu Hai ngon lắm. Nhìn xeo xéo bên phải, núi Bạch Mã ẩn hiện khi mờ khi tỏ theo những cơn gió thổi khiến những làn mưa uốn éo trông như những dải lụa trắng xoá khổng lồ vờn vờn trước núi. Bên trái chúng tôi là một vùng cây cối xanh tươi, thỉnh thoảng điểm những cánh cò trắng xiêu lạc trong mưa. Đó là làng Mỹ Lợi nổi tiếng trồng thuốc lá và cau.

Qua gần hết đầm Cầu Hai, thuyền rẽ trái, và tới neo lại gần chân núi Tuý Vân. Núi thấp, leo lên đỉnh dễ dàng. Chúng tôi tới thăm ngôi chùa cổ đã gần như mục nát. Chùa vắng teo. Không thấy thầy trụ trì. Chắc thầy đã đi “vân du hái thuốc”. Cũng không gặp mấy chú điệu (chú tiểu) tóc ba chòm. Thế mà chúng tôi cũng rắn mặt vào sâu trong chùa, trèo lên thang gác chuông ọp ẹp, nhìn xa bốn phương.  

Đã trưa rồi, nhưng 2 giờ chiều chợ mới nhóm. Sau khi thăm chùa, ngồi bệt xuống đất chờ độ nửa tiếng tại một ngõ trúc xanh biếc, chúng tôi vào chợ mua cá thu nướng, chả Cầu Hai và dâu từ Truồi mang đến. Đem vể thuyền ăn với bánh mì còn lại. Cũng ngon quá đi lận. Và sửa soạn trở về.

Thế là chuyến đi đã tới đích, nay chờ chuyến về. Niềm vui hiện rõ lên nét mặt, lên cặp mắt của mọi người.  Nhưng cái vui không phải vì tới đích mới vui. Vui đã tràn ngập trên dọc đường đi, trong sự hăm hở, trong chờ đợi. 

Lúc quay trở lại thành phố Huế, thì trời đã chiều. Mưa lớn. Mọi vật phía trước cách khoảng vài mươi mét đều chìm trong cơn mưa tầm tã, mù mịt. Thuyền đi lạc. Quay lui tìm đường lại mất cả tiếng đồng hồ. Lạnh quá. Cháu H. con của K. cho mượn chiếc áo mưa ny-lông trong và mỏng dính. Tôi thầm nghĩ cái áo này ăn thua gì, nhưng cũng nhận lấy. Thế nhưng khi khoác áo vào, thấy ấm hẳn lên. Để đền ơn, tôi ngồi đằng trước án ngữ che mưa cho cháu. 

Chiều xuống nhanh trên đầm và tối nhanh. Thuyền lại không có đèn pha. Mấy người có đèn bấm đều mang ra soi đường cùng một lúc, sợ thuyền lủi vào bờ sông, bờ đầm, hoặc đâm vào những hàng đăng đó, hoặc chui vào những đám lau lách san sát. Hoặc có thể đụng vào những thuyền khác đang ngược xuôi.

Thế là trong chuyến đi, một lần bị lọt vào “mê cung đăng đó”, và trong chuyến về, bị lạc trong mưa mù. 

Trời tối hẳn, đường về còn xa. Cuối cùng, may quá, chúng tôi cũng tìm thấy bến sông trước chợ Quy Lai nơi chúng tôi mua thức ăn hồi sáng. Không dám chạy tiếp vào ban đêm tối tăm, không đèn đóm, không phao nổi, chúng tôi neo thuyền ở đó. Dùng cell phone gọi tắc-xi. Gần 11 giờ tối mới về đến nhà.

Tôi nhiều lần tự hỏi rằng nếu thích phiêu lưu, mạo hiểm trong một chuyến đi xa, hay muốn thoát ra khỏi nếp sống đều đặn nhàm chán hàng ngày, hay muốn gặp chuyện bất ngờ, hay muốn có những kỷ niệm khó quên, thì phải làm gì? Câu trả lời có thể như thế này chăng. Trước khi ra đi, đừng nhọc công nghiên cứu phong tục, tập quán, địa hình, địa vật, sinh hoạt, của nơi sắp đến. Đừng quan tâm đến mưa nắng, dự báo thời tiết. Đừng sửa soạn, tính toán kỹ lưỡng, nào thức ăn thức uống quen bụng, quen miệng, nào áo quần ấm hay mát cho hợp thời tiết, khí hậu, nào thuốc men cho đầy đủ, phủ phê phòng khi ăn ngộ độc, bị té ngã, thương tích, vân vân. Làm như thế là vô tình đánh mất tất cả mọi cái bất ngờ, kinh ngạc, hăm hở.  

Chắc hẳn trong số những người vừa trải qua chuyến đi trên “sông nước ướt át” cũng có khá nhiều người chấp nhận cái ý nghĩ “tào lao” nói trên của tôi. Cho nên khi chia tay, đói lạnh, và ướt át, nhưng mọi người đều không vì thế mà tỏ ý khó chịu, hay phàn nàn, bực bội. Trái lại rất hài lòng, rất vui vẻ, và nhanh nhẩu hẹn nhau tổ chức những cuộc “phiêu lưu” khác nữa.  Chẳng hạn sau khi đi thuyền, hãy leo núi. Huế có rất nhiều thắng cảnh ở vùng  đồi núi, đồi Vọng Cảnh, núi Ngự Bình, Tâm Thai, Núi Tím, v.v… Tôi nhớ câu ca dao:

Lên non thiếp cũng lên theo

Xuống thuyền thiếp sẽ cheo leo mạn thuyền

O. cười sung sướng khi tôi nói chữ  “thiếp” là Katherine đó. 

Một cuộc phiêu lưu khác? Khi nào? Một tương lai gần nhé. Vài tháng hay vài năm?

Nhưng chỉ một thời gian sau, tôi bàng hoàng nhìn lại. Bị mất mát quá nhiều. K.  đột ngột qua đời. Cháu H., con gái cưng của K. sang sinh sống tại Pháp, hiếm có dịp liên lạc. T. thì đi nơi nào không ai biết. Â. mất tại Sài Gòn vì bạn bè đã đi ra nước ngoài gần hết, buồn phiền, trầm cảm, và hút thuốc lá liên miên, nên bị ung thư. Tôi đã kịp về Việt Nam để nhìn Â. lần cuối. Vậy chỉ còn lại O. mà thôi hay sao? Thế mà cũng không còn. O. lại bị bệnh nặng, nhanh chóng qua đời. Thế Katherine? Ngay trước khi mất, O. đã không liên lạc được.

Nhớ lại chuyến đi trên sông nước ướt át năm đó. Nhớ lại buổi chia tay trong đêm hôm khuya khoắt. Mọi người hăng hái, hăm hở, và tin tưởng rằng sẽ dễ dàng có ngày tái ngộ, mà quên bẵng đi rằng mỗi người trong chúng ta, vào thời buổi này, có khác gì một cụm mây trong đám mây đang trôi, một cánh bèo trong đám bèo đang giạt. Khi cụm mây đã tách rời đám mây, cánh bèo đã xa lìa đám bèo, có thể nào cụm mây quay trở về với đám mây cũ, cánh bèo gặp trở lại với đám bèo xưa.

Ngự Thuyết  

Hình minh họa: AI generated. 

[1] But he had never written a line of that, nor of that cold, bright Christmas day with the mountains showing across the plains …  

[2] he had been in it and he had watched it and it was his duty to write of it; but now he never would.

[3] No, he had never written about Paris. Not the Paris he had cared about. But what about the rest that he had never written? What about the ranch and the silvered gray of the sage brush, the quick, clear water in the irrigation ditches, and the heavy green of the alfalfa. The trails went up into the hills and the cattle in the summer were shy as deer. The bawling and the steady noise and the slow moving mass raising a dust as you brought them down in the fall …