Nguyễn Công Khanh: Tình Tự Cho Một Quê Hương
Nhớ lại 50 năm trước, một điều dĩ nhiên là thế giới không phải như ngày hôm nay, nước Mỹ không phải như ngày hôm nay và người Việt ở Mỹ hay ở khắp các nơi cũng không hẳn là người Việt ngày hôm nay. Trong thời gian ấy, ít nhất hai thế hệ mới đã ra đời.
Nhớ lại 50 năm trước, đêm cuối cùng, một phép lạ đã đưa chúng tôi lọt được vào quân cảng Saigon và trèo lên được chiếc chiến hạm cuối cùng đang nằm ụ, bỏ nước ra đi. Những ngày dài chen chúc nhau trong một con tầu chết máy trôi trên biển mãi mới đến được đảo Guam. Những ngày lang bạt, tất tưởi rời trại này qua trại khác, cuối cùng được đưa vào vào đất liền, và tạm trú tại Camp Pendleton trại Thủy Quân Lục Chiến miền Nam Cali. Trại trải dài hàng cây số, với hàng trăm căn lều vải đón nhận hàng trăm ngàn người tị nạn.
Lúc đó, còn có nhau, ngủ trên ghế bố nhà binh chung lều, ngày ba bữa xếp hàng đi ăn, còn lại ngoài giờ thì đi từ trại này sang trại khác tìm người thân, lo cho những người ở lại, và chờ gọi lên làm thủ tục, đợi xem có ai bảo trợ ra bên ngoài định cư. Nghĩ đến đó, ai cũng cũng có cùng một suy nghĩ vừa mừng vừa lo âu, mừng là mình sẽ có một cuộc đời mới, lo là mình sẽ bị tách rời khỏi đồng bào mình để đưa đi mất hút vào một miền đất mới lục địa mênh mông.
Cuối cùng, sau hơn ba tháng chúng tôi được một nhà thờ Baptist tại một vùng lân cận Seattle bảo trợ. Vợ chồng ông bà mục sư cùng một vài người của nhà thờ ân cần đón chúng tôi tại phi trường và đưa đến một căn nhà có 4 phòng tại một thành phố nhỏ gần đó. Họ cẩn thận chu đáo lo mọi thứ cho chúng tôi, gần như đủ cả, giường, bàn ghế, chăn gối sạch sẽ, lại có cả máy giặt và máy sấy, tủ lạnh thì đầy thức ăn cả tuần… Hàng ngày, họ đến giúp đỡ và hướng dẫn hội nhập vào đời sống mới. Chúng tôi cám ơn họ suốt đời, nhiều người không còn nữa và nhiều người chúng tôi đã đến dự tang lễ cuối cùng của họ.
Qua suốt một ngày di chuyển khá mệt, buổi sáng đầu tiên, chúng tôi thức giấc muộn. Đó là một buổi sáng mùa Hè, nhưng vẫn cảm thấy lạnh. Tôi ra khỏi phòng, mở cửa nhìn ra bên ngoài, ngỡ ngàng trong một thinh không không tiếng động, một không gian không một bóng người, không thấy một chiếc xe chạy qua. Cái không gian vắng lặng này tôi nghĩ vẫn không thay đổi trong nhiều khu phố tại Mỹ cho tới ngày hôm nay.
Những người hàng xóm đầu tiên mà chúng tôi tiếp xúc là những đứa trẻ hàng xóm hiếu kỳ lân la đến đứng xa nhìn, nhưng chỉ ít ngày sau, chúng tôi làm quen được và các con chúng tôi ra chơi với chúng. Tôi còn nhớ một kỷ niệm khó quên, là chúng muốn tôi dậy cách cầm đũa. Tôi tin rằng những trẻ này thời ấy chưa bao giờ được bố mẹ đưa đi ăn cơm Tầu và đây là lần đầu thấy có người dùng đũa để ăn. Bài thi cuối cùng trong lớp huấn luyện đó là, tôi đưa cho mỗi đứa trẻ một đôi đũa và đặt mấy hòn bi ve tròn thủy tinh trên một cái đĩa. Đứa nào gắp được lên hai lần là đỗ. Sau một hồi chật vật, một đứa đầu tiên sung sướng hét lên “I did it, I did it!”. Tôi cũng sung sướng không kém vì đã làm tròn nhiệm vụ. Tôi tặng cho chúng đôi đũa và còn muốn ký trao cho chúng “Chứng Chỉ Cầm Đũa”.
Tôi còn muốn viết thêm những gì đầu tiên, chân ướt chân ráo trên một miền đất xa lạ, bao la. Người Việt Nam đầu tiên tôi đã gặp. Chén nước mắn đầu tiên mà mấy tháng trời không có trong bữa ăn đã khiến tôi phải cầm lên húp một hơi và ngồi một lúc lâu để cái chất mặn của quê hương ấy thấm dần vào cơ thể.
Những bát phở đầu tiên, những bát phở dò dẫm, khám phá ở nhà hay của bạn bè. Mọi người quây quần, vừa ăn vừa khen. Người thì gật gù, giọng khuyến khích: “Cũng gần giống phở”, người thì nhiệt thành hơn, kêu: “Giống quá! Giống quá!” và ngậm ngùi nhớ đến những bát phở ở nơi mà mình vừa rời bỏ.Nhớ đến cái Tết đầu tiên, hai vợ chồng chúng tôi làm một bàn thờ nhỏ, thắp hương cúng vọng tổ tiên ở quê hương xa. Tối đó tuyết vừa tan, tôi lái xe đưa gia đình đến họp mặt đầu năm, đồng bào từ các thành phố lân cận tụ họp đông nghẹt cả hội trường lớn. Cô ca sĩ Thanh Thúy được mời từ Cali lên, áo lạnh khoác bên ngoài dầy cộm, lướt mướt từ bên ngoài bước vào. Những bài cô hát tối nay, nghe rất quen thuộc mà tôi đã được nghe bao nhiêu lần từ bao nhiêu năm qua, sao lần này nghe thấy rưng rưng khôn tả, muốn khóc.
Chiếc xe đầu tiên tôi có là một chiếc xe cũ đời 62, tôi đã lái đi quanh vùng thăm bạn bè, dự các buổi họp cộng đồng và đúng là “Điếc không sợ súng” đã dùng cái xe đó lái hơn ngàn dặm xuống miền Nam Cali thăm bạn bè, khiến nhà thờ phải viết lời cầu nguyện an lành cho chúng tôi trên bản tin của họ. Xe không có máy lạnh chở 7 người, trời Cali nắng gắt, sờ vào thành xe nóng bỏng. Đường thì nhiều đèo, máy nóng khiến bình nước nhiều lần bốc hơi ngùn ngụt, nhưng may mắn chúng tôi cũng đi được đến nơi về đến chốn.
Nhớ đến cái “job” đầu tiên, lúc đó chúng tôi và bạn bè đều nghĩ rằng mình như người đuối nước nên chấp nhân bất cứ một cái gì để tồn tại. Khi người bảo trợ hỏi có muốn đi làm không, ai cũng trả lời là có và “I can do any job”.
Chúng tôi cũng vừa quen với một gia đình Viêt Nam mới đến. Chồng vốn là phi công, vợ là thư ký ngân hàng. Bà vợ được giới thiệu làm “Housekeeper”, trong phần công việc lại có vụ lau cầu tiêu, bà ta đi làm về tủi thân, ngồi khóc ấm ức. Tôi cũng không khá gì hơn, được cái job part-time có tên là “Maintenant” trong một khu người già; suốt buổi công việc là “móp” sàn nhà và dùng máy hút bụi nơi có thảm. Tôi đã không nề hà vì công việc, nhưng lương của tôi lúc đó là lương tối thiểu có $2.25 một giờ, nghĩ đến làm sao nuôi nổi một gia đình 7 người và tương lai thì mù mịt. Ít lâu sau, tôi xin nghỉ và tìm cách đi học lại tìm một nghề thích hợp hơn. Phải cám ơn nước Mỹ một lần nữa, lúc nào cũng sẵn sàng cung cấp cơ hội cho mọi người.
Nói đến những thứ đầu tiên, mà không kể đến căn nhà đầu tiên là một điều thiếu sót. Người Việt thường coi câu “An cư lập nghiệp” làm châm ngôn. Ba năm sau, chúng tôi đã mua căn nhà đang ở khi người chủ muốn bán. Mua nhà lúc đó quá dễ dàng, giá nhà chỉ chừng trên ba chục ngàn, tiền “down” khoảng ba ngàn, trả hàng tháng dưới ba trăm. Chúng tôi sửa sang, sơn lại căn nhà giống như “Căn nhà trong mộng”, trong bài học thuộc lòng văn chương Pháp hồi trung học mà khi chúng tôi mới lấy nhau thường mong ước: “Căn nhà mầu trắng có những cửa sổ sơn mầu lá cây”. Chúng tôi làm thêm hàng rào thưa theo kiểu pickle cũng sơn theo mầu trắng và trồng thêm các loại hoa. Nhà chúng tôi ở ngay đầu dẫy nổi bật, nên làm khu phố được sáng sủa thêm, thay vì một căn nhà cho thuê như trước kia. Hàng xóm đi qua thường hay dừng lại cám ơn. Chúng tôi ở đó sáu năm. Sau khi dọn đị một thời gian, tôi gặp lại vợ chồng ông hàng xóm bên cạnh, thay vì mừng rỡ, ông giơ tay đấm vào bụng tôi, đấm đùa thôi, nhưng giọng đầy trách móc là tôi đã bán nhà cho một tên lười biếng để căn nhà nhếch nhác, lại mang đầy đồ cũ ở đâu về, làm hỏng cả khu phố.
Trong từng năm ấy đến nay, chúng tôi đã đổi đến bốn căn nhà, căn nhà thứ hai là một căn nhà mới, từ trên bao lơn chúng tôi có thể nhìn thấy biển qua ngọn cây và những hoàng hôn rực rỡ, mặt trời tròn đỏ ửng lặn dần. Đây là một thành phố ven biển yên bình, trong cơn gió có mùi rong biển và đêm nào cũng nghe thấy tiếng những con tàu hụ từ xa vọng lại. Tôi còn nhớ có những chiều hè cả gia đình thường hay lội bộ trên bãi biển và đi ra cầu tầu ngắm biển ngoài xa. Chúng tôi ở đó gần hai chục năm, con cái đều xong trung học ở đó.
Căn nhà thứ ba chúng tôi mua lại, có lẽ vì hàng đào, khoảng mười cây đào Nhật Akibono trồng sau nhà, mùa Xuân hoa nở phủ rợp đầy sân. Con cái chúng tôi lúc đó đã xong cấp Đại học và tung cánh đi các nơi xa. Thay vào đó chúng tôi cần bạn, nên mỗi mùa hoa đào nở lại có dịp mời các bạn đến nhà dự “Hội Hoa Đào”. Cùng các bạn uống trà, ngâm các bài thơ xưa và hát những bài ca của một thời… Nhưng chúng tôi lại chỉ ở căn nhà này có bốn năm.
Khi gần về hưu, chúng tôi lại đổi nhà lần nữa, đáng lẽ là phải mua một căn nhà trệt nhỏ hơn, không hiểu sao khi chúng tôi đến một khu mới, một khu cũng bình thường, lại chọn một căn nhà phía trên lưng chừng đồi, tầng nào cũng có thể nhìn xuống một vùng thung lũng mà ban đêm đèn sáng như sao sa. Hai bên đường, một bên họ trồng hàng đào Thunder Cloud, bên đối diên họ trồng hàng cây phong nên hai hàng cây đó khi nở hoa, khi lá đổi mầu, khi lá rụng trơ trọi đều báo hiệu cho mọi người biết sự thay đổi của bốn mùa.
Trong khu này có 24 căn nhà, gồm nhiều sắc dân. Họ bầu tôi làm chủ tịch của HOA, tạm gọi là ông Trưởng Khóm.
Ai đến thăm nhà cũng kêu, sao đến tưổi này còn chọn căn nhà như thế, đã leo dốc lại còn leo hơn hai chục bậc thang. Nhưng chúng tôi lại thích ở căn nhà khoáng đãng này vì gần đủ các nơi mà chúng tôi cần đến, nhất là nghĩ rằng có đủ phòng ốc để các con của chúng tôi dễ dàng khi từ các tiểu bang khác về thăm, và dù mùa đông có nhiều lần phải bỏ xe dưới đường lội bộ lên đồi. Hai mặt nhà là khu rừng thông cao ngất còn lại, có lần một cơn bão đã thổi ngã luôn ba cây, may quá chiều gió lại về phía rừng, nếu không thì cả nhà sẽ bị sập.
Vườn sau, đi thẳng từ phòng khách ra, tôi thuê trải sỏi và lát gạch nên không phải cắt cỏ chăm sóc thường xuyên. Nhớ lại căn nhà trước tôi trồng sáu cây đào Yoshino, mùa Xuân hoa nở không thấy trời, lúc hoa rụng trắng xóa cả sân. Tôi chép lại mấy câu thơ hợp cảnh của một người bạn thơ:
Ta về ở ẩn lưng đồi
Rạng đông bắt gặp mây trôi ngang nhà
Tự tay đun nước pha trà
Ngắm đào nở rộ tháng ba quanh vườn
(Thơ Trần Thiện Hiệp)
Tôi dựng thêm một gazebo. Những buổi sáng, buổi chiều ngồi trong đó uống cà phê nhìn lên phía đồi sau, thấy những con chim lạ đến nhẩy nhót trên cành, những con cáo nhỏ vừa ra khỏi rừng đứng ngơ ngác nhìn xuống thung lũng xa. Năm vừa rồi hai mẹ con nai đến vườn ăn cỏ và gặm những quả táo non. Tôi theo rõi, thấy nai con lớn dần và cho đến một hôm chỉ thấy có nai con đến, tôi vừa buồn vừa vui là nai con đã trưởng thành và nai mẹ bao lâu nay đã dẫn con đến những nơi quen thuộc để tự mình kiếm ăn. Có lần một con công lạc đến và ở lại trong khu vườn của tôi hai tháng trời. Người ta nói công đến nhà là có tin vui, quả nhiên năm đó hai đứa con tôi lấy vợ lấy chồng mà chúng tôi nhiều năm mong đợi.
Căn nhà này chúng tôi ở đã hai mươi năm rồi, chắc còn ở nữa cho đến khi phải “Downsize” rời đi một địa chỉ khác. Tôi cũng không hiểu sao, qua nhiều lần dọn nhà như thế chúng tôi lại không nghĩ đó là những dịp giúp tôi dọn về Cali như chúng tôi và các bạn cũ đều mong muốn trong nhiều năm qua, mà chỉ dọn luẩn quẩn quanh vùng. Có những lần, cùng các con ở xa về, lái xe vòng qua thăm những căn nhà xưa, chúng tôi đậu xe bên đường, ngồi bên trong yên lặng ngắm lại căn ngày nào mình ở, biết bao nhiêu kỷ niệm tràn về…
Có phải chúng tôi đã mọc rễ khá sâu ở đây, nhổ đi cũng khó. Có phải chúng tôi đã thấm những gì quá đậm ở nơi này. Cha mẹ chúng tôi đã yên nghỉ ở đây, các con cháu và các thế hệ tiếp theo cũng sẽ ở đây. Năm nay tôi đang đứng ở ngưỡng cửa 90, tôi sinh ra ở Hà nội và rời Hà nội “năm tôi mười tám…”, cả một thời thanh lịch, phong lưu, lãng mạn di cư theo cả thành phố khi đất nước chia đôi. Sống ở Saigon hơn 20 năm, chào đón, ngọt ngào với những năm hưng thịnh. Và đến nay đã ở Mỹ 50 năm, dài hơn gấp đôi ở Việt Nam rồi.
Chúng tôi cũng chỉ là những người bình thường, không hiểu “Giấc mơ” mà mọi người thường nói đã đạt được chưa? Mỗi lần đi xa lại muốn trở về căn nhà của mình, “Home! Home sweet home!”. Về một miền “Xanh mãi ngàn năm”, về những vũng biển yên bình có những chuyến phà qua đảo, có những cánh hải âu rập rờn trong gió, có những rặng núi tuyết phủ quanh năm, nhất là có những quán cà phê trong chiều mưa… Dù rằng đây là một miền mưa lạnh rỉ rả gần suốt nửa năm, dù rằng ở đây đường xá quanh co, lên đồi xuống dốc …
Các nhà văn, các nhạc sĩ Việt Nam thường viết về tình yêu quê hương mà mọi người cho đó là “Tình tự quê hương. Tình tự dân tộc”, với lũy tre xanh, căn nhà nhỏ bé với vườn rau, con trâu già nằm yên trong ngõ, bến đò với dòng sông hiền hòa, chùm khế ngọt, tiếng võng đưa lẫn với tiếng gà gáy trưa… Những hình ảnh này chắc không còn nữa, đã bị bật gốc xóa nhòa, chỉ còn trong ký ức ảo tưởng, nhưng người ta vẫn hát, cả những người chưa từng sống với những tình tự này, và khi hát lên vẫn tưởng như cô lái đò vẫn còn neo thuyền, cô hàng xóm năm xưa vẫn còn tựa cửa chờ mình…
Một nhà văn quốc tế đã viết “Nơi nào có tự do, nơi đó chính là quê hương”. Không hiểu trong thời gian mình đã sống ở đây nửa thế kỷ, hơn nửa đời người dài hơn gấp đôi nơi mình phải rời bỏ. Trong thời gian ấy đã có bốn thế hệ, với biết bao nhiêu gắn bó, gắn bó với căn nhà mình ở, với bạn bè, với cộng đồng, với một đất nước với biết bao nhiêu là ân tình. Không hiểu như thế mọi người có cho đó là đã đủ cái tình tự quê hương, cái tình tự dân tộc cho một quê hương mới hay chưa?
Nguyễn Công Khanh