Nguyễn Văn Huy : Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên (Kỳ 2)

Bản đồ các sắc tộc ở Đông Dương phân chia theo nhóm ngôn ngữ (Nhà xuất bản Monrocq – Paris, in năm 1917). Màu xanh lá là địa bàn của người Bahnar, Mạ, Stieng, Lạt, Koho. Màu xám là vùng của người Jarai, cùng nhóm ngôn ngữ với người Chăm, Rhadé, Raglai và Churu. Màu đỏ nhạt là vùng của người Việt

C. Chính sách Thượng vụ dưới thời Pháp thuộc

Từ giữa thế kỷ 16 người Việt bắt đầu tiếp xúc giáo lý công giáo, số người theo đạo càng ngày càng đông, nhiều họ đạo lớn được thành lập. Nhưng từ thế kỷ 19 trở về sau, đạo công giáo bị bách hại, phong trào tìm đường lên cao nguyên lánh nạn trở nên mạnh mẽ, cộng đồng người Thượng qua đó đã được biết đến. Sự xâm nhập của người Pháp, và của người Kinh sau này, vào không gian sinh tồn của người Thượng là tiền đề của những phong trào hợp tác hay phản kháng của người Thượng.

1. Quan hệ với các giáo sĩ Pháp : rao giảng Đức Tin

Tại Việt Nam, người Thượng đã được các giáo sĩ phương Tây biết đến từ thế kỷ 17. Năm 1621, giáo sĩ Borri gọi chung những nhóm dân cư phía bắc Nam Phần là Kemoy (Kẻ Mọi). Giáo sĩ Marini Romain đề cập tới các vua Hỏa Xá và Thủy Xá (người Jarai) từ 1646. Năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes xác nhận xứ “Rumoi” (Rú Mọi) nằm ở giữa Lào và Annam.

Nhà truyền giáo và nhà từ điển học Alexandre de Rhodes (1593– 1660), còn gọi là Đắc Lộ

Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João để Loureiro xuất bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Dân Mọi đen và Champa) ; giáo sĩ De La Bissachère lội ngược sông Mekong lên phía bắc và khám phá các nhóm Thượng sinh sống dọc hai bờ sông. Năm 1765, giáo sĩ Pigues lên đến thượng nguồn sông Prek Chlong (Cambodia) và tiếp xúc với các nhóm “Stieng, Proue, Queraie, Penong, v.v…”, rồi trở về tay không. Năm 1770, giáo sĩ Juguet vào Prek Chlong giảng đạo cho người Stieng rồi chết vì kiệt sức (1774). Tháng 5/1775, giáo sĩ Faulet thành lập họ đạo Chlong rồi cũng chết vì bệnh sốt rét rừng (1776). Sang thế kỷ 19 những hiểu biết về Tây Nguyên rõ ràng dần ; khi thiết lập Đại Quốc Họa Đồ năm 1838, giáo sĩ Taberd dùng chữ “Mọi” để chỉ những nhóm dân sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn. Tuy vậy, những cố gắng này không có tiếp nối.

Phải chờ đến thời Tự Đức, việc cấm đạo trở nên dữ dội ở đồng bằng, cố gắng tìm đường lên cao nguyên mới được hồi sinh. Trên vùng đất phía tây Nam Phần, năm 1857, giám mục Lefèbvre cho người vào nơi sinh trú của người Stieng, phía tây-bắc Gia Định, tìm nơi trú ẩn và năm 1861, giáo sĩ Azémar thành lập được họ đạo Brolam (Bình Long) nhưng bị Pou Kombo (một lãnh tụ Khmer) đốt năm 1867. Giáo sĩ Vuillaume, khi trốn các cuộc lùng bắt đạo tại Phan Rang năm 1865, đã chạy lên cao nguyên Di Linh sinh sống với người Mạ và Sre.

Nhưng sự khám phá Tây Nguyên và người Thượng chỉ qui mô hóa từ giữa thế kỷ 19. Tại miền Trung, năm 1847, giám mục cai quản giáo phận Đông Nam Phần tại Bình Định, Etienne Cuénot cử ông Nguyễn Độ, một tín đồ người Kinh, đi từ Trạm Gò đến An Khê vào lãnh thổ người Jarai Hadrong.

Năm 1850, Nguyễn Độ dẫn bốn giáo sĩ Pháp (Combes, Fontaine, Dourisboure, Besombes) vào nơi cư trú của người Bahnar, Rengao, Sedang và thiết lập các họ đạo tại Kon Xolang, Kon Koxam và Kon Rohai. Khi về đồng bằng, mỗi phái đoàn vẽ lại bản đồ và ghi chú chi tiết phong tục tập quán của từng nhóm sắc tộc đã tiếp xúc. Đó là những tài liệu về cao nguyên miền Trung chưa từng được biết. Cũng nên biết Bahnar là nhóm sắc tộc đầu tiên, sau người Kinh, có chữ viết dựa theo mẫu tự la-tinh do các giáo sĩ dòng Thừa Sai soạn năm 1861.

Trong thời kỳ này người Sedang, Jarai và Stieng còn rất hiếu động, họ thường đánh bắt người Bahnar Reungao, Sedang Halang và Mnong Bhiet bán làm nô lệ cho người Thái và người Lào. Năm 1862, nhân bệnh đậu mùa làm chết nhiều người trên cao nguyên, các thầy phù thủy Thượng cho rằng sự hiện diện của các giáo sĩ Pháp là nguyên nhân của tại ương và kêu gọi dân chúng nổi lên đánh đuổi. Khoảng 400 quân Sedang từ phía bắc tràn xuống tấn công các làng công giáo Bahnar. Các bộ lạc Jarai từ phía nam sông Bla cũng tiến lên chiếm đóng khu vực canh tác của người Bahnar. Năm 1871, một đàn châu chấu bay đến phá hoại tất cả mùa màng của người Thượng gây ra nạn đói, các tù trưởng Jarai và Sedang lại hô hào dân chúng nổi lên đốt phá các làng đạo Bahnar.

Trước sự đe dọa này, các giáo sĩ Pháp giúp người Bahnar chống trả lại và thành lập một đội võ trang gồm 1.200 người năm 1883 để đánh trả lại những cuộc tấn công của các nhóm khác.

2. Quan hệ với chính quyền thuộc địa Pháp : Nghĩa vụ khai hóa

Sự hiện diện của các giáo sĩ công giáo làm thay đổi hẳn tương quan quyền lực trên Tây Nguyên. Người Bahnar trước kia là nạn nhân của người Jarai và Sedang này biết tự vệ hữu hiệu hơn. Thêm vào đó, các giáo sĩ Kinh còn dạy cho người Bahnar cách trồng cây lương thực (lúa nước, bắp), cây bông gòn và nghề chăn nuôi (heo, bò, trâu, ngựa, gà, vịt). Đời sống của người Bahnar nhờ đó đã được cải thiện hơn, không bao lâu sau dân số Bahnar tăng nhanh và trở thành một nhóm hùng mạnh.

Năm 1884, Sơn Phòng Trấn đặt dưới sự quản trị của chính quyền thuộc địa Pháp tại Huế. Cho tới năm 1890, triều đình nhà Nguyễn vẫn còn giữ 2.831 lính cơ và 81 đồn trên Sơn Phòng trấn, sau đó giảm dần với thời gian. Năm 1898 chỉ còn 50 người và đến năm 1899 Sơn Phòng trấn bị giải thể và giao cho Đội quân bản xứ (Garde indigène) quản lý

Đầu năm 1888, toàn quyền Constans và tổng thư ký Klobukowski cử David Mayréna (một tay phiêu lưu tinh khôn và gan dạ) lên Attopeu tìm vàng. Được các giáo sĩ Pháp giúp đỡ tận tình và nhờ tài bắn súng rất hay, đánh kiếm rất giỏi, Mayréna đã chinh phục hầu hết tù trưởng các làng Sedang tại Dakto. Sau thành công dễ dàng này, Mayréna thành lập “vương quốc Sedang” ngày 3/6/1888, viết hiến pháp, vẽ quốc kỳ và đúc huy hiệu riêng. Mayréna tự xưng là “Marie Đệ Nhất, vua người Sedang”.

Không chịu thua, ngày 20/6/1888, các giáo sĩ Pháp cũng cho ra đời Liên Bang Bahnar-Reungao-Sedang, phong một lãnh tụ Bahnar tên Krui làm “tổng thống Cộng Hòa Bahnar”. Liên bang mới này liên hiệp với vương quốc Sedang tuyên chiến với người Jarai.

Danh tiếng của Mayréna đe dọa uy quyền của Xiêm La, lúc đó gần như đặt trọn Tây Nguyên dưới quyền kiểm soát, và làm chính quyền thuộc địa Pháp tại Đông Dương lo ngại ; cả hai tìm cách triệt hạ ảnh hưởng của Mayréna trên phần đất này.

Nhân chuyến du hành sang Châu Âu tìm hậu thuẫn tháng 1/1889, Mayréna bị cấm trở về Đông Dương và chết cô đơn trên một hòn đảo ngoài khơi vịnh Thái Lan (tháng 11/1890). Tháng 3/1889, công sứ Qui Nhơn Guiomar lên Kontum giải tán vương quốc Sedang và khuyên người Sedang gia nhập Liên Bang Bahnar-Rengao do Hội truyền giáo Kontum cai quản. Điều này không làm hài lòng người Sedang, Jarai và Rhade, họ rút vào rừng sâu tổ chức chống phá sự hiện diện của người Pháp. Kể từ đó cao nguyên miền Trung trở nên mất an ninh và chính quyền thuộc địa thay mặt giáo hội công giáo bảo vệ các làng đạo, đồng thời mở rộng tầm kiểm soát trên khắp Tây Nguyên.

Mục tiêu chiến lược của Pháp trong thời kỳ này là loại trừ ảnh hưởng của Xiêm La, mở rộng lãnh thổ về phía tây, thiết lập vòng đai bảo vệ quyền lợi lâu dài của Pháp tại Đông Dương. Để thực hiện, chính quyền thuộc địa tổ chức dọ thám các vùng đất lạ, đo đạc địa hình và ghi chép phong tục tập quán của người Thượng ; xây dựng hệ thống đồn bót và cơ quan hành chánh trên vùng núi để cai trị và vô hiệu hóa sự chống đối của các nhóm Thượng bất phục tùng.

Sự xâm nhập của quân đội Pháp vào sâu trong nội địa Đông Dương, nhất là sau khi đuổi quân Xiêm sang bên kia bờ hữu ngạn sông Mekong và thành lập nước Lào dưới sự bảo hộ của Pháp tháng 10/1893, làm nổ bùng một phong trào phản kháng dữ dội trên khắp cao nguyên, từ 1893 đến 1914.

Tại Nam Lào, năm 1901, Khomadan, một thầy pháp người Phù Thái kêu gọi dân bản địa nổi lên chống Pháp trên cao nguyên Boloven, từ Ubon đến Bassac. Đầu năm 1902, người Kha và Sedang giết đồn trưởng Henri tại Nongpol, giết cai đội Sicre tại Kapeu, tấn công Savannakhet, bao vây Saravane. Chính quyền thuộc địa Pháp phải cử nhiều đoàn quân chính qui lên Nam Lào tái lập an ninh nhưng quân của Khomadan cầm cự cho tới 1907 mới bị vô hiệu hóa.

Tại Bình Trị Thiên, phong trào Cần Vương của người Việt từ 1888 lôi kéo một số khá đông người Thượng chống lại quân Pháp cho đến 1897.

Năm 1898, Pháp tiếp thu hệ thống phòng thủ cao nguyên của triều Nguyễn (Sơn Phòng Trấn). Người Thượng trước kia được hưởng qui chế độc lập với triều đình Huế nay bị đặt dưới quyền quản trị trực tiếp của Pháp đã đứng lên chống lại.

Tháng 6/1901, người Ktu tại A Sơ, A Dong và A Bạc tấn công đồn An Điềm (Đại Lộc, Quảng Nam) gây thương tích cho nhiều binh lính. Năm 1903, người H’re do Tổng Ren và Tia Các cầm đầu đánh phá các đồn Mang Gia, Nước Vo và Nước Dinh (Quảng Ngãi) ; tháng 4/1907 họ đánh phá Đức Phổ, tháng 11 chiếm đồn Đồng Mít (Quảng Ngãi) và chỉ bị dẹp yên cuối năm 1910. Người Tà Ôi nổi lên sát hại nhiều sĩ quan và binh lính Pháp trên thượng nguồn sông Sé Pouc (Quảng Trị và Thừa Thiên) năm 1911.

Trên vùng đất giữa Attopeu và Kontum, từ 1900 đến 1910, người Sedang chống phá dữ dội sự xâm nhập của quân Pháp vào xây dựng đường sá. Năm 1900, lãnh tụ Thăng Mậu dẫn quân Sedang tấn công các làng công giáo dọc hai bờ sông Psi và Poko tại Kontum, gây thương tích cho nhiều binh lính Pháp.

Từ tháng 5 đến tháng 6/1901, người Sedang tấn công đồn Psi, bắn trọng thương đồn trưởng Robert. Những làng công giáo khác trong khu vực (Dak Drei, Dakto và Krong Kno) cũng bị đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1902 khi Pháp đem quân chủ lực lên đánh dẹp. Năm 1904, người Sedang quay lại tấn công nhiều đồn bót và làng xã khác dưới sự bảo trợ của quân đội Pháp trong vùng.

Tháng 2/1907, phong trào nổi dậy của người Sedang tại Plei Beer bị dập tắt. Năm 1909, hai đồn Dak Sut và Dak To bị người Sedang chiếm đóng, linh mục Jules Vialleton quản hạt Kontum bị giết. Tháng 8/1910, quân Sedang tràn vào Trà My, Trà Giác, Tumorong, Mang Buk, Mang Ri và Tiên Phước (Tây Nam Quảng Nam), đánh phá rồi rút đi. Năm 1921, đồn Dak Pha phía bắc Kontum bị tấn công.

Tại Kontum, người Bahnar qua trung gian các giáo sĩ tỏ ra qui phục hơn các nhóm khác, nhưng sau một thời gian bị bóc lột quá đáng (làm sâu không công, các chủ đồn điền chiếm đất một cách quá tham lam) và bị các bộ lạc Thượng khác thù ghét, đã nổi lên chống lại. Tháng 1/1901, họ chiếm làng Kon Chorah (An Khê, Bình Định) rồi rút về tử thủ tại làng Plei Bring gần Chợ Đồn. Tháng 1/1907, quân Pháp bị đẩy lui tại làng Kon Klot, viên giám đốc đồn điền Delignon-Paris bị bắn chết và nhiều binh lính khác bị thương ; phong trào chống đối chỉ yên khi đại quân Pháp, do cai đội Sauvalle chỉ huy, từ Bình Định tiến lên đánh dẹp. Từ 1918, những đồn điền quanh An Khê bị người Bahnar Halakong đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1922.

Tại Pleiku, người Jarai đã chống trả dữ dội các cuộc hành quân của Pháp từ cuối 1894 đến đầu 1897. Sau đó, từ 1902 đến 1904, họ tiếp tục chống trả các cuộc hành quân khác của quân Pháp vào Pleiku và Kontum. Ngày 7/4/1904 viên thanh tra Prosper Odend’hal bị vua Hỏa Xá Oi Ất giết ; Vincillionni tiến vào An Khê thành lập quận Cheo Reo, Oi Ất phải chạy lên thượng nguồn sông Ayun trốn.

Thời gian sau, đầu năm 1905, tại Darlac viên trú sứ Bardin xây dựng các đồn Plei Tour và Chợ Đồn để canh chừng người Jarai. Tuy vậy những làng công giáo vẫn thường xuyên bị người Jarai tấn công, một số giáo dân Kinh, được trang bị vũ khí tối tân, tổ chức các cuộc hành quân trả thù những làng Jarai lân cận. Cuối cùng đồn trưởng Chợ Đồn, Renard, phải dàn xếp với hai lãnh tụ Tay (tù trưởng 21 làng Jarai tại Pleiku) và Khun (tù trưởng 7 làng Jarai tại An Khê), hứa thôi truy kích vua Hỏa Xá tình hình mới yên. Ngày 23/5/1905, 46 trưởng làng và 200 chiến sĩ Jarai quanh An Khê làm lễ qui phục Pháp tại làng Plei Tay (nơi cư ngụ của Tay, nay là Pleiku). 

Nhưng chính sách phân biệt đối xử của người Pháp trên Tây Nguyên (ưu đãi người Bahnar) làm người Jarai bất mãn, từ 1906 đến 1909 họ lại tổ chức tấn công các làng công giáo quanh Pleiku, Plei Kuen, Plei Bong, Plei Tour và Plei Rach. Tình hình chỉ tạm lắng yên trong hai năm và đến năm 1911 họ lại nổi dậy đánh phá An Khê.

Cộng đồng người Rhade được biết đến năm 1894 khi phái đoàn bác sĩ Yersin bị tấn công tại sông Poko bởi người Rhade Pih. Từ sau ngày đó, cao nguyên Darlac trở thành địa bàn thám hiểm chính của Pháp trên cao nguyên.

Năm 1899, viên trú sứ hạt Attopeu, Bourgeois, thành lập đồn Bandon và chiêu dụ được Phet Lasa, một lãnh tụ Lào tại Bandon (Bản Đôn), và Khun Jonob, một lãnh tụ Mnong trong vùng. Cả hai đã giúp Pháp thu phục các lãnh tụ Rhade Kpa (Me Wal và Me Kheune năm 1900) và nhiều lần đánh bại người Rhade Pih do tù trưởng Ngeuh lãnh đạo tại Ban Tour, Ban Trap và Ban Tieuah năm 1903.

Trên thượng lưu sông Năng, phụ lưu sông Đà Rằng, năm 1901 quân Pháp bị người Rhade Mdhur phục kích tại làng A Mai (gần Mdrack và Cheo Reo) làm một sĩ quan bị thương nặng (trung úy Péroux), quân Pháp chỉ làm chủ khu vực quanh Dak To. Năm 1905, Me Sao, một lãnh tụ Rhade Mdhur chiếm đồn Bandon, quân Pháp phải dời về Buôn Ma Thuột và Bandon chỉ được giải tỏa năm 1907, khi Me Sao bị Henri Maître đánh bại tại làng Me Leap.

Trên cao nguyên miền Nam, cường độ những cuộc chống đối có phần cao hơn miền Trung. Người Mnong và Stieng đã tỏ ra rất tích cực trong việc chống lại sự xâm nhập vào không gian sinh tồn của họ.

Sự khám phá cao nguyên Lang Bian vào cuối thế kỷ 19 kích thích phong trào xây nhà dựng cửa nghỉ mát tại Đà Lạt. Nhiều đoàn thám hiểm được cử đi khắp nơi đo đạc địa hình. Bất mãn trước chính sách bắt dân Thượng làm sâu xây dựng đường sá quá đáng, đầu năm 1901 lãnh tụ Tre Lương Pe hô hào người Chil và Lat tại Lang Bian nổi lên chống lại và gây thương tích cho viên chỉ huy trưởng Canivey và nhiều binh lính khác, nhưng vì sức yếu thế cô phong trào bị dẹp tan hai tuần sau sau đó.

Từ 1901 đến 1904, dưới sự lãnh đạo của Nơ Trang Long (Pu Trang Long), một lãnh tụ Mnong Bhiet, người Stieng và Mnong đã chống trả dữ dội sự xâm nhập và gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên một địa bàn rộng lớn từ Bình Long, Tây Ninh đến Kratie. Từ 1905 đến 1908, quân Pháp thành lập một hệ thống đồn bót nối liền với nhau (Sré Lvi, Sré Ktum, Sré Onès, La Palkei, Le Rolland, Snoul, Bù Đăng, Bù Đốp, An Bình, Bà Rá, Bà Đen, Chứa Chan, Tà Lài, Bù Nông, Bù Tiên, Bou Pou Sra, Bou Méra…) bao vây không gian sinh tồn của người Stieng và Mnong chứ không dám tiến vào.

Tháng 7/1914, Henri Maître bị Nơ Trang Long giết, người Thượng làm chủ toàn bộ khu vực Ba Biên Giới (Cambodge, Nam Kỳ và Trung Kỳ) từ 1915 đến 1933. Rất nhiều sĩ quan Pháp và binh lính Khmer bị giết trong khoảng thời gian này và cộng đồng người Thượng miền Nam bị đặt ra ngoài pháp luật. Tháng 5/1935, Nơ Trang Long bị bắt và bị xử tử, phong trào chống Pháp tạm lắng xuống.

3. Chính sách Thượng vụ của Pierre Pasquier : đào tạo giai cấp trung quan

Pierre Pasquier (1877 – 1934), Toàn quyền Pháp ở Đông Dương

Ngày 30/7/1923, Pierre Pasquier, khâm sứ Pháp tại Huế, ban hành chính sách Thượng vụ trên cao nguyên (Thông tư số 578-ca) : cai trị trực tiếp những vùng đã bình định, bao vây và cô lập những vùng chưa qui phục.

 Đối với những vùng Thượng đã được bình định, Pháp cắt đứt quan hệ giữa người Thượng với người “ngoại quốc” (Kinh, Khmer, Chăm, Lào, Hoa, Thái và Giáo hội công giáo) ; tôn trọng phong tục tập quán của người Thượng ; xây dựng đường sá, trường học, chợ búa ; cố định nơi cư trú, huấn luyện cách canh tác trên đất bằng ; ấn định số ngày làm sâu (corvée), khai thác và cấp đất cho các đồn điền trồng cây công nghiệp ; tuyển dụng binh lính, đào tạo nhân sự trung gian ; lập đồn bót, xây dựng cơ quan công quyền ; đàn áp các phong trào nổi loạn và đòi tự trị ; tổ chức những buổi lễ truyền thống hàng năm nhận sự qui phục của người Thượng.

Nói thì dễ nhưng làm rất khó, người Thượng chưa sẵn sàng hợp tác với Pháp vì không muốn bị gò bó vào cuộc sống lệ thuộc. Thêm vào đó Giáo hội công giáo bị loại ra khỏi mọi chương trình phát triển cao nguyên, quan hệ hợp tác giữa các giáo sĩ và viên chức chính quyền trong việc mở mang cao nguyên gần như không có. Giáo hội công giáo đặt nặng chương trình giáo dục thần linh, văn hóa và nhân đạo, trong khi chính quyền chú trọng vào việc đào tạo nhân sự trung gian hơn là khai hóa người Thượng về mặt kinh tế và xã hội. Hậu quả là các giáo sĩ chỉ lo cho người Bahnar và chính quyền Pháp chỉ giúp người Rhade, các nhóm khác tùy thuộc mức độ phục tùng để nhận sự giúp đỡ.

Người Rhade, vừa đông vừa có thể lực được giới chính giới Pháp nhiệt tình nâng đỡ, huấn luyện quân sự để trở thành nhóm sắc tộc ưu tú nhất trong cộng đồng người Thượng. Người Jarai và Sedang, mặc dù cũng đông dân và thân thể cường tráng, nhưng không được ưu đãi bằng vì trước kia đã chống lại người Pháp. Tuy vậy ba cộng đồng lớn này là cột trụ chính trong chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên.

Con cháu các nhân sĩ Rhade, Jarai và Sedang trong các buôn làng được tuyển chọn vào học các lớp huấn luyện văn hóa, y tế và quân sự để thay thế các bậc cha anh và trở thành giai cấp trung gian giữa chính quyền Pháp và quần chúng Thượng. Những thanh niên này còn được tuyên truyền để nghi kỵ và thù ghét người Kinh và, khi cần, cầm súng chống lại người Kinh. Quan hệ giữa người Kinh và người Thượng trong giai đoạn này chính vì vậy rất là căng thẳng, đúng như người Pháp mong muốn qua chính sách chia để trị.

Năm 1932, Tiểu đoàn lính Thượng miền Nam An Nam đầu tiên (1er Bataillon des Tirailleurs Montagnards du Sud Annam) được thành lập, gồm một đại đội chỉ huy gồm toàn người Rhade đóng ở Buôn Ma Thuột, một đại đội toàn người Rhade đóng ở Buôn Djen Drom, một đại đội toàn người Jarai đóng ở Pleiku và một đại đội toàn người Sedang đóng ở Kontum. Tiểu đoàn này có nhiệm vụ phụ giúp người Pháp đào tạo tân binh Thượng được tuyển dụng sau này. Từ 1933 đến 1942, năm tiểu đoàn chính qui khác được thành lập để giúp Pháp bình định những khu vực chưa qui phục, với tổng quân số 2.172 người gồm đủ mọi sắc tộc Thượng. Bộ chỉ huy các lực lượng này, do sĩ quan Pháp điều khiển nhưng người Rhade nắm vai trò điều động, đóng tại Buôn Ma Thuột. Binh lính Thượng bị cấm mang vợ Việt lên cao nguyên sinh sống sau khi mãn dịch.

Thập niên 1930 có lẽ là thập niên yên bình và ổn định nhất của người Thượng, Tây Nguyên phát triển với nhịp độ nhanh để bắt kịp đồng bằng. Người Thượng được sinh hoạt và canh tác tự do theo phong tục và tập quán của họ. Hệ thống đường bộ, phi đạo, nhà cửa, dinh thự, cơ sở hành chánh, trường học được tu bổ và xây dựng thêm rất nhiều. Năm 1932, Pháp còn cho xây nhiều khám lớn tại Buôn Ma Thuột, Dak Pek và Lao Bảo để giam giữ những tù nhân chính trị gốc Kinh, trong đó nhiều cán bộ cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Minh. Giáo hội công giáo cũng nhân dịp này xây thêm nhà thờ, tu viện, trường học và cơ sở từ thiện để tăng cường sự hiện diện.

Hội Trồng Trọt Pháp được thành lập năm 1930 để bảo vệ quyền lợi các chủ đồn điền và đưa người Việt lên cao nguyên làm việc. Tuy vậy, đối với người Việt, Tây Nguyên vẫn là vùng sơn lam chướng khí, ít người dám lên định cư nên sau khi mãn hạn hợp đồng (quân sự, hành chánh và kinh tế), di dân Việt thường về lại đồng bằng sinh sống.

Việc cấp phát đất quá đáng cho các chủ đồn điền trên cao nguyên khiến chính quyền Pháp tại mẫu quốc ra lệnh cho Ủy Ban Guernut sang Đông Dương điều tra từ 1937 đến 1938, nhằm hạn chế việc đưa người Việt lên cao nguyên làm việc, giới hạn diện tích cấp đất cho các công ty nông nghiệp lớn của người Pháp và thành lập nhiều khu “dự trữ” dành cho người Thượng.

4. Giữa hai làn đạn : Pháp – Nhật – Việt Minh

Từ sau thập niên 1940, cộng đồng người Thượng sống những ngày đen tối. Cuộc sống tự do giữa thiên nhiên bị chấm dứt, người Thượng bị lôi cuốn vào những cuộc tranh chấp mà họ không chủ động và còn kéo dài cho tới ngày nay.

Năm 1941, chính quyền thuộc địa Pháp buộc phải hợp tác với Nhật quản trị Đông Dương. Lợi dụng tư cách đồng minh với Nhật, tháng 5/1941 Thái Lan xua quân qua sông Mekong chiếm lại những phần đất đã nhượng cho Pháp năm 1893 (Đông-Bắc Cambodge và Nam Lào). Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, toàn bộ nhân viên dân sự, quân đội và các chủ đồn điền Pháp bị bắt. Một số đơn vị quân sự Pháp băng rừng vượt suối trốn sang Lào rồi chạy lên Vân Nam gia nhập vào đội quân của tướng Alessandri, trong đó tiểu đoàn 4 và 5 Thượng.

Trên cao nguyên, quân đội Nhật kiểm soát trực tiếp binh lính Thượng do Pháp đào tạo và toàn bộ hệ thống giao thông để chuyển vận người và vũ khí. Một số làng Thượng được Nhật nâng đỡ để làm hướng dẫn viên di chuyển trong rừng sâu. Khẩu hiệu “Châu Á của người Châu Á” của Nhật được một số trí thức Thượng hưởng ứng, nhưng ngày 19/8/1945 giấc mơ này tan biến, Nhật đầu hàng phe đồng minh ; người Thượng bị lôi cuốn vào phong trào Việt Minh chống Pháp.

Sau cuộc đảo chánh ngày 9/3/1945 của Nhật, các tù nhân chính trị gốc Kinh bị giam giữ trong các nhà giam được trả tự do, đa số về lại đồng bằng nhưng một số cán bộ Việt Minh đã ở lại lại vận động trí thức và binh sĩ Thượng theo họ chống Pháp, với hứa hẹn được tự trị khi cách mạng thành công. Hai chữ “tự trị” như có ma lực hấp dẫn người Thượng, họ hưởng ứng một cách tận tình. Không cần một cố gắng nào, phong trào Việt Minh hốt trọn nhiệt tình của dân Thượng, nhất là những thành phần ưu tú trẻ gốc Rhade và Jarai, mà Pháp đã tốn gần nửa thế kỷ mới đào tạo được.

Nhân sĩ và binh lính Thượng theo Việt Minh hô hào dân chúng Thượng chiếm đóng các cơ sở hành chánh và quân sự của Pháp do Nhật để lại và tham gia những “ủy ban hành chánh lâm thời”. Lần đầu tiên tên tuổi một số nhân vật Thượng được công bố và trở thành những lãnh tụ lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến năm 1954 :

– Thị xã Buôn Ma Thuột có các ông Y Ut Nie Buon Rit, Y Plo Eban, Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Nie Kdam, Y Tlam K’bour, Y Nue Buon Krong, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok (tất cả là người Rhade). Trung sĩ Y Sok Eban sau 16 ngày bị Pháp giam giữ đã tuyên thệ trung thành với Việt Minh và được giao nhiệm vụ bảo vệ Buôn Ma Thuột.

– Thị xã Pleiku có ông Rcom Thep (người Jarai).

– Thị xã Kontum có ông Trần Quang Tường, một người công giáo, làm chủ tịch, và các ông Prem, Deppe (cả hai là người Bahnar). Đại đa số người Bahnar công giáo không theo Việt Minh.

– Huyện Buôn Hô có các ông Y Wang Mlo Duon Du, Y John Nie Kdam và Y Yon Ecam (tất cả là người Rhade).

– Huyện Cheo Reo có các ông Nay Der, Nay Moul, Nay Phin, Rcom Briu, Rcom Pioi, Rcom Brim, Siu Ken, Siu Nang, Ksor Ni và các bà Rcom H’dit, Rcom H’trul (tất cả là người Jarai). Phụ cận Cheo Reo có các ông Rcom John tại Buôn Sam và Kpa Yan tại Plei Kli.

– Huyện Tân Khai (tỉnh Đồng Nai Thượng) trong thung lũng Đa Nhim, có các ông Touneh Han Din, Touneh Han Tin, Ya Yu Sahau, Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Bahnaria Ya Don (tất cả là người Churu).

Những người không theo Việt Minh và tình nghi trung thành với Pháp đều bị xử tử, đó là các ông Y Say Ktla, Y Lak Eban, Y Hong, Y Wan, Y Tum, Y Blam, Y San , Y Tuk, Y Blol, Y Flak, Y Ho, Y Bung, Hiai, Sui, Gao, Duen, Blon, Sa, Bok, That, Ky, Cecrec, Hny và rất nhiều viên chức Thượng khác. Nhiều người phải trốn vào rừng sâu như các ông Y Kju, Y Kao, Y Ang, Touneh Han Dang… chờ Pháp đến giải vây.

5. Chính sách Thượng vụ của Thierry d’Argenlieu : chia để trị

Tháng 8/1945, đề đốc Thierry d’Argenlieu được cử làm cao ủy Đông Dương và tướng Leclerc làm chỉ huy trưởng lực lượng viễn chinh Pháp tái chiếm lại Đông Dương.

Ngay khi vừa đến Sài Gòn tháng 9/1945, Leclerc tung các binh đoàn tinh nhuệ nhất của Pháp tái chiếm những tỉnh và thị xã tại đồng bằng trên tay Việt Minh ; tháng 6/1946 quân Pháp lần lượt chiếm lại những thành phố và thị xã lớn trên cao nguyên miền Trung. Một số binh sĩ và công chức Thượng theo Việt Minh đã ra qui hàng và được Pháp trọng dụng trở lại vì thiếu người, đó là trường hợp các ông Y Sok Eban, Y Tuic Mlo Duon Du, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok, Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Touneh Han Din, Ya Yu Sahau, Bahnaria Ya Don… 

Chính trong giai đoạn này, giới lãnh đạo Thượng bị phân hóa giữa hai làn đạn, một số theo Pháp và một số khác theo Việt Minh như các ông Y Ngong, Y Wang, Y Nue, Y Tlam, Phem, Depp…

D’Argenlieu áp dụng triệt để chính sách chia để trị. Ngày 1/11/1945 ông cho thành lập Liên Bang Đông Dương trong Liên Hiệp Pháp, ngày 25/5/1946 cho ra đời Cộng Hòa Nam Kỳ. Ngày 27/5/1946 d’Argenlieu ban hành qui chế Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương (PMSI-Pays Montagnard du Sud Indochinois). Xứ này gồm tất cả những vùng đất có đông người Thượng cư ngụ, thủ đô ban đầu là Đà Lạt, sau đó dời về Buôn Ma Thuột, ông Marcel Ner làm thụ ủy. Để đánh dấu sự kiện trọng đại này, d’Argenlieu tổ chức một loạt lễ tuyên thệ (qui tụ tất cả già làng, binh sĩ, nhân sĩ và trí thức Thượng trung thành với Pháp) tại Buôn Ma Thuột, Đà Lạt và Kontum (tháng 6 và tháng 8/1946).

D’Argenlieu tin rằng với sự ra đời xứ Thượng PMSI này, Pháp sẽ có tiếng nói mạnh khi thảo luận với Việt Minh về việc thống nhất Việt Nam trên bàn các hội nghị sơ bộ tại Đà Lạt ở Việt Nam (từ 19/4 đến 11/5/1946) và tại Fontainebleau ở Pháp (tháng 7 và 8/1946). Trong hội nghị Đà Lạt lần hai (8/1946), d’Argenlieu chỉ mời các phái đoàn Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ, Cambodge, Lào và Thượng ; Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ không được mời. Đại diện phái đoàn Xứ Thượng Nam Đông Dương có các ông Y Djac Ayun, Touprong Hiou, Touneh Han Dang… tham dự với tư cách quan sát viên. Nhưng ngày 5/2/1947, d’Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương chết yểu.

Việt Minh cũng không chịu thua, tháng 1/1946 một đại hội dân tộc được tổ chức tại Hà Nội, trong đó rất nhiều nhân sĩ Thượng được mời tham dự, trong đó có các ông Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Der, Nay Phin. Nhiều người khác được cử vào Quốc hội Việt Minh tháng 3/1946 như các ông Y John Nie Kdam, Y Klam, Y Thang Nie Kdam, Y Yan Phong, Y Pe, Y Hing, Y Ni, Rcom Briu, Rcom H’trul, Huk… Buổi họp Quốc hội khóa 2, ngày 29/10/1946, các đại diện Thượng (các ông Y John Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Phin, Y Ngong Nie Kdam và Y Ut Nie Buon Rit) chính thức được hứa hẹn qui chế tự trị dành cho người Thượng. Hứa hẹn này làm các cán bộ Thượng hài lòng và nhiệt thành hợp tác với Việt Minh chống Pháp. Tháng 12/1946, lữ đoàn lính Thượng gồm nhiều sắc tộc được thành lập do các sĩ quan Rhade chỉ huy. Từ 1947 đến 1954, người Thượng theo Việt Minh gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên cao nguyên.

6. Chính sách Thượng vụ dưới thời Bảo Đại : Ổn định cuộc sống

Quốc Trưởng Bảo Đại (1913–1997), hình chụp năm 1953

Để đối phó với tình thế mới, chính quyền thuộc địa Pháp sử dụng “giải pháp” Bảo Đại và thành lập thêm nhiều xứ Thượng tự trị thân Pháp khác để cô lập phong trào Việt Minh trên chính trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng rừng núi với người thiểu số.

Tháng 7/1947, Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương (PMSI) được khai sinh trở lại dưới quyền lãnh đạo của đặc ủy Gigal. Tháng 3/1948, Liên Bang Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Thỏa ước ngày 8/3/1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp, theo đó những sắc tộc “không phải người Kinh” (non-annamites) được hưởng qui chế riêng. Để thực hiện dự án xứ Thượng tự trị, Pháp dành cho Bảo Đại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ trung thành với Pháp của người Thượng ngày 30/5/1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền sau đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ chức các xứ Thượng.

Ngày 15/4/1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6 thành lập “Hoàng Triều Cương Thổ” (Domaine để là Couronne), gồm Xứ Thượng Miền Nam và Xứ Thượng Miền Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng. Ranh giới và diện tích Xứ Thượng Miền Nam giống như diện tích và ranh giới Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương (PMSI) trước kia, gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ, Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm cửa ngỏ đổ ra Thái Bình Dương.

Vị trí của Hoàng triều Cương thổ thuộc Quốc gia Việt Nam (được tô vàng).

Đối với người Thượng miền Nam hay miền Bắc, đời sống của họ không có gì thay đổi, các chức vụ quan trọng như tổ chức và quản trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay người Pháp. Qui chế đặc biệt dành cho Xứ Thượng Miền Nam, ký ngày 21/5/1951, dành cho người Thượng nhiều ưu đãi về quyền sử dụng đất đai nơi sinh trú. Quân đội hoàng triều gồm toàn người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.

Để hạn chế thế lực của Pháp, Bảo Đại ban hành Chương Trình Phát Triển Kinh Tế Xứ Thượng Miền Nam, do Nguyễn Đệ soạn thảo, ngày 11/2/1952, theo đó người Kinh được quyền lên cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông nghiệp. Ngân sách do Chương trình phát triển và kinh tế đặc biệt của Mỹ đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Đệ đổi thành Chương Trình Công Tác Xã Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là “khu trù mật”. Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ.

Qua chương trình này, phong trào Việt Minh mất địa bàn bám trụ và tìm cách phá hoại. Lợi dụng sự vắng mặt của quân chủ lực Pháp trên cao nguyên (lúc đó đang tập trung vào vùng Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh kêu gọi dân chúng Kinh Thượng rời bỏ các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia vào các đoàn dân công tải đạn đánh Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục giao thông chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.

Hiệp định Genève ngày 20/7/1954 chấm dứt chiến tranh và phân chia Việt Nam thành hai vùng đối nghịch. Khoảng 120.000 người tập kết ra miền Bắc, trong đó có gần 6.000 người Thượng, những người này được huấn luyện chính trị và quân sự để trở vào miền Nam sau 1956 giúp phe cộng sản chuẩn bị một cuộc chiến tranh khác tàn khốc hơn.

Xứ Thượng Miền Bắc, thuộc Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa, được tổ chức thành nhiều vùng tự trị như Khu Thái Mèo tự trị (29/4/1955), Khu Việt Bắc (10/8/1956), Khu Lào Hạ Yên (25/3/1957) gồm các tỉnh Lào Cai, Hạ Giang, Yên Bái. Tất cả đều bị giải tán tháng 9/1959 và trở thành những tỉnh bình thường. Lý do giải tán những khu tự trị này đặt ra nhiều nghi vấn : phải chăng có nhiều cấp chỉ huy và lãnh đạo địa phương muốn tổ chức trưng cầu dân ý để gia nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Chỉ cần nhìn vào những sắc tộc miền Bắc được Hà Nội đưa lên Tây Nguyên lập nghiệp sau 1975 thì sẽ rõ, đa số là những sắc tộc sinh sống dọc vùng biên giới gần gũi với những đồng hương của họ ở Trung Quốc như người Nùng, người Hmong (Mèo), người Thái, người Yao (Dao) và người Tày.

Tại miền Nam, qui chế Hoàng Triều Cương Thổ bị chính quyền Ngô Đình Diệm bãi bỏ ngày 10/8/1954, Xứ Thượng Miền Nam được chia lại thành nhiều tỉnh thuộc lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.

Từ sau 1954, cộng đồng người Thượng tiếp tục bị phân hóa, địa bàn cư trú của họ trở thành những bãi chiến trường đẫm máu trong cuộc chiến mới. Nhưng người Thượng vẫn không quên đòi quyền tự trị, một quyền mà họ hằng ao ước từ thời Pháp thuộc ; lần này họ sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị và quân sự như người Kinh, với sự giúp đỡ của người Mỹ và người Khmer.

C. Chính sách Thượng vụ thời Việt Nam Cộng Hòa : hội nhập khó khăn và ngắn ngủi

Hiệp định Genève 1954 mở đầu một giai đoạn hợp tác mới giữa người Thượng và người Kinh trên cao nguyên. Nhưng sự hợp tác này đã diễn ra không tốt đẹp như mong muốn, người Kinh chưa được chuẩn bị để sinh hoạt bình đẳng với người Thượng và ngược lại.

Bất hạnh lớn của người Thượng trong giai đoạn 1954-1975 là nơi sinh trú của họ là địa bàn chiến lược quan trọng trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai, nhiều chiến lược gia gọi đó là nóc nhà ba nước Đông Dương, bất cứ phe nào làm chủ địa bàn chiến lược này là làm chủ ba nước Đông Dương cũ : Nam Kỳ, Cambodia và Lào. Cộng đồng người Thượng do đó là mục tiêu lôi kéo của những thế lực đang tranh chấp để chống lại phe kia. Tùy theo những lượng định thời cuộc khác nhau, cộng đồng người Thượng đã có những phản ứng khác nhau để rồi dẫn đến cùng một hậu quả : không có tiếng nói trên chính quê hương của mình.

1. Chính sách Thượng vụ thời Đệ nhất Cộng Hòa : Kinh Thượng chưa được chuẩn bị để sống chung 

Cuối tháng 7/1954, thủ tướng Ngô Đình Diệm đề nghị quốc trưởng Bảo Đại hủy bỏ qui chế Hoàng Triều Cương Thổ và được chấp thuận ngày 10/8/1954.

Năm sau, ngày 11/3/1955, Bảo Đại phê chuẩn Dụ số 21 sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ Việt Nam và đặt khu vực này dưới quyền quản trị của Việt Nam Cộng Hòa (trong thực tế chỉ Xứ Thượng miền Nam mà thôi, Xứ Thượng miền Bắc thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa). Cùng ngày, Thủ tướng Ngô Đình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 61 thành lập Tòa Đại Biểu Chính Phủ thay thế Tòa Khâm Sứ, bổ nhiệm ông Vĩnh Dự làm đại biểu chính phủ (tỉnh trưởng) tại Buôn Ma Thuột và ông Tôn Thất Hối làm đại biểu tại Đà Lạt.

Người Thượng chưa được chuẩn bị để sống chung với người Kinh. Cao nguyên miền Nam vào năm 1955 có khoảng 700.000 dân Thượng, đông hơn dân số Kinh vào thời điểm đó nhưng người Thượng chỉ đảm nhiệm những vai trò thứ yếu hay không có vai trò nào cả.

Quyết định sáp nhập này này gây bất mãn trong giới trí thức Thượng do Pháp đào tạo. Trong một buổi họp mặt đầu năm 1955 giữa những trí thức Thượng, tổ chức tại Buôn Ma Thuột, những người tham dự quyết định thành lập Mặt Trận Giải Phóng Người Thượng (FLM – Front để Libération des Montagnards) và đưa ông Y Mot Nie Kdam lêm làm Chủ tịch và ông Y Thih Eban chức Tổng thư ký, cả hai là người Rhade. Tháng 3/1955, Y Thih Eban viết thư yêu cầu Thủ tướng Ngô Đình Diệm thỏa mãn ba nguyên vọng của người Thượng : 1. Tôn trọng phong tục, tập quán và tín ngưỡng của người thiểu số ; 2. Thi hành chính sách bình đẳng giữa người Kinh và người Thượng ; 3. Trả lại đất đai của người Thượng bị tịch thu bởi chính quyền Sài Gòn và di dân Việt. 

Để trả lời, ngày 12/6/1955, Thủ tướng Diệm tổ chức một cuộc kinh lý chính thức lên Buôn Ma Thuột yêu cầu chính quyền địa phương tổ chức một lễ tuyên thệ trung thành với chính phủ của các chức sắc Thượng, nhưng một số trí trí thức Thượng từ chối tham dự. Cùng thời gian, chính phủ thuyên chuyển Trường Quốc Gia Hành Chánh từ Đà Lạt về Sài Gòn, trong đó có 3 thanh niên Thượng đang theo học : Y Dhat Nie Kdam, Y Chon Mlo Duon Du và Rcom Rock. Tháng 8/1955, Trường Trung học Pháp (Collège français) tại Buôn Ma Thuột chuyển sang chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt, một số học sinh Thượng phải bỏ học vì không đủ trình độ Việt ngữ, một số khác được chuyển về trường trung học Pháp tại Đà Lạt (Lycée Yersin), đó là các ông K’briuh, Y Bun Sủ, Y Gum Buon Ya và Nay Ba.

Ngày 10/8/1955, Pháp rút quân khỏi cao nguyên, chấm dứt chính thức chế độ Hoàng Triều Cương Thổ. Thành phần trí thức và sĩ quan Thượng tin rằng sau khi tiếp thu cao nguyên, họ sẽ được chính phủ Ngô Đình Diệm trọng dụng. Nhưng thực tế đã không xảy ra như vậy, tất cả những chức vụ chỉ huy đều do những viên chức gốc Kinh từ đồng bằng lên nắm giữ. Những đơn vị quân đội Thượng (Sư đoàn 4 bộ binh, 7 tiểu đoàn cơ động cùng những đơn vị tác chiến khác, khoảng 10.000 người) đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Những cơ quan hành chánh, giáo dục và y tế đặt dưới quyền quản trị của Tòa Đại Biểu Chính Phủ.

Giọt nước đã làm tràn ly là diễn văn của thủ tướng Ngô Đình Diệm đọc sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955 thay cựu hoàng Bảo đại quản trị Hoàng Triều Cương Thổ (đúng ra là Xứ Thượng miền Nam). Theo đó, thủ tướng Diệm tuyên bố hủy bỏ đặc quyền sở hữu đất đai (polan) của người thiểu số, bãi bỏ của tòa án phong tục, cấm giảng dạy thổ ngữ trong trường học, đóng cửa các cơ sở của Nha Giáo Dục Miền Thượng và đưa di dân Việt lên cao nguyên lập nghiệp. Một phong trào chống đối ngấm ngầm hình thành, một số trí thức, cán bộ và binh sĩ Thượng bất mãn bỏ về làng, một số khác vẫn ở lại cơ quan nhưng không làm việc. 

Thêm vào đó, Dụ số 57 ngày 20/10/1956 quy định việc truất hữu đất đai của địa chủ, theo đó có liên quan đến đất đai canh tác của những bản làng. Cũng nên biết, dưới thời Pháp thuộc, những bản làng Thượng được quyền canh tác trên những vùng đất rộng lớn, có thể lên tới hàng ngàn ha, để tự túc lương thực mà người Thượng tin rằng họ đương nhiên là chủ sở hữu. Qua chính sách cải cách điền địa mới này, mỗi địa chủ chỉ còn được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa. Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng, mỗi hộ không quá 5 ha, người mua được trả góp trong thời hạn 6 năm nhưng ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Trong 10 năm kế tiếp, người được cấp ruộng không được cho mướn hay bán lại. Địa chủ bị thu hồi đất sẽ được bồi thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái phiếu trong 12 năm, lãi 5%/năm. Đa số dân Thượng, kể cả trí thức, không hiểu nội dung của Dụ này và nghĩ rằng chính quyền Kinh muốn cướp đất của họ. Sự lo lắng của người Thượng là chính đáng vì tất cả đất đai canh tác của người Thượng trong những bản làng trên cao nguyên đều không có giấy tờ sở hữu, các chính quyền Pháp thời đó không nghĩ tới việc cấp phát giấy tờ này vì cho rằng, theo phong tục, người Thượng đương nhiên là chủ sở hữu những vùng đất mà tổ tiên của họ đã có công khai phá và canh tác.

Tại Pleiku và Darlac, các tỉnh trưởng còn buộc người Thượng phải ăn mặc chỉnh tề (đa số dân Thượng trong giai đoạn này đàn ông vẫn còn mình trần đóng khố, phụ nữ còn để ngực trần) khi ra vào các cơ quan công quyền trong thành phố. Thêm vào đó, di dân Kinh còn tỏ ra khinh miệt người Thượng tại những vùng cộng cư. Cán bộ cộng sản cũng nhân cơ hội trà trộn vào một số buôn làng tuyên truyền và kích động dân Thượng nổi lên chống lại chính quyền miền Nam.

2. Những phong trào phản kháng của người Thượng

2.1. Phong trào BAJARAKA

Ngày 23/01/1956, dân chúng Việt Nam Cộng Hòa bầu Quốc hội lập hiến, gồm 123 dân biểu, để soạn Hiến pháp mới.

Ngay khi vừa đắc cử tổng thống ngày 24/10/1956, Ngô Đình Diệm liền ban hành Hiến pháp ngày 26/10/1956 và cho thành lập Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng.

Năm 1957 một số trí thức và sĩ quan Thượng kết hợp lại thành một nhóm chống đối, viết thư tố cáo chính sách phân biệt đối xử người Thượng trên cao nguyên của các chính quyền địa phương. Cuộc chống đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9/1957, trong một buổi dạy tiếng Việt dành cho người Thượng : ông Y Bham Enuol công khai nói lên những bất đồng của người Thượng và đòi quyền “biệt lập” về hành chánh và chính trị.

Đầu năm 1958, Y Bham Enuol thành lập Ủy ban tự trị trung ương trong tổ chức có tên là Mặt Trận Giải Phóng Người Thượng (FLM – Front để Libération des monatagnards), trụ sở đặt tại Pleiku, chỉ huy tất cả các cơ quan tỉnh lỵ, quận huyện trên Tây Nguyên. Nhiều ủy ban địa phương được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Kontum và Di Linh.

Ủy Ban tuyển mộ sĩ quan và binh lính Thượng đang phục vụ trong chính quyền miền Nam, chọn một lá cờ tượng trưng cho sự “biệt lập” (xanh dương, trắng và đỏ như cờ Pháp nhưng phía trên góc trái có 4 ngôi sao màu vàng tượng trưng cho bốn sắc tộc chính) và phổ biến một thư ngỏ mang tên “Nguyện vọng đấu tranh của đồng bào Thượng”.

Thư ngỏ này thực ra là một cáo trạng đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, liệt kê những hành vi phân biệt đối xử của người Kinh đối với người Thượng trong mọi lãnh vực, từ chính trị, hành chánh, an ninh quân sự, tư pháp, kinh tế đến văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.

Không được trả lời thỏa đáng, ngày 1/5/1958 họ thành lập tổ chức BAJARAKA (chữ viết tắt tên bốn sắc tộc lớn trên cao nguyên miền Thượng nhưng người Rhade chiếm đa số : BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) nêu ra 8 điểm bất đồng tố cáo người Kinh hà hiếp người Thượng rồi vận động cộng đồng Thượng hợp tác chống lại chính quyền miền Nam.

Những người lãnh đạo phong trào gồm có các ông Y Bham Enuol (người Rhade, sáng lập viên), Y San Nie (Rhade, phó Chủ tịch), Y Thih Eban (Tổng thư ký), Siu Sip (nhân sĩ Jarai, thủ quỹ), Y Ju Eban (liên lạc viên), Y Bhan Kpor (trung úy, đại diện quân đội), Touprong Ya Ba ((tổng tư lệnh quân đội), Paul Nur (trí thức Bahnar, đại diện Kontum), Y Bih Aleo (đại diện Darlac), Touneh Yoh và Touneh Phan đại diện Lâm Đồng), Y Dhon Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện), Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam Eban (sĩ quan), Y Chon Mlo Duon Du, Nay Luett và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stieng, Kor…

Trước sự chống đối này, Văn Phòng Cố Vấn Thượng Vụ được nâng lên thành Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng (nghị định số 302/NV ngày 3/7/1957) trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại Huế, nhằm kêu gọi đồng bào Thượng hợp tác với chính phủ xây dựng đất nước và chống sự xâm nhập của quân cộng sản miền Bắc trong tinh thần Kinh Thượng bình đẳng và đoàn kết. Trong thực tế văn phòng này không đưa ra một sáng kiến nào cụ thể.

Ngày 25/7/1958, phong trào gởi một kháng thư viết bằng tiếng Anh, do ông Y Bham Enuol cùng 16 đại diện sắc tộc ký tên, gởi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Tháng 8/1958, một kháng thư khác được gởi đến Đại Sứ Pháp cùng nhiều đại sứ khác và Liên Hiệp Quốc tại Sài Gòn. Nội dung những kháng thư này tố cáo hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các sắc tộc thiểu số trên cao nguyên và kể lại những đóng góp của họ trong cuộc chiến chống lại quân phiệt Nhật, Việt Minh và Việt Cộng. Nội dung kháng thư viết bằng tiếng Anh, do giáo sư David Nuttle (người Mỹ) chuyển tới tòa đại sứ Hoa Kỳ, bày tỏ ý kiến không muốn đặt Tây Nguyên trực thuộc vào chính quyền Việt Nam Cộng Hòa mà muốn được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hoa Kỳ. Kháng thư viết bằng tiếng Pháp yêu cầu các cường quốc can thiệp để người Thượng có một “lãnh thổ biệt lập” (“un territoire à part”, nguyên văn). Kháng thư gởi Liên Hiệp Quốc, phong trào xin được sáp nhập vào vương quốc Lào như người Pháp đã làm năm 1893.

Ngày 30/7/1958, phong trào Barajaka gởi một phái đoàn gồm bốn người về Sài Gòn gặp đại sứ Hoa Kỳ qua trung gian David Nuttle. 

Trong hai tháng 8 và 9/1958, phong trào Bajaraka tổ chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị bắt (Y Bham Enuol, Y Dhon Adrong, Y Dhe Adrong, Y Nuin Hmok, Y Wick Buon Ya, Y Het Kpor, Y Tluop Kpor, Y Senh Nie, Y Bun Sor, Y Yu Eban, Y Thih Eban, Touneh Yoh, Siu Sip, Paul Nur, Nay Luett…), những thành phần có uy tín như sĩ quan và công chức Thượng đang công tác trên cao nguyên đều bị thuyên chuyển về đồng bằng.

Trước những biến chuyển bất lợi này, cộng đồng người Thượng như rắn mất đầu không biết phải làm gì, cán bộ cộng sản nằm vùng liền nhân cơ hội tuyên truyền và vận động cộng đồng người Thượng chống lại chính quyền miền Nam. Đối diện với đe dọa mới này, tháng 10/1958, chính quyền Ngô Đình Diệm kêu gọi Kinh Thượng hợp tác chống cộng và hứa sẽ cải tổ sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội miền Thượng. Văn Phòng Xã Hội được thành lập tại Tây Nguyên, nhiều học sinh Thượng được đưa về Huế và các thành phố Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt học trong những trường trung học kỹ thuật. Một số cán bộ Thượng được đưa về Sài Gòn tu nghiệp tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng kết quả đã không như mong đợi, Văn Phòng Xã Hội không hoạt động gì cả, các học sinh Thượng ra trường (khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ (bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ). Đời sống của người Thượng không sáng sủa gì hơn. Những lãnh tụ Thượng còn lại đều tỏ ra bất mãn nhưng bất lực.

Trong cuộc bầu cử Quốc hội pháp nhiệm I (1956), ứng cử viên Touprong Hrou đơn vị Tuyên Đức-Lâm Đồng bị bỏ tù vì những tội vu vơ ; pháp nhiệm II (1958) ông Y Prong Kbor đơn vị Đắc Lắc bị xóa tên ; pháp nhiệm III (1960) ông Y Klong đơn vị Đắc Lắc bị buộc phải rút tên.

Trong thời gian từ 1956 đến 1962, chuyên viên và cố vấn Hoa Kỳ đã có mặt khắp Tây Nguyên. Đối với các chiến lược gia Hoa Kỳ, Tây Nguyên có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt vì đó là cửa khẩu ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội cộng sản miền Bắc vào miền Nam. Sự hiện diện của du kích quân cộng sản trong chốn rừng sâu gây nhiều lo âu cho các cố vấn Mỹ lúc đó đang huấn luyện quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1956, nhiều phái đoàn MAAG (The US Military Assistance Advisory Group) được gởi lên cao nguyên quan sát tình hình và xây dựng cơ sở huấn luyện binh lính Thượng chống du kích.

Việc tranh thủ người Thượng gây nhiều tranh chấp giữa cơ quan CIA và Tòa Đại Sứ Mỹ trong chính sách chống cộng của Hoa Kỳ :

– Cơ quan CIA chủ trương võ trang trực tiếp người Thượng vì họ rất thiện chiến trong rừng rậm. Cố vấn quân sự Mỹ vào khắp buôn làng, tổ chức phòng thủ, trang bị súng cá nhân, thành lập các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng (CIDG – Civilian Indigenous Defense Group) và Lực Lượng Đặc Biệt (Special Force) gồm 18.000 người (1967) thuộc đủ mọi sắc tộc Thượng (Rhade, Bahnar, Sedang, Kaho, Bru…).

– Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ chủ trương kêu gọi sự hợp tác về lâu về dài của người Thượng, đặc biệt là phát triển văn hóa, xã hội, y tế và tín ngưỡng nhằm nâng cao mức sống. Các mục sư tin lành được nhìn như sự tiếp nối của các giáo sĩ công giáo Pháp thời trước nên rất được mến mộ. Nhiều phái đoàn đặc vụ dân sự USOM, USAID, các tổ chức thiện nguyện đến chữa bệnh, hướng dẫn cách thức canh tác nông nghiệp, xây cất nhà cửa, giúp đỡ vật chất và sáng tạo chữ viết là tinh hóa của từng thổ ngữ để giảng dạy. Nhiều trường phổ thông vừa dạy tiếng địa phương, vừa dạy tiếng Việt và tiếng Mỹ được thành lập tại Buôn Ma Thuột, Pleiku, Kontum, Đà Lạt. Nhiều sinh viên Chăm và Thượng được ghi danh vào Viện Đại Học Đà Lạt.

2.2. Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP)

Trong năm 1960, nhiều biến cố quan trọng đã xảy ra trên địa bàn sinh sống của cộng đồng người Thượng. 

Để đối trọng với phong trào Bajaraka của Y Bham Enuol, tháng 10/1960 Hà Nội cho thành lập Phong Trào Dân Tộc Tự Trị Tây Nguyên, gọi tắt là Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị, do các ông Y Bih Aleo, Y Thang Nie Kdam, Y Ngon Nie Kdam cầm đầu, địa bàn hoạt động đặt tại Kon Hanung. Phong trào này là một bộ phận của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (thành lập ngày 20/12/1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn (đường mòn Hồ Chí Minh) vận chuyển người và vũ khí vào Nam chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sự can thiệp của người Mỹ tại Việt Nam.

Trong cùng thời gian, tại Cambodia, phe thân hoàng thân Norodom Sihanouk cũng cho thành lập hai tổ chức người Thượng chống lại chính quyền Việt Nam Cộng Hòa : Mặt Trận Giải Phóng Kampuchia Hạ (FLKK – Front để Libération du Kampuchea Krom) do Chau Dera (đại tá Um Savuth, quê quán ở Trà Vinh) lãnh đạo và Mặt Trận Giải Phóng Champa (FLC – Front để Libération du Champa) do Les Kosem (bí danh Po Nagar, một người gốc Chăm Hồi giáo ở Châu Đốc) cầm đầu. Tổ chức FLC tuy có chủ ý là giải phóng Champa nhưng trong thực tế chỉ toàn người Thượng Rhade, Jarai, Churu và Rơglai để quấy rối chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trên Tây Nguyên. 

Từ sau 1961, Tây Nguyên trở thành nơi lôi kéo người Thượng về phe này để chống lại phe kia. Hai tổ chức người Thượng tại Cambodia tuyên truyền lôi kéo quân nhân Thượng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rời bỏ quân ngũ sang Cambodia đầu quân. Phong trào Tây Nguyên Tự Trị của phe cộng sản vào khắp buôn làng Thượng tuyên truyền và tuyển người ra Bắc huấn luyện để đưa về lại miền Nam chiến đấu chống lại chính quyền Sài Gòn. Các cấp lãnh đạo Phong trào Bajaraka không ngừng yêu sách chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phục hồi qui chế Hoàng Triều Cương Thổ. Trong khi đó những cố vấn Mỹ liên tục tiến hành thám sát và tuyển dụng những thanh niên Thượng xuất sắc nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa để đưa vào Lực lượng đặc biệt do CIA đào tạo. Đa số quân nhân được tuyển vào Lực lượng đặc biệt là người Rhade, rất được CIA tín cẩn.

Trong thời gian từ 1961 đến 1963, uy tín và hào quang của Y Bham Enuol, người Rhade lúc đó đang còn ở tù, thu hút sự ngưỡng mộ của hầu như tất cả các tổ chức chống đối người Thượng, phe nào cũng muốn lôi kéo Y Bham Enuol về phía mình, nhất là Les Kosem tại Cambodia.

Từ sau 1963, người Mỹ quyết định can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ tháng 11/1963, tất cả các biện pháp ban hành dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đều bị hủy bỏ. Nhờ sự can thiệp của Mỹ, tất cả những lãnh tụ phong trào Barajaka đều được phóng thích.

Tin tưởng được Mỹ ủng hộ, tháng 3/1964 những người lãnh đạo phong trào Barajaka thành lập Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP – Front để Libération des Hauts Plateaux, tên chính thức được sử dụng trong các văn kiện), còn gọi là Mặt Trận Cao Nguyên. Lần này mặt trận có sự tham gia của nhiều sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại miền Trung. Mặt trận cho phổ biến một bản hiệu triệu bằng ba thứ tiếng (Pháp, Chăm và Rhade) đòi quyền tự trị và chủ trương tranh đấu vừa ôn hòa vừa bạo động. Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham Enuol đại diện, tham gia mọi sinh hoạt chính trị trên khắp cao nguyên để giúp chính quyền miền Nam xây dựng một chính sách Thượng vụ thích hợp. Phe chủ trương bạo động, do Y Dhon Adrong cầm đầu, kêu gọi cán bộ dân vệ và biệt kích Thượng gia nhập FLHP chống lại chính quyền người Kinh.

Những sự kiện trên làm giới chỉ huy quân sự Việt Nam Cộng Hòa lo ngại. Những cuộc hành quân trên Tây Nguyên từ tháng 3 đến tháng 5/1964, do tướng Vĩnh Lộc chỉ huy, phần lớn để phá vỡ những căn cứ của quân Thượng hơn là các mật khu cộng sản. Phe bạo động bị truy quét gắt gao phải chạy qua Cambodia lánh nạn. Tại đây họ lập căn cứ quanh đồn Bốt Chá (Camp Le Rolland cũ), tỉnh Mondulkiri phía đông bắc Cambodia cách biên giới Việt Nam 15 cây số, rồi cử người xâm nhập vào các buôn làng ven biên giới kêu gọi thanh niên Thượng gia nhập FLHP.

Tòa Đại sứ Hoa Kỳ khuyến cáo Việt Nam Cộng Hòa thương thuyết với người Thượng để tìm một giải pháp sống chung. Ngày 5/5/1964, chính phủ miền Nam mời 64 nhân sĩ Thượng ôn hòa, đại diện các sắc tộc, về Sài Gòn họp để tổ chức một đại hội gồm 55 đại diện sắc tộc tại Pleiku ngày 26/8/1964 do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II chủ trì.

Lo sợ bị loại khỏi các cuộc thương thuyết, phe bạo động chuẩn bị một cuộc nổi dậy võ trang do đại úy Y Nam Eban chỉ huy. Đêm 19/9/1964, các toán biệt kích ly khai thuộc Lực Lượng Đặc Biệt và các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng đánh chiếm một số đồn bót lớn quanh Quảng Đức và Đắc Lắc : trung sĩ Kle chiếm thị trấn Bù Đăng, thiếu úy Y Bach Eban tấn công đồn Sarpa, Y Djao Nie tiến vào buôn Miga (Đức Lập), Y Bhan Kpor vây đồn Bù Đốp và Bù Briêng. Quân phiến loạn làm chủ quốc lộ 14, đánh đồn Srepok rồi tiến vào Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh kêu gọi dân Thượng nổi lên chống lại người Kinh để xây dựng một quốc gia độc lập. Trong cuộc nổi dậy này, 35 sĩ quan và binh sĩ Kinh bị thiệt mạng, quận trưởng quận Đức Lập (Quảng Đức) bị bắt sống.

Kinh ngạc và tức giận, chuẩn tướng Vĩnh Lộc, chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật, đã phản ứng dữ dội. Lệnh thiết quân luật được ban hành ngày sáng 20/9/1964, mọi ngả ra vào Buôn Ma Thuột đều bị chận xét gắt gao, Sư Đoàn 23 cùng một số tiểu đoàn biệt động quân và thiết giáp được huy động đến vây quanh đài phát thanh, một số tiến về những những đồn bị chiếm đóng. Phiến quân Thượng chống trả dữ dội. Các đồn Bù Đăng, Miga, Bù Briêng, Srepok và nhiều cầu trên quốc lộ 14 lần lượt được chiếm lại, trừ đồn Sarpa vẫn còn nằm trong tay phiến quân.

Trước biến cố này, đệ tam tham vụ Tòa Đại Sứ Mỹ trên cao nguyên, William Beachner, khuyên tướng Vĩnh Lộc nên thương thuyết. Ông Y Bham Enuol, đại diện phe ôn hòa, phó tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột, được mời đến Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 23 thăm khảo ý kiến rồi được cử lên đài phát thanh thương thuyết với phiến quân. Sau khi dàn xếp với phe nổi loạn im tiếng súng, Y Bham được Beachner đưa về nhà riêng thảo luận. Buổi chiều cùng ngày (20/9), đại úy Darnell đích thân đưa những lãnh tụ Thượng khác (Y Bhim, Y Dhou) vào nhà Beachner họp. Cuộc thương lượng giữa đại diện Tòa Đại Sứ Mỹ và chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật đi đến những thỏa thuận sau : Y Bham Enuol được cử làm chủ tịch chính thức phong trào FLHP, những chỉ huy phiến quân (Y Dhon Adrong, Y Senh Nie, Y Nuin Hmok, Y Nam Eban) không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua Cambodia.

Thỏa thuận xong, ngay chiều 20/9, Y Bham Enuol trốn sang Cambodia, sau khi để lại một kháng thư gởi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đòi quyền tự trị trên cao nguyên. Tại biên giới, Y Bham Enuol được Les Kosem (lúc này được thắng cấp tướng) cùng Y Bun Sor ra đón và đưa về Camp Le Rolland nghỉ ngơi rồi tức tốc được chở về Phnom Penh họp.

Ngày 23/9/1964, ông W. Beachner và tướng Vĩnh Lộc cùng một số nhân sĩ Thượng thành lập Ban Đại Diện Lâm Thời Người Thượng tại Buôn Ma Thuột do ông Y Char Hdok (hiệu trưởng trường Nguyễn Du) làm chủ tịch, ông Y Chon Mlo Duon Du (nhân viên Nha Đặc Trách Thượng Vụ) làm cố vấn. Beachner cử Y Chon Mlo Duon Du làm trung gian thương nghị giữa Việt Nam Cộng Hòa và FLHP. Sau bốn ngày thương nghị, Y Chon Mlo Duon Du loan báo phe FLHP chấp nhận buông súng và thương nghị.

Ngày 28/9/1964, tướng Nguyễn Khánh cùng tướng Vĩnh Lộc đến đồn Sarpa nhận sự đầu hàng của 233 binh sĩ FLHP. Lễ gắn huy chương cho những người Thượng có công hòa giải được diễn ra tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh (Buôn Ma Thuột).

Lợi dụng sự khoan hồng, một số phiến quân FLHP và các đội Dân Sự Chiến Đấu Thượng còn kẹt lại chạy sang Cambodia gia nhập vào lực lượng của ông Y Bham Enuol đồn trú tại Camp Le Rolland.

2.3. Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Chủng Tộc Bị Áp Bức (FULRO)

Tại Cambodia, những lãnh tụ FLHP họp ngày đêm chuẩn bị thành lập một phong trào đấu tranh mới. Chính quyền Cambodia, qua trung gian Les Kosem, cật lực giúp đỡ sự ra đời một tổ chức mới qui mô hơn gồm đủ mọi sắc tộc. Lãnh tụ các nhóm Khmer Krom, Chăm và Thượng FLHP được quân đội hoàng gia Cambodia đưa về Phnom Penh họp.

Tối ngày 20/9/1964, dưới sự chủ tọa của Sihanouk, Les Kosem cho ra đời một tổ chức mang tên Mặt Trận Thống Nhất Các Chủng Tộc Thiểu Số (FURM – Front Uni des Races Minoritaires) gồm ba mặt trận : Mặt Trận Giải Phóng Champa (FLC – Front để Libération du Champa) do Les Kosem (bí danh Po Nagar) lãnh đạo, Mặt Trận Giải Phóng xứ Cambodia Krom miền Tây Nam Việt Nam (FLKK – Front để Libération du Kampuchia Krom, tức Cambodia hạ) do Chau Dera làm đại diện và Mặt Trận Giải Phóng xứ Kampuchia Loeu (FLKL – Front để Libération du Kampuchia Loeu, tức Cambodia thượng) do Y Bham Enuol đứng đầu. Danh xưng FLKL không được Y Bham chấp thuận và sau nhiều bàn cãi, danh xưng Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP – Front để Libération des Hauts Plateaux) được mọi người chấp nhận. 

Về tên của phong trào, các phe chọn một tên chung cho là Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Chủng Tộc Bị Áp Bức (FULRO – Front Uni để Lutte des Races Opprimées). [Ở đây xin chú ý : Lutte (đấu tranh) chứ không phải Libération (giải phóng) như nhiều người thường lầm tưởng]. Từ đó danh xưng FULRO là tên chính thức trong các văn kiện và các hoạt động chính thức tại Việt Nam và trên chính trường quốc tế.

FULRO chọn cờ hiệu hình chữ nhật, ba màu : bên phải màu xanh lục có ngôi sao trắng nằm trong hình lưỡi liềm, ở giữa có 3 sọc trắng xen kẻ với 4 sọc xanh dương, bên trái là màu đỏ. Ngôi sao trắng trong lưỡi liềm trắng tượng trưng cho người Chăm theo đạo Hồi tại Cambodia và Việt Nam. Bảy sọc trắng xanh dương tượng trưng cho bảy sắc tộc lớn người Thượng : Bahnar, Jarai, Radhé, Kaho, Sedang, Mnông, Mạ. Màu đỏ tượng trưng cho tinh thần đấu tranh.

Lá cờ của Mặt trận Giải phóng Cao nguyên Trung phần (Front de Liberation des Hauts Plateaux, FLHP), được FULRO sử dụng từ năm 1964.

FULRO có ba cơ quan lãnh đạo : Hội Đồng Tối Cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội Đồng Bảo Trợ do Po Nagar (Les Kosem) làm chủ tịch và Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương do Y Bham làm chủ tịch. Trên thực tế, Y Bham sống nhờ vào Les Kosem nên không có thực quyền nào cụ thể ngoài uy tín cá nhân. Les Kosem có phương tiện và có lực lượng nên nắm hết mọi quyền hành. Les Kosem còn kéo theo một số người Thượng và người Chăm vào FLC để gây thêm vây cánh và cho người về Việt Nam lôi kéo một số thanh niên Chăm qua ngõ Châu Đốc vào Cambodia.

Mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức thống nhất nhưng FULRO có ba lực lượng khác nhau :

1. FULRO Khmer do Chau Dera làm chủ tịch, nhưng vì bận tổ chức đội phòng vệ cho Sihanouk tại Phnom Penh nên không thể sinh hoạt, mọi quyền hành đều nằm trong tay Les Kosem. Hội Đồng Tối Cao của Chau Dera đổi thành Ủy Ban Chấp Hành Tối Cao do Les Kosem lãnh đạo.

2. FULRO Chăm, do Les Kosem chỉ huy trực tiếp, là tổ chức có tầm vóc nhất. (Cambodia có 250.000 người Khmer gốc Chăm, đa số sinh sống tại Kompong Cham).

Về đối nội, FULRO Chăm có ba ban :

– Ban tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam móc nối cơ sở, phá hoại do Huỳnh Ngọc Sắng, một người Chăm sinh sống tại Bình Thuận, làm đại diện.

– Ban kinh tài thu thập tiền đóng góp của dân chúng, tiếp tế cho hậu cứ của Y Bham Enuol tại Camp Le Rolland, do Tôn Ái Liên, một người Chăm tại Châu Đốc, làm trưởng ban và vợ Les Kosem, người nhận thầu cũng cấp lương thực cho các căn cứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam để kiếm thêm tiền, làm phó.

– Ban phát triển giáo dục cử người đi du học ngoại quốc nghiên cứu về dân tộc Chăm.

Về đối ngoại, Les Kosem vận động các quốc gia ngoại quốc và thành lập nhiều tổ chức Chăm tại hải ngoại ủng hộ nhóm FULRO Chăm.

– Năm 1970, Les Kosem sang Bangkok gặp hai vị tướng lục quân và không quân Thái gốc Chăm trong quân đội hoàng gia và những lãnh tụ Thái gốc Chăm thành lập Tổ Chức Người Chăm Chính Thống Tiến Bộ ủng hộ FULRO Chăm. (Thái Lan có 400.000 người Thái gốc Chăm đến lập nghiệp từ thế kỷ 15).

– Sau đó Les Kosem đến Djakarta gặp tổng thống Sukarno và được hứa sẽ có 8.000 binh sĩ trong hai lữ đoàn nhảy dù (paracommando) Nam Dương sang yểm trợ FULRO Chăm phục hồi vương quốc Champa khi hữu sự. Les Kosem nhận viện trợ của Indonesia thông qua Suseno, tùy viên quân sự tòa đại sứ Indonesia tại Phnom Penh. (Indonesia có khoảng hai triệu người Indonesia gốc Chăm, tổ tiên những người này đã sang Indonesia và Mã Lai lập nghiệp từ thế kỷ 14 đến 16).

– Quốc gia kế tiếp là Mã Lai và các quốc gia Ả Rập (Algeria), Nhật Bản nhận giúp FULRO Chăm tu sửa lại các đền đài. (Mã Lai có 200.000 người Mã Lai gốc Chăm lập nghiệp từ thế kỷ 14).

– Sau cùng Les Kosem sang Pháp và Châu Âu vận động nhân sĩ chính trị và tôn giáo Pháp tổ chức những cuộc hội thảo về văn minh Champa và cấp học bổng cho một số sinh viên Chăm vào học những trường đại học lớn tại Paris (Sorbonne), Aix en Provence… Trong các buổi hội thảo này, những trí thức Chăm và Pháp cho in những tài liệu nhắc nhở sự kiện Champa bị Việt Nam xâm thực và mong muốn được các chính quyền phương Tây giúp phục hồi hay nhìn nhận vương quốc cũ.

3. FULRO Thượng do Y Bham Enuol làm chủ tịch, tiếp tục bị phân hóa.

– Nhóm Dân Sự ôn hòa do Y Bham Enuol lãnh đạo, gồm các ông Y Dhe Adrong, Y Preh, Y Bling, Y Thih Eban, Y Ngo Buon Ya, Y Senh Nie, Y Nhiam Nie…, chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để FULRO Thượng được về Việt Nam hoạt động một cách chính thức.

– Nhóm Quân Sự quá khích do Y Dhon Adrong lãnh đạo, gồm các ông Y Bhan Kpor, Y Nam Eban, Y Nuin Hmok…, chủ trương sử dụng bạo lực để thành lập quốc gia độc lập bằng cách uy hiếp những đồn bót quân sự, tấn công các chuyến xe đò dân sự trên các quốc lộ 14 và 22 cùng những liên tỉnh lộ khác của Việt Nam Cộng Hòa dọc vùng Tam Biên (Việt Miên Lào).

Để gây thanh thế, từ 29/7 đến 2/8/1965, nhóm Quân Sự cử 200 FULRO Thượng vượt biên giới tấn công và chiếm giữ đồn Buôn Briêng và khi rút lui còn dẫn theo 181 Dân Sự Chiến Đấu Thượng (dân vệ). Sau đó trung tá Y Djao Nie dẫn một trung đoàn FULRO Thượng về đóng tại Buôn Buor (Đắc Lắc), gần một cây cầu trên quốc lộ 14, kềm chế nhóm Dân Sự của Y Bham Enuol đang kêu gọi binh sĩ FULRO Thượng mang vũ khí về nộp chính quyền miền Nam.

Trong thời gian này phe cộng sản gia tăng áp lực tại miền Nam Việt Nam, Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị, do Y Bih Aleo lãnh đạo, cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức nhiều cuộc đánh phá trên khắp Tây Nguyên.

Hoa Kỳ muốn được rảnh tay trong nổ lực tiến công tiêu diệt các mật khu cộng sản trên Tây Nguyên yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương thuyết với FULRO Thượng tìm một phương thức sống chung và hợp tác chống sự xâm nhập của quân cộng sản.

(còn nữa)

Nguyễn Văn Huy

* Nguyễn Văn Huy : Nhìn lại những chính sách hội nhập cộng đồng người Thượng trên cao nguyên (Kỳ 1)