Nguyễn Văn Tuấn: Vượt biển
Lời giới thiệu: Hồi ức Kangaroo Dream: kỉ niệm ngày 26/1.
Tôi đặt chân tới Úc định cư vào ngày 26/1/1982, ngày Quốc Khánh Úc. Hôm nay là ngày 26/1/2025, tức là kỉ niệm 43 năm tôi gọi Úc là quê hương thứ hai.
Sự trùng hợp còn hay hơn nữa: ngày 26/1/2022, tức đúng 40 năm định cư ở Úc, tôi được trao Huân chương Australia.
Nhân dịp này, tôi có viết cuốn hồi ức nhan đề ‘Kangaroo Dream’ (Giấc Mơ Kangaroo) và sẽ do Amazon xuất bản:
Trong cuốn hồi ước ~500 trang này, tôi kể lại hành trình 40 năm của mình, bắt đầu từ cuộc vượt biển táo bạo trên một chiếc ghe mong manh đến các trại tị nạn ở Thái Lan. Cuốn sách cũng bao gồm những câu chuyện đáng nhớ, và đôi khi hài hước, về cách tôi được chấp nhận cho định cư tại Úc. Từ việc làm phụ bếp tại một bệnh viện ở Sydney đến việc đạt được các vị trí quan trọng tại các viện nghiên cứu và đại học lớn ở Úc, tôi chia sẻ những đóng góp của mình trong nghiên cứu y khoa và phòng ngừa loãng xương cả ở cấp quốc gia lẫn quốc tế.
Tôi cũng kể lại chuyến trở về Việt Nam đầy bất ngờ và có ích. Tôi đã thiết lập các chương trình nghiên cứu, labo nghiên cứu, và các chương trình đào tạo nhằm giúp nâng cao năng lực khoa học cho các đồng nghiệp.
Tôi nghĩ rằng câu chuyện của mỗi người tị nạn Việt Nam — hay bất kì người tị nạn nào trên thế giới — đều là một phần lịch sử quí giá xứng đáng được kể lại. Người tị nạn là biểu tượng của sự kiên trì trước những nghịch cảnh và mất mát, họ buộc chúng ta đối diện với sự hỗn loạn và cái ác trên thế giới, đồng thời làm giàu xã hội bằng những đóng góp của họ. Kangaroo Dream là đóng góp của tôi cho câu chuyện tập thể này.
Bài này được trích dịch từ chương “Crossing the Sea” trong cuốn sách ‘Kangaroo Dream’
***
Tôi nhớ hoài và nhớ kỹ ngày tôi rời ngôi làng quê êm ả của tôi. Khi cái nắng chói chang và oi bức của buổi trưa đã trở thành dịu mát hơn, nhóm chúng tôi (gồm 5 người) quyết định lên đường. Xuồng chúng tôi được Dì Năm tôi và một anh bạn thân người Khmer hàng xóm chèo bì bõm nương theo dòng nước ròng của con sông êm đềm mang đầy lục bình để ra cửa biển. Vài ngọn gió nhẹ thổi lướt qua rặng dừa nước hai bên bờ sông gây ra những tiếng động xào xạc, làm cho một buổi chiều nhiệt đới thật thanh bình. Tôi chìm vào cái không khí thi vị lãng mạn chẳng bao lâu thì phải đối đầu với một thực tế bẽ bàng hơn. Sau một đêm, xuồng tôi ra tới cửa biển, hòa nhập vào nhiều ghe nhỏ đang nhộn nhịp đánh bắt tôm mực vào buổi sáng. Nhóm chúng tôi lập tức thu hút sự chú ý của những người này. Một người đánh tôm báo động với đồng nghiệp của anh bằng một giọng nói rất lớn:
– ĐM, vượt biên mày ơi!
Thời đó, vượt biên là bất hợp pháp và có thể bị bắt giam và có khi bị bắn chết. Đã chuẩn bị sẵn, một người trên xuồng trong nhóm tôi bèn ném cho anh ta một món quà hai chỉ vàng để mua sự im lặng. Anh ta nhìn món quà, cười nhe cái răng vàng óng ánh, và nói ‘Đi bình an nghen!’
Hôm đó là ngày 16/4/1981.
Ra biển, chúng tôi lên một chếc ghe đi sông. Đó là cái ghe mà anh Ba tôi và bạn bè của anh đóng chỉ 1 tháng trước đó. Ghe dài non 15 mét và bề ngang chừng 6 mét. Nó được trang bị bằng hai cái máy, loại máy làm động cơ cho ghe đi sông. Rất nhiều dầu, lương thực khô và nước uống trên ghe, đủ cho một chuyến hải hành 2 tuần. Còn có cả súng vì một số người có kinh nghiệm cho rằng phải có vũ khí để, nếu cần, sẵn sàng đương đầu với những kẻ cướp.
Chúng tôi gồm 25 người, kể cả 3 trẻ em. Gia đình tôi thì có anh Ba, đứa em gái, người em họ tên Đồng, và tôi. Ngoài gia đình tôi, còn có 3 người hàng xóm. Một số ‘hành khách’ là sĩ quan VNCH mới được trả tự do từ các trại ‘học tập cải tạo’, một số là dân buôn bán, một số thất nghiệp (như tôi), và một anh bạn mà tôi quen gọi là ‘Anh Ba Hà Nội’ vì anh là một người làm báo từ Hà Nội mới vào Nam khoảng 2 năm. Không ai trong chúng tôi có kinh nghiệm đi biển. Tài công chánh là anh Ba tôi.
Khi lên ghe, cả nhóm chúng tôi chẳng biết mình sẽ đi đâu. Một người đề nghị đi Thái Lan, và thế là cả nhóm đồng tình ra khơi. Nhưng đi hướng nào, thì chẳng ai biết, vì chẳng ai có chuẩn bị các công cụ đi biển như la bàn. Nhưng cái mẫu số chung của chúng tôi lúc đó là cứ ra khơi, cứ đi, miễn ra đi khỏi hải phận Việt Nam và hy vọng sẽ gặp một tàu hàng cứu vớt. Một cuộc chạy trốn đúng nghĩa của nó.
Cuộc vượt biển của chúng tôi không phải bình an, nhưng cũng không phải là quá bi thảm như nhiều đồng hương khác. Ghe chúng tôi đi biển vào Tháng Ba Âm Lịch. Dân gian có câu ‘Sóng tháng Ba, bà già đi biển’ để chỉ đó là tháng mà trời yên, biển lặng. Nhưng câu đó chỉ đúng cho ngày đầu tiên trong chuyến hải hành của chúng tôi. Thật vậy, ngày đêm đầu tiên chúng tôi lướt sóng rất bình thuờng, thậm chí còn thưởng thức quang cảnh trời biển bao la. Đây là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt và hiểu được thế nào là ‘màu xanh nước biển.’ Xanh biếc. Những con cá heo lặng ngụp chạy đua theo ghe chúng tôi như một cuộc biểu diễn xiếc tự nhiên. Biển không một gợn sóng. Tuy nhiên, trước cảnh trời biển bao la, tôi thấy chiếc ghe của mình thật mong manh.
Nhưng sự bình an của ngày đầu chỉ là một sự lừa dối tàn nhẫn của thiên nhiên. Đến đêm thứ hai, biển cả giống như một người tình đổi tánh, đã bộc lộ cơn thịnh nộ của nó. trước khi con sóng đầu ấp tới, bầu trời trở nên xám xịt như là giận dữ. Con sóng đầu tiên làm tôi tỉnh giấc vì quần áo bị ướt nhẹp. Anh Ba tôi và mấy người cầm lái hét:
– Chuẩn bị sóng biển tới!
Trời ơi, nhìn con sống cao hơn chiếc ghe, tôi không biết làm gì! Đám thanh niên, đàn ông chúng tôi dùng các thùng và gàu tát nước ra khỏi ghe. Nhưng những con sóng khổng lồ, sôi trào dữ dội, dâng lên từ sâu lòng biển, đe dọa nhấn chìm cái ghe của chúng tôi. Mỗi tiếng kêu cót két của cái ghe đều giống như tiếng chuông báo tử. Cái ghe cứ chao đảo qua lại như sắp chìm. Tôi nghĩ có lẽ mình sẽ chết ở nơi không địa chỉ này. Thôi thì cũng sẽ gặp anh Hai.
Thế nhưng, như là một phép lạ, biển đột nhiên yên lặng. Bình minh lại đến, chúng tôi có thể thấy những vệt màu cam và hồng ở phía chân trời. Kiểm tra lại thì thấy 25 người vẫn còn đủ. Ai cũng vui mừng vì như mới trải qua một tai nạn suýt chết, một sự mong manh về sự sống. Lúc đó, chúng tôi đã kiệt sức nhưng vẫn sống sót. Chúng tôi bước vào ngày thứ ba với sự trân trọng mới mẻ đối với hơi ấm của mặt trời.
Ghe của chúng tôi giương cờ VNCH để báo cho những tàu hàng biết rằng chúng tôi là người tị nạn từ Việt Nam, và chúng tôi là công dân của VNCH. Khi ra khỏi hải phận Việt Nam, chúng tôi thấy nhiều tàu hàng khổng lồ đi ngang. Cứ thấy tàu nào đi ngang, chúng tôi phát đi những tín hiệu cầu cứu, nhưng họ đều bỏ qua, làm như chẳng thấy chúng tôi đang sắp chết.
Một buổi trưa vào ngày thứ ba, chúng tôi lại bị nạn, và lần này là cướp biển. Thật ra, họ là những ngư dân Thái Lan lợi dụng tình trạng vượt biển của người Việt để cướp bóc. Giữa lúc hy vọng bắt đầu le lói, một cái ghe mờ mờ xuất hiện ở đường chân trời. Khi tới gần, chúng tôi mới thấy đó là ghe đánh cá mang biển hiệu Thái Lan. Thoạt đầu, họ rất thân thiện, hỏi chúng tôi cần gíup đỡ gì. Nhưng sau đó, họ đem dao dài và xông vào ghe của chúng tôi, tạo nên một hỗn hợp âm thanh của tiếng la hét và ánh lấp lánh của những món đồ trang sức bị đánh cắp. Tài sản ít ỏi của chúng tôi, những gì còn sót lại của một cuộc đời bỏ lại, biến mất trong những bàn tay chai sạn của họ. Nhiều lượng vàng bị cướp. Cái kính cận tôi đeo cũng bị họ cướp giựt lấy, có lẽ họ nghĩ màu vàng của kính là vàng thật.
Tuy nhiên, giữa sự cướp bóc, một lòng tốt bất ngờ xuất hiện. Có lẽ nhận ra sự tuyệt vọng khắc sâu trên khuôn mặt chúng tôi, mấy người cướp này đã chỉ chúng tôi vào bờ Thái Lan. Họ kéo ghe chúng tôi vài giờ đồng hồ, rồi chỉ vào phía chân trời và nói đó là bờ biển Thái Lan. Chỉ xong, họ bỏ mặt chúng tôi và rồ máy đi ra khơi xa. Nhưng phải mất hơn 3 giờ đồng hồ, chúng tôi mới bắt đầu thấy bờ. Trên đường từ biển tiến vào bờ, chúng tôi đang ngang qua hàng trăm ghe đang đánh cá hay câu mực, nhưng chẳng ai để ý đến chúng tôi.
Đổ Bộ Làng Chài Budi (Thái Lan)
Bờ biển Thái Lan, một hình bóng mờ ảo trên nền nước lấp lánh, hiện ra từ sương mù trưa. Cảm giác nhẹ nhõm, một loại thuốc tiên ngọt ngào, tràn ngập tôi. Chúng tôi cập bến trên bãi biển sỏi mịn của một làng chài nhỏ, có tên là Budi (hay Budee). Sau này tôi mới biết Budi là một làng chài thuộc tỉnh Pattani của Thái Lan, giáp biên giới Mã Lai Á.
Khi chúng tôi lên bờ, dân làng ở đây chạy ra xem, nhưng họ không biết làm gì với chúng tôi. Nhìn những những ánh mắt và khuôn mặt khắc khổ hằn lên người dân ở đây, tôi thấy họ chào đón chúng tôi một cách dè dặt. Ghe chúng tôi là tốp người Việt đầu tiên đến cái làng chài này. Bất đồng ngôn ngữ, nên chỉ nói bằng ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt và nụ cười. Khi ghe chúng tôi cập bờ thì trong ghe vẫn còn nhiều lương thực, nào là cơm khô, đường, muối, mấy thùng nước uống. Chúng tôi không biết làm gì với mấy thứ này, nên cho hết những người dân làng đến nơi. Có người hỏi xin 2 cái máy dầu vẫn còn rất tốt, chúng tôi cũng cho luôn. Đã lên bờ tự do thì cần gì mấy thứ này nữa, chúng tôi nghĩ vậy nên hễ ai xin cái gì là cho hết. Nghĩ lại dân tị nạn mà hào phóng ghê! Nhưng chính nhờ nghĩa cử hào phóng đó mà chúng tôi tạo được cảm tình ở người địa phương.
Người địa phương thì đa số vận sarong, rất tiêu biểu ở người miền nam Thái Lan. Nhìn qua ánh mắt và lối sống, họ là những người rất hiền lành và chất phác. Không thấy ai lợi dụng chúng tôi. Dạo đó, tôi không rõ những người mình gặp là Phật Giáo hay Hồi Giáo, nhưng chúng tôi chẳng quan tâm; điều quan trọng nhứt là đến bến bờ tự do, và đó là điều may mắn nhứt trên đời. Tôi đoán là họ là tín đồ Hồi Giáo, vì họ không ăn thịt heo. Họ cũng không ăn thịt gà mới chết. Do đó, mỗi khi có gà chết là họ đem đến cho chúng tôi. Thành ra, tuy là dân tị nạn, nhưng thỉnh thoảng cũng có những bữa ăn thịnh soạn!
Đêm đầu tiên ở cái làng chài là một kinh nghiệm buồn cười. Đám thanh niên trong làng và [chắc cả các làng lân cận] kéo đến khá đông để … nhìn. Họ chẳng làm gì cả, chỉ ngồi chồm hổm, hút thuốc lá, cười cười nhìn chúng tôi đang co cụm trong cái sân xi măng. Đêm đến, chỉ còn một số ở lại, vẫn hút thuốc lá và nhìn. Đám đàn ông thanh niên chúng tôi cảm thấy hơi bất an, nên bàn với nhau cách tự vệ. Chúng tôi chia nhau ngồi quanh như là canh gác ‘lãnh địa’ tị nạn và bí mật có sẵn ‘đồ chơi’ để khi có biến động là đối phó ngay. Đêm xuống, dân làng cho mùng để ngủ, đám thanh niên đàn ông chúng tôi ngủ ở bìa ngoài, còn các bà và phụ nữ ngủ phía trong. Chúng tôi có một đêm ngủ đầu tiên trên đất tự do, sóng biển rì rào, trời thoáng, gió mát, chẳng mấy chút ai cũng chìm vào giấc ngủ.
Đến gần nửa đêm, tôi cảm nhận hình như có bàn tay sờ nhằm chân tôi. Tôi vẫn còn tĩnh thức, nên giả bộ ngủ xem bàn tay này làm gì. Đang chuẩn bị đối phó thì bên kia các anh thanh niên la lớn lên là ‘Có cướp’, và thế là tôi nắm lấy tay của kẻ đang sờ soạng. Thế là chúng tôi tóm cổ họ một cách dễ dàng. Nhìn kỹ thì toàn là những thanh niên hồi chiều hút thuốc ngồi chồm hổm nhìn chúng tôi. Hình như họ muốn sờ mó mấy cô mấy bà, nhưng họ không ngờ rằng chúng tôi đã có chiến lược bảo vệ. Bắt được họ, chúng tôi chẳng biết làm gì, còn họ thì vẫn cười hề hề. Anh sĩ quan trưởng nhóm đánh giá rằng nhìn đám thanh niên này cũng hiền lành, nên thôi cho chúng đi. Hình như dân làng ở đây lần đầu tiên thấy người nước ngoài nên họ rất tò mò.
Chúng tôi ở đó được chừng một tuần thì một chiếc tàu (lần này là tàu đánh cá) cũng từ Việt Nam ghé Budi. Tàu này chỉ có khoảng 10 thanh niên (tôi không nhớ con số chính xác), nghe nói họ làm cho một hợp tác xã đánh cá và sẵn dịp lấy tàu trốn khỏi Việt Nam. Nhóm này cũng đi từ Rạch Giá, nhưng xuất phát từ U Minh. Họ nghèo rớt mồng tơi, gần như không có một tài sản nào cả. Nhóm thanh niên này rất giỏi đi biển, nên có thêm họ trong nhóm chúng tôi thấy như có thêm ‘lực lượng võ trang’ để có gì thì ứng phó tốt hơn.
Vài ngày sau, lại thêm một chiếc tàu khác ghé Budi. Tàu này lớn hơn, chở hơn 40 người đi từ Cà Mau. Tàu này ‘giàu’ hơn hẳn hai tàu trước, dù đã bị cướp biển hai lần. Hành trình của họ khá gian nan, phải gần một tuần lễ mới tới Budi. Trong chiếc tàu mới này có cả con nít và nhiều ‘thành phần kinh tế‘ hơn. Trong đó, có một chú mà tôi quen gọi là ‘Chú Ba Trung Tá’ đầu bạc trắng, sau này quen thân với tôi. Gọi ‘Chú Ba Trung Tá’ là vì chú là một cựu phi công cấp bậc trung tá, sau 1975 đi tù cải tạo vài năm, được thả ra và chú tìm đường vượt biên. Chú là người gốc Bình Định, cũng nghèo xơ xác như tôi (chỉ có cái quần đùi và áo sơ mi), và chú hay nói chuyện tiếu lâm rất vui. Chú từng học ở Mỹ nên rất giỏi tiếng Anh, và chú trở thành thông dịch viên cho tất cả 3 nhóm thuyền nhân.
Những ngày ở Budi, chúng tôi sống cuộc sống có thể nói là nhàn hạ, và với những kỷ niệm như thế. Có những người đi làm phụ hồ ở xa, và cũng được trả lương đàng hoàng. Phải có dịp đi ra ngoài làng mới thấy lúc đó Thái Lan đã giàu có và phát triển hơn Việt Nam rất xa. Làng xa xôi này mà cũng có đường tráng nhựa, xe chạy bon bon. Nhà nào cũng có xe hơi, còn xe Honda chỉ để đi chơi là chính. Ngay cả chai nước mắm hay cái bao ni lông của họ cũng đẹp và sạch sẽ hơn Việt Nam chúng ta. Nhìn cảnh đó, anh em chúng tôi ai cũng lắc đầu cho Việt Nam, không biết bao giờ mới đuổi kịp Thái Lan.
Một hôm, nhân dịp làm thủ tục tị nạn, nhân viên của Liên Hiệp Quốc về phỏng vấn và mỗi chúng tôi phải điền cái mẫu đơn màu xanh. Mẫu đơn đòi những thông tin cá nhân, thông tin về ba má, và lý do rời Việt Nam. Đa số những người tị nạn không am hiểu tiếng Anh ở trình độ hành chánh, chỉ có chú Ba Trung Tá là người duy nhứt thành thạo tiếng Anh và có thể giải thích những ô chữ trong cái đơn phức tạp đó. Thế là chú nghiễm nhiên trở thành trưởng nhóm, và ngồi bên cạnh các nhân viên Liên Hiệp Quốc để thông dịch.
Chú mặc quần short, lúc thì ở trần, lúc thì chỉ khoác cái áo thun đã phai màu, tay cầm thuốc lá phì phèo, nghe người khai thông tin và dịch lại cho nhân viên Liên Hiệp Quốc. Chú ít khi nào nhìn xem họ viết có đúng không, mà chỉ nói như … sếp ra lệnh. Lúc đó, nhìn phong cách của chú Ba Trung Tá tôi phục chú sát đất. Chú nói tiếng Anh rất tự nhiên, và với thái độ tự tin đến … trịch thượng. Tôi nhớ hoài một hôm chú làm phiên dịch cho một quan chức Thái Lan, và ông quan chức này khen chú nói tiếng Anh giỏi; chú quay sang chúng tôi rồi tươi cười nói lại
– Tao nói tiếng Anh giọng nước mắm, vậy mà thằng mọi này nó nói tao nói tiếng Anh giỏi!
Nhớ hoài chữ ‘mọi’ mà ngày xưa thầy cô bên Việt Nam đã gieo vào tôi. Thời đó, Việt Nam xem các nước láng giềng như Thái Lan, Mã Lai, Lào, Cam Bốt, v.v. là … ‘mọi’. Ý xem thường người ta là kém văn minh. Nay lại nghe chú Ba Trung Tá dùng chữ đó. Tôi nghĩ thầm trong bụng, nói người ta là ‘mọi’ nhưng sao người ta sang hơn mình quá, giàu hơn mình cả mấy chục năm, và lịch sự với mình nữa. Ấy vậy mà người Việt lại tự cao tự đại. Là người tạm dung trên đất nước người ta, nhưng chú Ba xem các viên chức địa phương … chẳng ra gì, dù không thể hiện ra thái độ, chỉ thể hiện qua cách nói tiếng Anh
Sau này chú đi định cư ở Mỹ, và tôi mất liên lạc với chú. Nhưng hình ảnh của chú trong tôi là cái mô-típ của một sĩ quan VNCH có học thức, vui tánh, và rất Trung kỳ tánh. Hôm nay, viết những dòng này, tôi đoán chú Ba Trung Tá cũng tầm 90 tuổi và hy vọng chú đọc được quyển sách này.
Ở Budi độ 4 tuần thì chúng tôi được báo phải chuyển trại. Budi chỉ là nới tạm trú để làm thủ tục, phải đến một trại có đủ ban bệ để các nhà chức trách đánh giá và xác định tư cách tị nạn. Thế là những ngày êm đềm nhứt trong đời tị nạn rồi cũng qua đi, và đến ngày chia tay. Cuộc chia tay nào cũng buồn, và chia tay Budi cũng không phải là ngoại lệ. Sau ~4 tuần ở cái làng chài êm đềm này, đã quen biết khá nhiều người tử tế, ai cũng cảm thấy lòng mình chùng xuống khi bước lên xe bus để rời làng. Ngày ra đi có vài người trong làng đến vẫy tay tiễn đưa. Nhìn những cánh tay vẫy vẫy và những nụ cười hiền lành mà mình cảm động vô biên. Hoá ra, ở đây tình người có khi còn nặng hơn cả bên quê hương mình.
Cho đến nay, ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn chưa có dịp quay lại Budi để cảm ơn những người dân làng đã cưu mang tôi và nhiều đồng hương khác trong thập niên 1980s. Tôi biết có một số đồng hương, sau khi tị nạn bên Mỹ và thành đạt, đã quay về Budi và tìm lại dấu vết xưa cũng như cám ơn những người dân làng. Một trong những người đó là anh Kevin Bảo Huỳnh, chủ trung tâm ‘The Nail Superstore’ ở Illinois. Trong một email gởi tôi (ngày 14/3/2024), anh đã chụp nhiều hình ở làng Budi. Nhìn những tấm hình này làm tôi bồi hồi nhớ lại cái thuở ban đầu mình mới bước chân lên Thái Lan, bắt đầu hành trình của một người tị nạn.
Trại Tị nạn Songkhla
Tất cả chúng tôi lên hai chiếc xe bus lớn rời Budi. Phải mất một ngày đường, mới đến trại mới rất nổi tiếng trong người tị nạn. Trại tên là Songkhla. Songkhla là một tỉnh thuộc miền Nam Thái Lan (Songkhla cũng là tên của một hoàng tử Thái Lan). Trại tị nạn Songkhla là một trại khá lớn, lúc tôi đến đó thì đã có hơn 5,000 người trong trại. Nghe nói trong lúc cao điểm trại này có đến 10,000 người tị nạn. Trại nằm dọc theo bờ biển, rất đẹp mắt. Phía trước là biển, phía sau là một dãy núi, và dĩ nhiên là xung quanh được rào bằng kẽm gai. Nếu tôi nhớ không lầm, chiều ngang của trại chỉ khoảng 50- 80 mét, chiều dài thì đi bộ chỉ 15 phút là hết. Người tị nạn không được ra ngoài trại nếu không được phép.
Người tị nạn ở trong những cái chòi tạm thời (do những người trước đây dựng lên) ngay bên bờ biển. Tôi cũng có một cái chòi, và phải chia sẻ với những người độc thân khác. Từ Budi lên đây thì nhóm đã bắt đầu chia ra thành từng nhóm nhỏ và hoà mình vào trại lớn hơn. Có người tìm gặp thân nhân đã qua trước nên họ về ở chung, còn những người ‘con bà phước’ thì tụ tập với nhau thành từng nhóm nhỏ và xoay xở qua ngày.
Ngày đầu tiên nhập trại Songkhla, tôi tưởng mình lạc vào một thành phố ở Việt Nam. Người ở đâu mà đông đúc ghê, mật độ dân số ở đây chắc phải cao nhứt nhì thế giới! Nhìn qua cách ăn mặc, thấy người nghèo nhiều hơn người giàu, và điều này cũng dễ hiểu. Đại đa số người nhập trại là đã bị cướp bóc trên biển, nên họ chẳng còn gì. Tuy nhiên, cũng có nhiều chuyến may mắn, nên bà con còn giữ vàng và tiền đến đây. Lại có một nhóm khác ở đây khá lâu (trên 6 tháng) và được thân nhân nước ngoài tài trợ, nên họ cũng có cuộc sống khá đầy đủ. Có người còn tiền hay mới có tiền mở hàng quán ngay trong trại. Đủ loại quán, nhưng quán ăn và quán nhạc là phổ biến nhứt. Nhìn từ xa có thể thấy một khu rất trù phú và tấp nập, và quả thật là như thế.
Hai bên đường chật hẹp là hàng quán bán cơm, phở, hủ tiếu, cà phê, mọc lên đầy rẫy. Những hàng quán này làm ăn rất khá, vì ở trong trại đâu có việc gì làm, nên người ta thả hồn theo khói thuốc và cà phê. Có nhiều khách hàng là những chàng trai mặt mũi rất ‘ngầu’, tóc dài chấm vai (nom y như những người đóng vai du côn trong các phim xã hội đen) phì phèo những điếu thuốc lá Samit hay 555 bên li cà phê đen. Phía trong quán thì ồn ào đài loa với những bản nhạc vàng ảo não, nhạc rock xập xình, nhạc nhà binh hùng tráng, nhạc chống cộng, v.v. được phát thanh với một âm lượng tối đa, làm đinh tai nhức óc những ai không may mắn phải đứng trước những cặp loa này. Trên đường lộ dập dìu tài tử giai nhân son phấn lòe loẹt, vàng đeo lóng lánh, trong những bộ quần áo thời trang Âu Mỹ mắc tiền đi ‘dạo phố’ như trẩy hội! Thành ra, nói là trại tị nạn, nhưng lại là một xã hội Việt Nam thu nhỏ.
Vốn được chuyển lên đây từ một vùng quê, tôi cảm thấy mình vừa quê mùa vừa bơ vơ lạc lõng như một thành phần outcast (bơ vơ) trong xã hội tị nạn này. Quả thế, vì từ lúc lên bờ cho đến khi đi chuyển trại, tài sản duy nhứt mà tôi có là hai cái quần short và hai cái áo ngắn tay do một ông chủ ở Budi tặng cho. Nhiều khi đi qua các hàng quán, thỉnh thoảng nghe một đoạn nhạc của Nguyệt Ánh và Việt Dũng mà buồn mà buồn vời vợi … Lúc đó, ai cũng nghĩ một lần đi là vĩnh biệt, không bao giờ về Việt Nam nữa. Do đó, những sáng tác nhạc thời đó rất ray rức:
Nắng nơi đây vẫn là nắng ấm,
Nhưng ấm sao bằng nắng ấm quê hương
(Nguyệt Ánh).
hay
Đến bao giờ trở về Việt Nam,
Thăm đồng lúa vàng, thăm con đò ven sông
(Lam Phương).
Những lời ca đậm chất thơ và miên viễn đó của Nguyệt Ánh theo tôi tận đến ngày hôm nay.
Nhưng những cảnh phồn vinh náo nhiệt kia chẳng khác gì những lớp phấn son được sơn trét lên mặt những cô gái một cách vội vã để cố tình xóa lấp đi những nỗi ám ảnh của một quá khứ khủng khiếp. Thực vậy, lên đến Songkhla và có dịp nghe những câu chuyện thương tâm khác của đồng hương, tôi mới thấy chuyến đi của mình còn may mắn chán. Tôi nghe nhiều câu chuyện về cướp biển vô cùng khủng khiếp, mà chữ nghĩa có khi không tả hết được những tang thương người Việt Nam mình đã gánh chịu. Có nhiều trường hợp cả tàu bị thảm sát trên biển cả. Có trường hợp bọn cướp biển làm nhục phụ nữ ngay trước mặt người thân. Có người bị bệnh tâm thần khi lên đến trại này. Tôi đã từng thấy những người rách rưới đi lang thang trại, miệng lằm bằm nói gì chẳng ai hiểu, rồi thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc thảm thiết. Nhìn những người đó tôi dù chưa biết sự việc đằng sau nhưng đã thấy đau quặn lòng. Thành ra, không phải ngẫu nhiên mà Du Tử Lê muốn mang xác mình ra biển khi qua đời:
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Nước ngược dòng sẽ đẩy xác tôi đi
Bên kia biển là quê hương tôi đó
Rặng tre xưa muôn tuổi vẫn xanh rì
Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển
Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi
Những năm trước bao người ngon miệng cá
Thì sá gì thêm một xác cong queo
Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển
Và trên đường hãy nhớ hát quốc ca
Ôi lâu quá không còn ai hát nữa
bài hát giờ cũng như một hồn ma
Khi tôi chết nỗi buồn kia cũng hết
Đời lưu vong tận tuyệt với linh hồn.
Có thể nói Songkhla là một trong những nơi ghi lại nhiều dấu tích đau buồn nhứt của thuyền nhân Việt Nam. Đó là nơi tạm dung cho hàng trăm ngàn người tị nạn, và trong thời gian tạm dung, đã có không biết bao nhiêu sự kiện xảy ra. Những sự kiện đau buồn lẫn hạnh phúc đều có, buồn nhiều hơn vui. Một trong những sự kiện bi thảm nhứt và buồn nhứt là xác của 11 phụ nữ tuổi 20 bị trói cổ vào nhau, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Những cô gái đó đã bị làm nhục trên biển và vứt xác xuống biển. Họ là đồng hương mình đó. Nỗi đau dân tộc. Chúng ta không bao giờ quên và khó mà tha thứ những kẻ đã gây nên đau khổ cho họ.
Thật ra, sự kiện bi thảm đó chỉ là một trong hàng ngàn câu chuyện về thảm cảnh thuyền nhân ở Biển Đông vào thập niên 1970s và 1980s. Hàng trăm nấm mồ tập thể được người dân địa phương tốt bụng chôn cất; mỗi mồ có mấy chục người được chôn chung. Đảo Koh Kra khét tiếng là địa ngục trần gian, là nơi chôn vùi hơn 3000 đồng hương tị nạn. Thế giới đã nghe nhiều về holocaust bên Đức, Killing Field bên Campuchia nhưng thế giới chưa nghe hay biết nhiều về những cuộc thảm sát trên biển Đông. Do đó, sau này khi qua Sydney, tôi có tham dự một cuộc viết văn do tạp chí The Good Weekend tổ chức, và tôi được trao giải thưởng $500 với bài tôi đặt tựa đề là Killing Sea để ghi lại những biến cố biển bi thảm của thuyền nhân Việt Nam.
Trại Songkhla giống như là một nước VNCH thu nhỏ. Trại có ban quản lý, do người Thái đảm trách, với sự hỗ trợ và cố vấn của người Việt tị nạn. Những người cố vấn thường là sĩ quan hay quan chức cấp cao trong chế độ VNCH trước đây. Nếu ngày xưa VNCH có tổng thống thì trại Songkhla có trưởng trại; ngày xưa có Bộ Nội vụ thì ngày nay có ‘Ban Trật tự’; Bộ Thông tin Văn hóa nay được được ‘đổi tên’ thành ‘Ban Thông tin Văn hóa’; các anh quân nhân, sĩ quan VNCH ngày xưa nay trở thành ‘cựu quân nhân’, có người còn tự cho mình lên chức. Ngày xưa VNCH có hối lộ và tham nhũng, thì ngày nay ngay trong trại tị nạn, cũng có tham ô và hối lộ. Bất cứ ai nhập trại đều có thể thấy những hành vi tham nhũng trong trại tị nạn. Theo quy chế của Cao Ủy Tị nạn, chúng tôi, những người mới nhập trại được cấp cho một cái áo thun, một cái quần, và vài lít gạo để sống. Nhưng nhóm Budi của chúng tôi chẳng được một món nào. Biết được thằng em họ (con Dì Út tôi) nhập trại trước tôi đang làm trong ban phân phát hàng hóa, tôi hỏi nó tại sao tôi không được phát gì cả. Thằng em họ của tôi ôm bụng cười ha hả như chưa bao giờ vui hơn, và nói đại ý là ‘Ở đây, bọn nó bán hết rồi, anh làm gì có được mấy thứ đó! Anh có tiền thì mới mua được.’ Tiền đâu mà mua. Tôi càng ngao ngán hơn và nghĩ chả lẽ mình phải chết đói ở đây. Nhưng thằng em tôi chạy đi đâu một lúc và mang về ba lít gạo cho anh em tôi đủ sống ít ngày.
Ban Trật Tự ở trại đáng lý ra gìn giữ trật tự thì họ lại kiêm luôn việc lạm dụng quyền và có khi khủng bố đồng hương. Họ đánh người không nương tay, và có khi rất tàn nhẫn. Nhiều người tị nạn vô tội đã là nạn nhân của nhóm người ác độc này. Tuy cùng cảnh ngộ tị nạn, nhưng những người có quyền chức trong trại không hẳn là thân thiện với những người kém may mắn hơn. Bị người ngoại bang sát hại đã là một sự phẫn nộ, nhưng bị chính người tị nạn hành hạ lại còn đau lòng hơn. Songkhla là nơi mà tôi đã chứng kiến những hành động xấu xa của những người Việt đối với người Việt.
Ngày đầu vào trại, ngoài nhóm của chúng tôi đến từ Budi, còn có nhiều nhóm tị nạn từ các nơi xa xôi khác được chuyển về bằng xe bus. Từ ngoài cổng, chúng tôi đi vào vào trại chầm chậm theo hàng hai. Hai bên đường có đầy đồng hương đứng xem và ồn ào như một cái chợ. Người thì dán mắt tìm xem có thân nhân, bà con của mình mới sang không; người thì dò xét, nhận diện xem có kẻ thù năm xửa năm xưa nào đến trại hay không. Người có thân nhân thì nước mắt dàn dụa tay bắt mặt mừng. Người tìm được kẻ thù thì trở thành một kẻ hung bạo, tàn ác. Hôm tôi nhập trại, có một anh thanh niên nọ bị tố cáo là ‘cộng sản’, anh ta bị lôi kéo ra khỏi hàng, và bị đánh ngay trên đường vào trại, trước sự mục kích của người đứng hai bên đường. Thấy không ai can ngăn và vì không chịu được cảnh tượng như thế, tôi bước ra hàng định cản, nhưng một trong ba người đang hành hung dí ngón tay vào trán tôi gằn từng tiếng (mà tôi nhớ y như ngày hôm qua): ‘ĐM, muốn gì? Mày cũng là cộng sản hả?’. Tôi cũng sẵn sàng ‘chơi’, nhưng anh tôi lôi ra ngoài. Nếu không thì chắc chắc tôi cũng bị đánh tơi bời ngày hôm đó. Anh thanh niên đó bị đánh đến nỗi không còn đi được, chở vào nhà thương điều trị, và nghe nói sau này anh bị tật. Đó là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh người đánh người tàn bạo, không thương tiếc như thế.
Sau cú sốc đó, tôi lại bị một cú sốc khác lớn hơn. Sau khi nhập trại, chúng tôi bị dẫn độ vào một hội trường có nhân viên của Ban Trật Tự người Việt canh giữ chung quanh. Họ đóng cửa chính lại, nhưng phía ngoài cửa sổ thì có đầy người đứng xem. Mục đích của buổi họp này là nhằm phổ biến về nội quy sinh hoạt trong trại, nhưng thực tế thì lại là một cuộc thăm dò tìm kẻ thù, một trò khủng bố tinh thần. Người trên bục giảng là một ông chức sắc trong ban quản trị của trại và cũng là cựu quân nhân; bằng một giọng Bắc nghiêm trọng và vẻ mặt đằng đằng sát khí, ông yêu cầu chúng tôi phải khai báo thành khẩn là đã làm việc gì với chế độ cộng sản. Điều khôi hài là ông nói thêm rằng nếu không khai thì tình báo của ông ta cũng biết thôi, nhưng khai thì sẽ được khoan hồng. Tôi rất ngạc nhiên về thủ tục này, vì nghĩ là tất cả lời khai của mình đều đã được nhân viên Cao Ủy Tị nạn ghi chép ở Budi; thế thì cuộc khai báo này là khai với ai? Tuy nhiên, tôi nghĩ vì từng làm việc dưới chế độ mới một thời gian, nên cũng định khai báo cho rõ ràng. Nhưng hôm đó, may mắn cho tôi: một người em họ nhập trại trước tôi vài tháng đang đứng bên cạnh cửa sổ và đưa tay làm dấu hiệu cho tôi biết là đừng khai.
Được đi Úc Chỉ Vì Con Kangaroo
Ở trong một môi trường khủng khiếp như thế, ai cũng mong mình được đi định cư ở một nước thứ ba càng sớm càng tốt. Cứ mỗi lần nghe Khánh Ly hát ‘Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về …’ (bài Biển Nhớ, một ca khúc rất nổi tiếng của Trịnh Công Sơn thường được dùng để tiễn đưa những người may mắn được nằm trong danh sách lên đường) là mỗi lần tôi buồn cho thân phận mình, chẳng biết bao giờ mới được đi và đi đâu. Thời đó, ai cũng nghĩ đến Mỹ và ai cũng muốn đi Mỹ, và tôi cũng không phải là một ngoại lệ.
Nhưng rồi ngày may mắn cũng tới. Theo định kỳ, nhân viên từ các tòa đại sứ ở Bangkok (mà người trong trại quen gọi là ‘phái đoàn’) xuống tận trại để chọn người định cư ở nước họ. Trong số các nước quan tâm tới người tị nạn, Mỹ, Úc, Gia Nã Đại, và Pháp thường hay phái nhân viên xuống trại phỏng vấn và làm thủ tục định cư. Tôi được tiếp xúc với phái đoàn Úc đầu tiên.
Sau khoảng ba tháng ở trại Songkhla, tôi nghe tin qua loa phóng thanh, có phái đoàn tòa đại sứ Úc xuống làm việc ở trại. Lúc bấy giờ, Úc là một nước khó nhứt đối với người tị nạn; ngoài các tiêu chuẩn về nghề nghiệp, học vấn, v.v. họ yêu cầu người xin định cư phải viết một lá đơn bằng tiếng Anh, nói rõ tại sao muốn đi Úc. Lúc đó tôi không có lựa chọn hay ý niệm gì cụ thể là mình sẽ đi nước nào định cư. Nhưng vì Úc là phái đoàn đầu tiên xuống đây [sau ngày tôi nhập trại], và tôi đã quá chán ngán với cảnh đời trong trại, nên tôi quyết định xin gặp phái đoàn để hy vọng được đi Úc (hay bất cứ nước nào, miễn là rời khỏi cái trại khốn khổ này).
Nhưng cái khó là phải thảo một lá đơn. Lúc đó, trình độ tiếng Anh của tôi lúc đó quá kém, do tôi học Pháp văn. Lúc bấy giờ, chú Ba Trung Tá đã được chuyển sang trại khác và chờ ngày đi Mỹ. Tôi nhờ hết người này đến người khác viết đơn dùm tôi, nhưng chẳng ai thèm giúp tôi. Người thì nói bận, người thì đòi tiền, có người còn mắng tôi như tát nước vào mặt: ‘Sao không chịu học tiếng Anh hồi ở bển, học lớp mấy rồi mà kém quá vậy?’ Lúc đó, tôi thấy sự độc lập thật là quý báu, và tôi tự nhủ thầm sẽ không nhờ vả người Việt trong tương lai và không kết thân với người Việt có học thức. Thế là tôi lầm lũi lên thư viện trại, ngồi cả ngày lật quyển từ điển cũ kỹ chuyển từ tiếng Việt sang tiếng Anh lá đơn của tôi. Thỉnh thoảng có chêm vào chữ Pháp nữa, vì bí quá không biết tiếng Anh là gì. Tôi dịch từng chữ một, chia động từ loạn cả. Cuối cùng tôi cũng có một lá đơn.
Vài hôm sau, loa phát thanh kêu tên tôi lên gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn. Tôi không ngờ cái đơn như vậy mà được xem xét. Trong thời gian ngắn ở trại, tôi đã từng nghe qua nhiều câu chuyện về những người đi trước bị các phái đoàn từ chối cho đi định cư chỉ vì trả lời phỏng vấn không thông. Nhiều người bị phái đoàn Mỹ từ chối vì những lý do chẳng đâu vào đâu. Không có logic hay tiêu chuẩn gì cụ thể cả. Nổi tiếng nhứt là anh chàng nhân viên Toà đại sứ Mỹ mà dân tị nạn gọi là ‘Gà Đá’ (vì anh ta xâm trên tay con gà đá). Anh này từng phục vụ ở Việt Nam trước 1975, nghe nói biết tiếng Việt kha khá, nhưng tánh tình thì thất thường. Tiêu biểu là một anh kia lên phỏng vấn, Gà Đá đòi anh tị nạn kéo tay với anh ta; kéo thắng, Gà Đá sẽ nhận. Kết cục, anh tị nạn hạ Gà Đá, và thế là Gà Đá nhận anh tị nạn đi Mỹ. Nhiều chuyện như vậy trong trại tị nạn lắm, mà nếu viết lại thì cả một pho truyện tiếu lâm.
Vì thế, tôi hồi hộp bước vào phòng phỏng vấn trong ánh mắt theo dõi của nhiều đồng hương khác. Anh chàng nhân viên sứ quán Úc cao, to, râu ria xồm xoàm, nhìn lá đơn của tôi và hỏi qua anh thông dịch viên:
– Ai viết lá đơn này?
Tôi trả lời, cũng qua anh thông dịch viên: ‘Tôi viết.’ Anh ta mỉm cười:
– Anh có học tiếng Anh bao giờ chưa?
‘Dạ chưa,’ tôi rụt rè trả lời.
– Anh muốn đi Úc làm gì?
– Dạ, đi học.
– Tiếng Anh như vầy sao học được?
Tôi hơi sốc, nhưng vẫn tìm hy vọng:
– Nếu không học được tôi làm ruộng.
– Anh cũng không đủ tiền làm ruộng đâu!
Tôi ngỡ ngàng trước câu bình phẩm của anh ta (làm ruộng mà cũng cần tiền sao?). Ở quê tôi, làm ruộng là nghề chẳng cần đồng nào cả; chỉ cần sức lực thôi. Đi học mà cũng không có cơ hội à? Tôi thất vọng, và nghĩ rằng cái mộng đi Úc tiêu tan rồi. Nhưng anh ta hỏi tiếp:
– Ngoài những lý do anh mới nói, anh còn có lý do nào khác để đi Úc không?
Tôi nhớ hồi còn đi học có thấy con Kangaroo trong sách địa lý và ước mơ có ngày được nhìn nó tận mắt. Tôi bèn thực tình nói:
– Tại tôi muốn … nhìn thấy con Kangaroo!
Anh ta trợn mắt nhìn tôi một lúc, rồi đột nhiên bật cười ha hả, chìa một tay ra bắt tay tôi, tay kia anh đóng cái ‘rầm’ cái mộc xuống tờ giấy và nói qua anh thông dịch viên: ‘OK, tôi nhận anh. Qua bên kia làm thủ tục mau đi!’
Trời ạ! Tôi sững sờ và chưa kịp nói lời cám ơn, thì anh ta đã khoát tay cho tôi đi qua phía bàn bên kia làm thủ tục khác. Đa tạ anh Úc! Đa tạ! Tôi không thể nào quên anh Úc này mà tôi coi như một ân nhân.
Câu chuyện tôi đi Úc bắt đầu bằng mẩu đối thoại đó.
Tôi vẫn nhớ y như ngày hôm qua. Nhớ từng câu nói được thông dịch; nhớ ánh mắt anh ta; nhớ cái khoát tay; nhớ cái cảm giác lâng lâng, khó tả. Câu chuyện còn có cái kết khác, vì sau này tôi gặp anh nhân viên sứ quán này trong Đại học Sydney.
Sau khi được nhận đi định cư ở Úc, tôi về cái chòi của mình và tự hào tuyên bố: ‘Tao được nhận đi Úc rồi!’ Bạn bè xúm nhau chúc mừng và đi uống cà phê để đánh dấu ngày quan trọng đó.
Trại Tị nạn Phanat Nikhom
Theo thủ tục chung thì sau khi được một phái đoàn chấp nhận cho đi định cư, người tị nạn được chuyển đến một trại chuyển tiếp (gọi là ‘transit camp‘). Sau khi được phái đoàn Úc nhận khoảng ba tháng, tôi được chuyển đi trại chuyển tiếp Phanat Nikhom ở miền đông Thái Lan. Sau này tôi mới biết Phanat Nikhom là một quận thuộc tỉnh Chonburi, nơi có bãi biển Pattaya rất nổi tiếng. Tuy nhiên, chúng tôi không có cơ may ở Pattaya, mà là một nơi có thể nói là …. ‘khỉ ho cò gáy‘
Thật ra, lúc tôi vào trại Songkhla thì cũng là lúc trại chuẩn bị đóng cửa. Nói là chuẩn bị đóng cửa, nhưng cũng phải 5-6 năm sau thì mới thực hiện được chánh sách đó, một phần là do làn sóng người tị nạn đang lên cao, nên các chánh phủ nước phương Tây gây áp lực lên Thái Lan không nên đóng cửa trại. Nhưng Thái Lan có lẽ cũng quá mệt mỏi với người tị nạn, không chỉ từ Việt Nam mà còn từ Lào và Cam Bốt, nên họ phải làm cái việc mà họ làm, tức đóng cửa trại.
Hôm chuyển trại từ Songkhla đi Phanat Nikhom xảy ra một tai nạn thương tâm. Nếu tôi nhớ không lầm, từ Songkhla đến Phanat Nikhom khoảng một ngày đường (bằng xe bus). Xe tôi đi qua những đồng ruộng, đồi núi chập chùng của Thái Lan mà tôi cho là rất đẹp, không thua gì cảnh đồi núi Việt Nam. Đang chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi chưa tới đâu, tôi giật mình nhận ra một tai nạn kinh hoàng trong đoàn xe bus. Chiếc xe bus phía sau xe tôi, không rõ do anh tài xế bất cẩn hay ngủ gục, bị lật xuống đường ruộng. Một anh tị nạn trẻ tuổi ngồi ở cửa sổ bị đứt lìa một cánh tay khi chiếc xe chạm vào đường nhựa và kéo lê cả mười thước. Sau này, tôi nghe nói anh bạn trẻ đó được đền 50 ngàn bhat!
Thời đó (1981), Phanat Nikhom là một trại thuộc vùng giữa nơi đồng không hiu quạnh. Khi tôi đến thì thấy đất cát màu nâu như sa mạc, rất ít cây lá màu xanh. Nước uống và nước sinh hoạt cũng không có, mà phải khoan giếng hoặc được tiếp tế từ bên ngoài bằng các xe tải. Mỗi ngày, mỗi người tạm trú được cung cấp khoảng 20 lít nước dùng cho vệ sinh cá nhân, giặt giũ và nấu nướng. Có thể nói người tị nạn đến đây đã giúp mở mang một vùng kinh tế cho tỉnh. Tôi hay nói đùa với bạn bè rằng đây là vùng kinh tế mới của thuyền nhân. Sau này (2007) trong một chuyến công tác bên Thái Lan, tôi quay lại đây thì thấy nhà dân mọc lên san sát nhau, cây cối um tùm, xanh tươi. Hoàn toàn không có dấu vết tị nạn gì cả. Phanat Nikhom ngày nay là một đô thị khá sầm uất.
Nhìn toàn cảnh và chung quanh thì rất ít nhà dân. Có lẽ đó cũng là ý đồ của chánh quyền Thái Lan không muốn người tị nạn tiếp xúc với cư dân địa phương. Tuy nhiên, người tị nạn vẫn có cách tiếp xúc với người dân địa phương và mua hàng hóa từ họ trước sự làm lơ của cảnh sát Thái Lan. Có tiếp xúc với người địa phương mới thấy họ rất ư là dễ mến. Chỉ nhìn ánh mắt cũng thấy họ thật thà và thương cảm. Họ cho chúng tôi khá nhiều đồ. Họ cũng bán những món hàng như gạo, nước mắm, quần áo cũ, v.v. cho người tị nạn. Tuy nhiên, người tị nạn Việt Nam thì rất coi thường dân địa phương, có lẽ vì tiêm nhiễm cái thói huênh hoang xem người ta là ‘mọi’ chăng?
Trại Phanat Nikhom lớn hơn trại Songkhla nhiều, nghe nói có lúc chứa tới 20000 (?) ngàn người. Không giống như Songkhla, trại này có nhà hẳn hoi cho người tạm trú. Hàng ngàn dãy nhà được xây cất bằng các vật liệu như fibro, tole, và xi măng. Mỗi nhà chứa khoảng 10 đến 15 người, và cũng không có ngăn chia phòng ốc gì cả. Lúc chúng tôi mới nhập trại, thì các khu nhà này mới vừa mới xây xong. Do đó, trong nhà hoàn toàn trống tuếch, chúng tôi phải ngủ dưới sàn xi-măng, nhưng như vậy đã là quá sang trọng rồi.
Khác với trại Songhla chỉ có người Việt, còn tại đây trại Phanat Nikhom có đủ ba nhóm người tị nạn từ Việt Nam, Lào, và Cam Bốt. Trại do đó được chia thành 3 khu riêng biệt dành cho người Việt, Lào và Cam Bốt. Khu người Việt lớn nhứt, nhưng cũng là khu xảy ra nhiều vấn đề nhứt làm đau đầu người Thái. Trong khi hai nhóm tị nạn kia có vẻ an phận, nhóm người Việt có lẽ do tổ chức chặt chẽ hơn, có trình độ văn hóa hơn, (và có lẽ cũng tự hào hơn), nên người Việt không tỏ ra phục tùng ban quản trị Thái. (Trại này hoàn toàn do các viên chức ngành cảnh sát hay quân đội người Thái điều hành, người Việt chỉ làm phụ tá, hay trong một vài trường hợp, làm tay sai cho họ. Thỉnh thoảng người Việt kéo nhau biểu tình, gây áp lực đến Liên hiệp quốc về những chánh sách công cộng ở đây. Có lẽ một phần vì thế mà các viên chức người Thái không ưa người Việt ở đây.
Đời sống người Việt ở trại Phanat Nikhom có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Gia đình đổ vỡ, chuyện tình éo le, sư sãi hoàn tục, linh mục dỏm, v.v. đều có đủ. Một nhà sư nọ, có lẽ vì chân tu chưa tới, nên đã dan díu với một ni cô khác cũng tu chưa tới. Sự việc hai người bị bắt quả tang trong lúc hành lạc được đưa ra công chúng và ngươi Thái, vốn mộ đạo Phật, được một dịp khinh khi người Việt.
Những mối tình phi biên giới và tuổi tác cũng nảy nở ở đây. Bên cạnh nhà tôi, một ông cựu thiếu tá nọ tằng tịu với một cô sinh viên mà tuổi đời chỉ bằng tuổi con ông cũng gây ra nhiều bàn tán xôn xao. (Nếu bây giờ thì chắc chẳng ai quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, nhưng thời đó thì người mình còn ‘bảo thủ’). Cái nắng cháy da của vùng sa mạc Thái Lan không làm chùng bước yêu đương, mà còn tăng nhiệt độ cho hai con tim nóng bỏng đang yêu, họ âu yếm quyện vào nhau mỗi trưa hè trên chiếc võng một cách hết sức tự nhiên và hết sức ‘Tây’! Ban đầu bà con còn thấy lạ lùng và khó hợp nhãn quang, nhưng dần dà rồi cũng quen đi. Không ai biết kết cục của chuyện tình này ra sao.
Trại Phanat Nikhom là nơi quy tụ rất nhiều nhân vật nổi tiếng của miền Nam thời trước 1975. Hầu như ai đi tị nạn ở Thái Lan đều qua trại này, nên đều có dịp gặp hay quen biết nhau. Lúc tôi lên thì đã có những nhóm văn nghệ hình thành. Thời đó, ca sĩ Tuấn Anh (người có trang phục khác thường) đã nổi tiếng là một người hát hay. Nhưng những show ca nhạc thường được tổ chức bên kia trại, nên chúng tôi thỉnh thoảng phải hối lộ cho cảnh sát Thái để họ cho qua xem văn nghệ!
Cuộc sống ở đây có phần chật vật hơn so với Songkhla. Như nói trên, nước được vận chuyển từ ngoài vào, và họ chia bình quân từng đầu người. Thức ăn thì do nhà thầu nấu trong trại. Vì nấu cho hàng ngàn, hàng vạn người ăn, nên phẩm chất rất tệ. Nếu chỉ nhìn thoáng qua những mảng cơm nhão như cháo hay thiu thì đủ biết tình hình tồi tệ như thế nào.
Có một món mà chúng tôi đặt tên là ‘gà lựu đạn’. Gà lựu đạn là con gà chỉ có xương, vì người ta lấy thịt đem bán chỗ khác (cũng là một hình thức tham nhũng ở quan chức Thái Lan). Dân tị nạn chỉ được ăn xương thôi. Thật ra, nhìn vào khẩu phần ăn, người ta có thể được tha thứ nếu nghĩ đó là một một loại thức ăn cho thú vật, chứ không phải cho con người! Nhưng dưới bàn tay chế biến tài tình của các bà nội trợ Việt, những con ‘gà lưu đạn’ đó được biến hóa thành những món ăn rất ngon miệng. Mỗi ngày, chúng tôi đi nhận thức ăn về, các bà các cô trong nhà thì chuẩn bị nấu nướng lại, và cả nhà (vài chục người) cùng ăn chung. Bữa ăn nào cũng ngon và vui. Kể ra thì thời gian ở đây cũng là một quãng thời gian có nhiều kỷ niệm.
Học Tiếng Anh Trong Trại Tị nạn
Ở trong trại có rất nhiều nhóm thiện nguyện từ các nước như Mỹ, Úc, Canada đến giúp người tị nạn. Đa số là các nhóm tôn giáo, nhưng cũng có những nhóm phi chánh phủ và không liên quan gì đến tôn giáo. Họ hoạt động rất nhịp nhàng với nhau, mỗi nhóm phụ trách một mảng, và không trùng hợp nhau. Chẳng hạn như nhóm phụ trách tiếng Anh, nhóm lo thư viện, nhóm dạy về đời sống mới ở phương Tây, thậm chí có cả các nhóm truyền đạo. Những nhóm này thường mướn người tị nạn để làm việc, vì họ biết trong cộng đồng người tị nạn có nhiều người giỏi tiếng Anh và có kinh nghiệm điều hành tổ chức. Nhìn qua các nhân viên làm việc cho các nhóm thiện nguyện, có thể nói gần 100% là người Việt, số người Cam Bốt và nhứt là Lào thì rất hiếm.
Riêng tôi, khi lên trại này, tôi cũng thay đổi. Thay đổi lớn nhứt là tôi có cơ hội đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi ghi danh vào một lớp dạy tiếng Anh do nhân viên thuộc các tổ chức từ thiện giảng dạy. Không biết vì chương trình hay vì không rành phương pháp sư phạm, họ dạy rất thực tế những câu nói thông thường, không cần để ý tới văn phạm, cú pháp, lúc nào cũng ‘How are you’, ‘I am fine, thank you‘, ‘My name is …’, v.v. Chỉ chừng một tuần theo học, tôi đã chán ngấy và bỏ học. Tôi không muốn học kiểu đó, mà phải học từ căn bản. Nhưng sau này tôi hiểu tại sao họ dạy như thế, vì mục tiêu là làm sao học viên có được những câu chữ thông thường để đi xin việc và giao tiếp, chứ mục tiêu không phải là khoa bảng.
Sau vài tuần nhập trại, tôi xin được một việc làm thủ thư trong thư viện của một tổ chức tôn giáo Tin Lành Assembly of God ngay trong trại. Thư viện này do một anh tị nạn người Khmer làm sếp. Anh này rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Anh, và nhìn qua phong cách thì chắc ngày xưa cũng là quan chức trong chánh quyền hay hệ thống giáo dục bên đó. Sáng nào anh ta cũng vào thư viện, chào hỏi mọi người một cách thân mật, nhưng phong thái vẫn toát ra là một lãnh đạo đúng nghĩa, vừa có học thức, vừa có tư cách lãnh đạo.
Công việc thủ thư của tôi là một cơ hội trời cho để học và đọc tiếng Anh. Mỗi ngày, tôi có nhiệm vụ việc sắp xếp sách báo cho có thứ tự. Mà, thư viện thì nhỏ, chỉ cao lắm là 1000 cuốn sách và tạp chí, chủ yếu là từ nước ngoài. Có khá nhiều sách báo tiếng Việt là từ cộng đồng người Việt ở Mỹ gởi tặng. Tôi đọc rất nhiều sách báo, tiếng Việt có, tiếng Anh có, tiếng Pháp cũng có, và học được rất nhiều điều. Nhưng cái công việc nhàn hạ quá, sau khi làm xong việc tôi chưa biết làm gì ngoài đọc sách. Phải vài ngày sau, tôi mới biết dùng thì giờ nhàn hạ này để học tiếng Anh. Tôi chọn cho mình một cái góc nhỏ của thư viện, và ngày ngày ‘dùi mài kinh sử’ ở đây.
Cách học của tôi rất chậm. Mỗi sáng, tôi gom góp những tờ báo gói rau cải, xếp lại cho thẳng thớm rồi đọc tin tức. Đó là những tờ nhật báo tiếng Anh của Thái Lan như The Nation và The Bangkok Post. Những bản tin liên quan đến Á châu có những danh từ tôi thấy quen quen, nhưng không chắc. Thế là sáng nào tôi cũng tìm những chữ mình muốn học, sau đó vào thư viện tra từ điển xem cách phát âm ra sao, nguồn gốc của chữ, cách dùng như thế nào, v.v. Có khi suốt ngày tôi để tâm học chỉ một chữ! Cái thú vị của cách học từng chữ này là nó giúp cho tôi có căn bản và tự tin trong cách phân biệt và dùng tiếng Anh cho chính xác. Hồi đó, tôi học bằng cuốn Từ điển Longman, tôi thích cuốn này lắm nên có xin về làm kỷ niệm cho đến ngày nay.
Học từ căn bản dĩ nhiên là chậm và khó, nhưng lúc nào cũng hay hơn học theo kiểu tài tử trên ngọn. Tôi ghi chép rất cẩn thận những qui luật về văn phạm tiếng Anh. Có khi tôi viết ra cách phát âm và tự lầm bầm đọc (chắc như người điên). Sau vài tháng tự học, tôi thấy cuốn sổ tay của mình đã trở thành một cuốn sách văn phạm tiếng Anh, và tôi cũng thấy mình tự tin hẳn lên, mặc dù nói chưa được nhiều, vì không có cơ hội thực hành đối thoại.
Học tiếng Anh hay nhứt là phải có một người bạn. Thời đó, tôi may mắn quen với một anh bạn gốc Huế tên A (sau này định cư ở Melbourne và tôi mất liên lạc). Chính anh A nói với tôi là mình phải học tiếng Anh từng chữ một. Anh lý giải, chỉ cần có vốn ngữ vựng khoảng 2500 từ là mình ‘nắm’ được tiếng Anh. Nói là 2500 từ, nhưng ‘phăng’ ra thì cũng thành 10,000 từ. Trưa nào tôi và anh ấy cũng đố nhau về tiếng Anh. Có những chữ tôi biết, anh ấy không biết, hay ngược lại, và thế là vốn ngữ vựng tăng lên nhanh chóng. Học nhau từ đố chữ này cũng hay, vì nó giúp mình nhớ lâu.
Có một chuyện buồn cười và trẻ con mà tôi nghĩ cần phải kể ra ở đây. Khi thấy mình có đủ ‘võ chữ’ anh A và tôi bàn cách ‘phục hận’ cái anh chàng sếp người Miên. Anh A nói vì anh ta xem thường bọn mình quá. Anh A và tôi bày cách ‘phục kích’ rất hết sức … Trạng Quỳnh. Chúng tôi tìm cách la cà với anh ta, rồi đưa ra những chữ thật khó để xem anh ta có bí không; khi anh ta bí, chúng tôi nói ‘Trình độ của mày như vậy mà làm sếp tao à?’ Anh người Khmer lớn tuổi hơn và kinh nghiệm đời hơn nhìn chúng tôi cười xoà một cách thân mật và nói ‘Cố gắng đi học thêm đi mấy ông tướng!’
Đúng là cái trò nhỏ nhặt và ranh mãnh. Cái trò đó chúng tôi mang từ Việt Nam sang đây và khi va chạm với thế giới lớn hơn mới thấy mấy trò đó trẻ con biết là dường nào. Tưởng rằng hơn người ta một chữ hay bắt bẻ người ta một điều gì đó là mình ‘ngon lành’ lắm, nhưng trong thực tế nó chỉ chứng tỏ cái nhỏ mọn và thấp kém của mình. Và, dốt nữa. Anh A và tôi học được bài học này từ anh sếp người Khmer. Tôi rất phục anh sếp này, giờ không nhớ anh tên gì, chỉ nhớ anh đi định cư ở bên Pháp.
Bangkok Hoa Lệ và Tử Tế
Ở trại Phanat Nikhom được khoảng 6 tháng, tổ chức ICM (Inter-governmental Committee for Migration) của Liên hiệp quốc sắp xếp cho tôi lên đường đi định cư. Nhóm chúng tôi chỉ đi Úc, và trong chuyến đi Úc có tất cả 54 người. Chúng tôi khởi hành bằng xe bus từ Phanat Nikhom lên Bangkok.
Sau khoảng 5 giờ đi đường, chúng tôi đến thành phố Bangkok. Sau cả năm trời bị giam cầm trong trại tị nạn ở rừng sâu núi thẳm, tôi đến Bangkok bằng một tâm trạng của một người nhà quê ra tỉnh. Lần đầu tiên trong đời thấy xa lộ chồng chéo lên nhau và xe hơi chạy như mắc cửi, tôi trố mắt nhìn những toà nhà cao vút, những khu phố tấp nập, tôi thấy Bangkok đã bỏ Sài Gòn quá xa. Lúc đó tôi mới thấy Hòn ngọc Viễn Đông Sài Gòn của Việt Nam quá ư là lạc hậu và thậm chí bé nhỏ!
Nhưng lên Bangkok, chúng tôi lại được chuyển vào một trại giam khác có tên là Immigration Detention Center (IDC). Đó là trại giam nằm trong trung tâm thành phố, có rất nhiều người ngoại quốc. Trại giam hơi âm u, có lẽ chúng tôi đến đó trong một ngày mưa, nhưng có ánh sáng mặt trời từ ngoài. Tất cả chúng tôi được dồn vào một cái phòng khá lớn, nhưng đủ cho khoảng nhóm người tị nạn, tất cả đều chờ để lên máy bay đi Úc. Chúng tôi ở đây được hai ngày. Ngày nào cũng được cho ăn uống đàng hoàng, và món ăn rất sạch sẽ.
Hai ngày sau, một buổi sáng, xe bus đến nơi chở chúng tôi ra phi trường. Ui chao, lần đầu tiên tôi thấy phi trường Bangkok quá rộng lớn và quá sang trọng. Đi đến đâu cũng toàn thấy những hàng quán và đèn điện sáng trưng, ai cũng tỏ ra sang trọng và lịch sự. Ngay cả mấy người cảnh sát cũng rất thân thiện. Nhưng chúng tôi không được rời hàng, mà phải đi theo người hướng dẫn cứ như là đàn cừu theo người chăn cừu vậy.
Hôm đó tôi diện một bộ đồ, quần tây đen, áo sơ mi trắng, và mang đôi dép. Lúc ra phi trường mới thấy mình quá ‘quê mùa’ vì ai cũng mang giầy! Nhưng tôi và nhiều người cùng cảnh ngộ lúc đó lấy tiền đâu mà mua giầy. Bây giờ nếu có được tấm hình hôm tôi và đoàn tị nạn ra phi trường chắc là thú vị lắm.
Ngồi trong phòng chờ đợi ở phi trường, trong lòng tôi lúc đó buồn vui lẫn lộn. Lúc đó, tôi không bao giờ có cảm tình (nếu không muốn nói là ghét) chánh phủ Thái Lan, vì thái độ làm ngơ và bất nhẫn của họ trước thảm nạn trên Biển Đông, nhưng dù sao đi nữa, đất Thái cũng đã cưu mang tôi trong thời gian khó khăn nhứt, và vì đã có một sự gắn bó như vậy, tôi cảm thấy buồn buồn khi phải chia tay Thái Lan. Cuộc chia tay nào mà chẳng buồn! Vui là vì tôi biết sắp tới đây mình sẽ được tự do, được sang một xứ sở mà tôi nghĩ chắc văn minh lắm, hiện đại lắm, và nhứt là không còn bị giam cầm trong các trại tị nạn nữa.
Nhưng thôi, hãy cứ hưởng trọn niềm vui trong giây phút hiện tại. Nghĩ ngợi một hồi thì có người của ICM lùa chúng tôi lên máy bay. Trời ơi! Lần đầu tiên trong đời thấy máy bay sao mà lớn quá chừng (hồi xưa cũng thấy máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhứt, nhưng không lớn như cái máy bay này). Sau này tôi mới biết là Boeing 747, của hãng hàng không QANTAS của Úc. Chúng tôi được sắp xếp ngồi ở những hàng ghế sau cùng trong máy bay. Lúc đi ngang qua các hàng ghế, thấy hành khách nhìn chúng tôi với ánh mắt vừa ái ngại vừa thương cảm.
Tôi được sắp xếp ngồi một cái ghế bên cửa sổ. Đây là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nên thấy cái gì cũng mới với mình. Cứ nhìn ra cửa sổ thấy máy bay tập nập, xe cộ đi lại liên tục, một quang cảnh rất nhộn nhịp. Nhìn trên mấy hàng ghế thì thấy ai cũng sang trọng, có người phì phèo thuốc lá xem ra rất thoải mái. Còn tôi thì cứ miên man suy nghĩ về nước Úc. Tôi lo thầm, chẳng biết mình sẽ làm gì ở xứ sở mới. Nói như anh chàng phái đoàn Úc, tiếng Anh thì không đủ để đi học lại, còn làm ruộng thì cũng chẳng có tiền. Phía trước là một tương lai mờ mịt.
Đang suy nghĩ miên man thì chiêu đãi viên mang đến cho chúng tôi khăn lau mặt thơm phức và ly nước cam vàng tươi vô cùng mát mắt. Sau nhiều tháng bị đối xử như tù nhân, đây là lần tôi được phục vụ và đối xử tốt. Tôi đã thật sự xúc động, và ngạc nhiên không hiểu sao họ lại tử tế với mình như thế. Tôi nhận ra rằng mình đã đến thế giới văn minh.
Nghĩ lại cuộc đời là ‘một cõi đi về’. Phải hơn chục năm sau tôi mới có dịp quay lại Thái Lan. Lần đầu chỉ là chuyển chuyến bay đi Âu châu; lúc đó đêm về ngồi trong phòng ngủ lầu 25 của khách sạn Montien nhìn về Việt Nam mà buồn vô hạn, vì chỉ 1 giờ là về đến nhà, nhưng không thể. Rồi đến giữa thập niên 2000s, tôi có dịp đi lại Thái Lan nhiều hơn, có lần được diện kiến cả hoàng gia Thái Lan. Lúc đó, tôi mướn một chiếc taxi đi về trại Phanat Nikhom để tìm lại kỷ niệm cũ, nhưng tất cả đã thay đổi, không còn gì để tìm. Rồi vài năm sau, lại có dịp ở Thái Lan cả tháng trời nhân dịp ‘sabbatical leave’ (một thời gian nghỉ dưỡng sau nhiều năm nghiên cứu), có dịp đi nhiều nơi trên đất Thái mới thấy Việt Nam mình tụt hậu ra sao.
Nguyễn Văn Tuấn
*Cuốn ‘Kangaroo Dream’ (‘Giấc Mơ Kangaroo’, bản ebook (giá 9.99 USD) đã có bán trên amazon.com):
https://www.amazon.com/dp/B0DTYJ1CH6
*Về tác giả: tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một cựu ‘thuyền nhân’, và nay là giáo sư của Đại học New South Wales (UNSW) và Đại học Công nghệ Sydney (UTS). Năm 2022, sau đúng 40 năm định cư ở Úc, ông được trao Huân Chương Australia vì những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu y khoa, phòng chống loãng xương, và giáo dục đại học.