Phạm Công Luận: Bà Tư quáng gà và gánh chè đêm
Nửa thế kỷ trước, món chè của bà Tư Từ như một huyền thoại của đám con nít ở Phú Nhuận. Dù nó chẳng mắc mỏ gì, cũng chỉ là món ăn vặt của người bình dân thôi mà hôm nào ăn được món chè thơm ngon đó thì thật là sung sướng. Có lý do để luôn thèm luôn tiếc là bà thường đi qua xóm rất nhanh, mới nghe tiếng rao đã biến mất nên dễ bị hụt ăn. Có khi thấy bà dừng bước trước nhà, chạy vô xin người lớn mua cho thì bà đã đi đâu mất.
Khi tôi nhắc về món chè của bà Tư Từ, chị Yến con của bà rơm rớm nước mắt. Câu chuyện khiến chị nhớ gánh chè của má chị quá chừng quá đỗi. Lâu nay tuy được nghe nhiều những lời khen về gánh chè hồi xưa đó, mỗi lần như vậy chị lại cồn cào nhớ người mẹ đã khuất bóng từ lâu. Món chè đó tuy đơn sơ giản dị thôi nhưng được mẹ chị nấu bằng sự tận tuỵ của một phụ nữ mê làm bếp, đã nấu thì phải làm sao cho thật ngon.
Một anh bạn là tài xế năm nay hơn 60 tuổi hào hứng kể với tôi: “Khi tôi về xóm Mô ở những năm đầu thập niên 1970, gánh chè bà Tư Từ bán đắt lắm. Bà chỉ bán buổi tối, chậm chân là hết! Đi theo bà có một bé gái, tay luôn nắm gióng gánh khi bà gánh chè đi bán”. Bà chỉ bán chè thưng thôi, tiếng rao như vầy: “Ai chè đậu xanh bột khoai bột báng nước dừa đường cát hôn!”. Rao một câu thôi mà trong đó kể hết các thứ nguyên liệu để nấu chè, thật thà vậy đó.
Chị Yến chính là cô bé theo mẹ bán chè năm xưa. Chị cho biết má chị gốc ở miệt vườn Lái Thiêu, lấy ba chị người gốc Cần Thơ. Ông Tư làm thợ hồ sửa nhà lặt vặt không đủ nuôi vợ con nên từ cuối những năm 1950, bà đã sắm cái gánh nấu chè đi bán rong để có thêm đồng ra đồng vào phụ chồng. Món chính của gánh bà là chè thưng nhưng có khi bà bán nấu thêm chè đậu đen hay chè xôi nước để bán. Đến khoảng năm 1967, mới lên 6 tuổi, chị Yến bắt đầu thay ông anh, đã tới tuổi đi quân dịch, để đi bán với má.
Lúc đó, nhà chị gần cổng số 8 đường Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển). Mỗi ngày khoảng ba giờ chiều, bà bắt đầu lấy đậu, đường và các thứ nguyên liệu ra để nấu nồi chè to, sắp sẵn chén muỗng vô đôi gánh. Đến bảy giờ tối, hai mẹ con bắt đầu bước ra đường.
Tại sao phải có cô bé Yến đi bán cùng? Yến có thể phụ rửa chén dọc đường giúp mẹ nhưng lý do chính là Yến phải… dắt bà đi. Bà Tư bị bệnh quáng gà từ lâu, buổi tối mắt bà không thấy rõ khi nhìn xa dù vẫn có thể múc chè cho khách. Khi con trai lớn của bà đi lính mùa hè 1972 và sớm tử trận, mắt bà càng yếu vì khóc nhiều. Cô bé Yến mới lên lớp Năm (lớp Một bây giờ) thay anh đi bán cùng với mẹ và việc thường xuyên làm là nắm gióng gánh dẫn mẹ đi theo.
Với đôi quang gánh trên vai, bà đi từ phía nhà gần cổng xe lửa số 8 đi vô đường Tự Đức (nay là Nguyễn Thị Huỳnh), lúc đó còn rất vắng nhất là đoạn lăng Phó Tổng trấn Trương Tấn Bửu và chùa Kỳ Quang. Thỉnh thoảng đến giữa đường chỗ ngôi nhà đoàn cải lương Hương Mùa Thu, nghệ sĩ Ngọc Hương và soạn giả Thu An chồng cô ra ăn vài chén chè. Có cả nghệ sĩ Kim Giác, chị của cô Ngọc Hương cũng gọi vài chén cho chồng con ăn. Ra hết đường này là đến đường Cách Mạng 1-11 (nay là Nguyễn Văn Trỗi). Yến dắt bà Tư băng qua đường, vô cái hẻm gần trường Quốc Anh để ra phía đường rầy gần đình Phú Nhuận. Quanh đó và chạy dài lên tới xóm Mô đường Cách Mạng là những quán bar. Buổi tối, những cô gái làm việc trong đó tuá ra ăn chén chè. Người trong các con hẻm sau buổi cơm chiều cũng ra mua về ăn. Càng đi, gióng gánh càng nhẹ dần. Dừng chân ở đâu, bà Tư ngồi bán, thỉnh thoảng cất tiếng rao. Bé Yến chạy chơi chung quanh với đám bạn mới quen hoặc xem tivi từ hàng rào một nhà gần đó. Bán đến 11 giờ khuya, bà Tư giục con dắt về, đi dọc theo đường rầy đến cổng xe lửa số 8 cho gần. Những đêm bà bán ế về trễ, hay gặp trời mưa… từ xa trên đường đã thấy ông Tư đội áo mưa đi ra, ghé vai gánh giúp gánh chè ế nặng trĩu.
Anh bạn tài xế kể tiếp: Tôi lúc đó mới chín hay mười tuổi, ghiền ăn ngọt nên tối nào cũng chờ gánh chè của bà Tư Từ. Có lần không thấy bà đi bán, buồn quá giữa đêm vắng teo tôi ngồi ngoài đường cất tiếng rao: “Aiiii… ăn chè đậu đen nước dừa… bún tàuuuu… bước qua hàng rào kẽm gai chà nát quừn hônnnnn…!”. Vậy mà cũng có người xách ca nhựa gàu mên ra tìm mua chè. Không thấy bà Tư, chị ta xách cái ca lủi thủi đi về, thấy phát tội!
Hình ảnh những món chè ngọt, chuối nếp, chuối chiên, cái bi ngon ngon cái bi giòn giòn… của những người bình dân sống trong các xóm hẻm đi bán dạo sao mà sống miên man hoài trong trí nhớ của chúng tôi, những đứa trẻ xóm nhỏ thích ăn vặt, xem chén chè khoai được ăn buổi xế sau giấc ngủ trưa là một niềm hạnh phúc và dĩa chè chuối nếp là một bữa tiệc. Những món ăn thuở nhỏ từ những cô Ba, mợ Bảy, bà Tư, dì Tám… những phụ nữ nấu món ăn đi bán mà chăm chút như nấu cho chồng con mình và khi nhớ về họ, mới thấy lại một phần tuổi thơ đẹp đẽ của ta có vị ngọt của những món ăn vặt chân chất ngày xưa đã trôi đi từ rất lâu rồi.
Phạm Công Luận
