Thơ Duyên, Lê Chiều Giang, Nguyễn Thị Khánh Minh

Nguyễn Xuân Thiệp: Tựa tập thơ ba nhà thơ nữ

Một ngày đầu thu, ngồi viết đôi trang về thơ của ba nữ lưu thời nay, sao bỗng thấy lòng xúc cảm lạ thường. Như ngày nào khi dạo chơi trong khu vườn Gitanjali bỗng gặp lại bông siêu ly thuở còn mơ mộng. Như ngày nào khi hoàng hôn xuống lái xe qua cây cầu cao ở Baton Rouge bỗng thấy vầng trăng lồng lộng trên sông. Hay như cách đây hơn mười năm, khi đi chơi vùng biển Laguna bỗng gặp lại người xưa – đầu đội nón rộng vành, mang kính đen, ngồi dưới bóng dù, tay lật xem thơ Tôi Cùng Gió Mùa. Vậy đó. Xin mời bạn đọc theo dõi những trang sau đây viết về ba nhà thơ nữ: duyên, Lê Chiều Giang và Nguyễn Thị Khánh Minh. Ô, lần đầu tiên ba nhà thơ nữ họp mặt nhau trong cùng một tập thơ. Một cuộc hội ngộ tuyệt đẹp. 

Xin được mở đầu với thơ duyên. 

Thơ duyên ít xuất hiện trên sách báo nhưng bạn bè biết nhiều về duyên qua những Blogs thân quen của Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai, và Phố Văn, hay qua emails khi chuyện trò trao đổi. Duyên thường thực hiện những bookmarks và vẽ những bức tranh nhỏ gợi cảm gởi tặng bạn bè có khi kèm theo những bài thơ ngắn dễ thương. Chúng ta có thể đọc, nhìn thấy qua phần Thơ Duyên trong tuyển tập. Riêng tôi rất thích hai bức Mùa Thu Chết và Lá Đỏ cùng những mảnh tình duyên gởi trong thơ. 

Đọc thơ duyên ta gặp một hồn thơ mở ra với thiên nhiên, nhân hậu, hòa ái với người, với đời. Duyên yêu mến thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ duyên như tranh của họa sĩ hiện ra với đường nét bay múa, sắc màu rực rỡ, như trong bài: Về. Với Mùa Thu 

sau chuyến bay dài

đêm thâu. không ngủ

chờ. mặt trời

đợi. sáng, nắng bình minh.

dễ thương chi, khi

mùa thu. vẫn… đó

đợi. chờ.

kìa, cây ginko nhỏ

vàng tươi.

trong nắng sớm.

lá nhu mì. vẫy. gọi

bước chân ai, về

lãng đãng. mù sương.

Duyên yêu mùa thu. Mùa thu hiện ra với nhiều dáng vẻ trong thơ duyên: 

lại kể nhé

chuyện vườn xưa. khi mùa thu tới

ba cây đào, đổi lá vàng. ngập cả lối đi

cây redwood, lá màu hổ hoàng. tuyệt đẹp

mỏng manh trên cành, đâu sợ mùa đông

Thiên nhiên chuyển màu rất đẹp từ thu sang đông với ý tình cảm xúc: 

rồi ngày lập đông. tuyết rơi. rơi. mãi…

cành, trụi lá. màu chì. ảm đạm

nhìn ra trời. trời. đất, quá bao la

mùa đông lê thê…

nhớ. Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng

tản cư về. về lại, mái nhà xưa

nơi. thi sĩ kể thơ. tình mê đắm

vẫn lạc loài, hình bóng Lara…

Thiên nhiên trong thơ duyên hiện ra với vẻ rực rỡ dù trong cảnh mùa đông. Thiên nhiên hay mùa thu còn làm nền cho cái chết của người thi sĩ. Những chiếc lá khô rụng xuống, chất chồng đủ nhóm lên lửa ngọn. thi sĩ về trong những chiếc lá khô: 

gió đã đổi mùa

không gian. lạnh

trong mênh mông

đất trời

gió cuốn. lá rơi…

đủ. để đốt thành lửa ngọn.

ngọn lửa. bập bùng

đêm trăng, khuyết

người thi sĩ

đã về. trong 

những chiếc lá khô…

Lá đỏ của mùa đông còn là cái chết của người bạn nhỏ, tên Ch. 

Em

chiếc lá nhỏ, thật đỏ, quá đẹp của mùa thu

sao lìa cành vội vã. sớm đông

chiều qua. có lẽ là em

con chim nhỏ

về…đậu lại trên cành cây trụi lá

trong tuyết trắng mênh mông

chim buồn, nên không hót.

Trong thơ Duyên còn có tình bạn. Duyên cảm thông những mất mát đau đớn của bạn bè nên chia sẻ cùng bạn những tình cảm chân thật. Đinh Cường, Trần Hoài Thư, Nguyễn Bắc Sơn, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Xuân Thiệp… và nhiều người nữa được nhắc tới trong thơ duyên. Đây là những người bạn của cõi văn chương ở những năm tháng lãng đãng của cuộc đời. Với Đinh Cường, một tình bạn của hội họa và văn thơ. Đinh Cường là người hiền hòa dễ mến, bạn bè ai cũng yêu quý. Sinh thời, Đinh Cường từng vẽ chân dung cho duyên và làm thơ tặng. Những câu thơ, bức tranh luôn nhắc tới một tình bạn như vầng trăng đầu núi. Trên chuyến tàu nào, lần cuối trở về, có giọt lệ trên mi mắt… 

Với Trần Hoài Thư là qua thông cảm từ trang sách đề tặng với nét chữ run run và cơn bệnh đột quỵ của nhà văn hiền hòa. Ôi những tình cảm thân thương quý biết nhường bao. 

Nguyễn Bắc Sơn, người đã ra đi còn để lại bóng hình và những câu thơ như Thương tiếc đám mây bay. Cuộc chiến khốc liệt đã để lại nhiều mất mát. duyên đã cảm thông sâu xa với phận con người trong chiến tranh. 

Đỗ Hồng Ngọc và Nguyễn Xuân Thiệp, hai người bạn văn chương khác, duyên nhớ đến, khi lần giở những trang thơ: về thu xếp lại (ĐHN) cô bé đi vớt mặt trời (NXT) bức tranh thơ (NXT) Duyên với tấm lòng nhân hậu đã cùng hai bạn tìm về những kỷ niệm đầm ấm, cả những đổ vỡ trong đời, để cảm thông, chia sẻ. 

Với Nguyễn Tất Nhiên, nhà thơ đã một thời đơn phương yêu duyên với mối tình cuồng si, yêu như thiên tai không bờ cõi – duyên nhắc về Nhiên bằng trích dẫn thơ. Và rồi như cánh buồm la paloma xa xưa trôi đi không về lại. Còn nhiều, còn nhiều bạn bè nữa, được gọi tên trong thơ duyên. 

Tình yêu gia đình trong thơ duyên thật thắm thiết. Nó được thể hiện qua bốn đứa cháu. Oliver, Millie, ViVi, Larkin. Tôi biết các cháu qua hình ảnh duyên gởi. Duyên sang thăm ViVi khi cháu đầy tháng tuổi, về lại nhà ở bên kia hồ Michigan. Chiều xuống bà ở bên đây hồ Michigan nhìn sang bên kia, Chicago gởi những nụ hôn cho cháu. Thiệt là dễ thương. Với các cháu khác, duyên đều rất thương yêu. Hãy nghe duyên trò chuyện với Oliver: Đóa hoa đỗ quyên nở ấm áp khi nghe tin cháu ngoại Oliver nhắn qua điện thoại: cuối tuần sẽ về thăm bà. Oliver sẽ đem soup (wonton soup) nấu cho bà vì nghe bà đang bệnh. Đọc thơ duyên xem đối thoại giữa ba bà cháu, với ViVi và Larkin, dễ thương quá. 

Bằng Iối viết tự nhiên, thơ duyên mang đến cho người đọc lòng tin yêu. Ta thấy ở đó một hồn thơ nhân hậu và hòa ái. 

Bây giờ xin nói về Lê Chiều Giang. 

Sự xuất hiện của Lê Chiều Giang mặt nào đó có thể nói như vầng trăng trong đêm nguyệt thực. Nói đến thơ Lê Chiều Giang không thể không nhắc đến Nghiêu Đề, họa sĩ là chồng nhưng cứ như là người tình mãi mãi. Tôi gặp Nghiêu Đề lần đầu tiên ở Đà Lạt trước 1975 ở nhà một người bạn gái. Nghiêu Đề nói chuyện rất vui và có duyên. Sau 1975, tôi gặp lại Nghiêu Đề và Giang ở một quán cà phê bên chợ Thanh Đa. Tôi ở Lô J và Nghiêu Đề ở lô G của cư xá. Sau này đọc những bài viết của Chiều Giang, tôi biết thêm thời đó Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Quang Lộc, Duy Trác, thường họp mặt hát hò ở căn nhà của Nghiêu Đề hoặc trên chiếc thuyền nhỏ trên sông Thanh Đa. Sang Mỹ, trong một cuộc hội ngộ Văn Học ở hội báo Người Việt do Khánh Trường tổ chức, có Thái Thanh, Mai Thảo, Lê Uyên Phương và nhiều người nữa. Nghiêu Đề nói đùa với tôi: “Tôi đã đọc nhiều thơ của ông trên Văn Học, ông phải trả tiền cho tôi đó nghe.” Thời gian trôi qua, Nghiêu Đề đã ra đi vào năm 1998. Tôi đọc được những bài thơ ngắn của Giang trên Văn Học. (Bút hiệu Lê Chiều Giang chỉ bắt đầu có khi Giang tham dự bài trong “Nguyễn Xuân Hoàng trong và ngoài văn chương” do Da Màu thực hiện năm 2014).

Trong một dịp gặp lại Lê Chiều Giang sau đó tại nhà Nguyễn Mộng Giác, tôi xin Giang đăng lại một số bài thơ đó trên Phố Văn, và cho Giang biết tôi đã viết bài tiễn đưa Nghiêu Đề trên tạp chí Phố Văn. Từ đó không có dịp gặp lại Chiều Giang nữa. Mấy năm sau, tôi được đọc thơ Giang và cảm thấy yêu thích. Thơ của Giang thường là ngắn, như một tiếng kêu đau đớn biến thành uất hận, như một cơn đồng thiếp của cảm xúc và chữ nghĩa. Qua những gì đọc được, ta biết tình yêu của Giang và Nghiêu Đề gần như một huyền thoại giữa đời thường. Từ lúc còn là học trò dưới bóng mẹ cha, Giang đã thường xuyên bỏ học, trốn nhà thờ, đến với giới họa sĩ chỉ vì mê mùi sơn dầu của những bức tranh. Cuối cùng đã mê luôn chàng họa sĩ tài hoa. Mối tình đó theo Trịnh Cung là một tình yêu đẹp, mê muội và dữ dội. Dù không đưa Chiều Giang đến chỗ phải tự tử theo chồng như nàng Hebuterne của họa sĩ Modigliani. Giang vẫn tiếp tục sống trong cơn mê loạn, và Thơ đã cứu rỗi nàng cũng như đã làm thăng hoa mối tình khiến nó trở thành vĩnh cửu. Cũng như Hebuterne, Giang là người mẫu của Nghiêu Đề trong nhiều bức tranh. Bức tranh cuối Nghiêu Đề vẽ Giang. “Vệt màu đỏ mỏng chàng vẽ dưới mi mắt nàng như sợi máu rỉ ra từ tình yêu dành cho nàng mà chàng sắp phải từ biệt.” Trịnh Cung đã nhận xét như thế. 

Ta phủ xác người bằng bức tranh xưa

Nét vẽ sắc

Như ngàn dao cắt

Vẽ mắt ta từ ngày mới gặp

Mắt tàn phai. Mắt của tàn phai. (Một chín chín tám)

Thơ của Giang đúng là một thiên tình sử đầy giông gió thỉnh thoảng ẩn hiện một vầng trăng ảo. Tôi gọi nó là Thiên Tình Sử của Trái Tim Điên. Theo bước chân thơ của Chiều Giang ta đi vào cuộc lữ hành của cõi mê hoang, nghe ra tiếng thét, tiếng cười khan, và cả tiếng khóc. 

Ta chôn chồng ta

Một lần.

Duy nhất.

Ở giữa rừng gai không hoa trái mọc

Đất.

Đá.

Rực cháy những lửa điêu tàn

Ta đứng giữa trời

Lặng thinh.

Không khóc. (Một chín chín tám) 

Ta ngồi một mình 

Trên nóc nhà 

Buổi sáng 

Trước ngày bỏ đi

Khói thuốc tan trong mây 

Rượu. 

Đổ đầy máng xối (Lên đồng) 

Chiều Giang ngồi trên nóc nhà và la hét, thấy những hồn ma cũ vật vờ bay, nghe những tiếng xưa vang vọng và hát như điên trong cơn đồng thiếp. Và có lúc đành phải đốt nhà…

Bới tung. 

Từng góc nhà 

Xó bếp 

Tay nâng niu những tháng ngày xưa 

Có bao năm?

Mà như thiên cổ 

Nhà ơi. 

Giữ lại dùm ta những gió mưa 

Giữ lại dùm ta ngàn tiếng nói … 

… Ra đi 

Đốt lửa căn nhà trống 

Vung vãi tàn tro 

Khắp đất trời. Và 

Xóa bàn đi làm lại hết

Ta thả đời ta. Giữa 

gió bay. (Đốt nhà)

Ta biết Giang từng là người mẫu, nhưng đứng mãi trong tranh làm góa phụ cũng chán, nên phải bước ra với mặt trời. nhìn quanh đã chẳng thấy ai, cất tiếng gọi cũng không ai trả lời bèn bước trở lại trong tranh như bỏ một cuộc chơi. Muốn bỏ cuộc chơi nhưng không được nên lại bước ra, tiếp nối cuộc hành trình của mệnh số. Có khi muốn làm thiền giả, ngồi trong góc tối hay đi giữa trời lộng gió, làm sa di ôm bình bát đứng giữa trời mưa nắng cho đến khi ngày hết, bình bát chỉ còn chứa đầy bóng trăng. Cứ ngang ngang bương bướng để mơ thành họa sĩ, vẽ bức tranh siêu thực với màu đỏ trên tóc và xám xanh trong mắt. Tay không mà bày cuộc chơi vượt cả Lưu Linh, Tản Đà, Phạm Thái, Tử Kỳ. 

Lưu Linh? Ờ, Lưu Linh 

Tản Đà?  …Ta chấp hết 

Mắt sắc như kiếm dao 

Chém chơi. Vài 

Phạm Thái… (Bỏ nhà) 

Thơ Chiều Giang là thế. Những bài thơ ngắn, ngôn ngữ trực tiếp, sắc bén, với lối ngắt dòng khác lạ, tạo hiệu ứng rung cảm nơi người đọc. Thơ Lê Chiều Giang là tiếng ca tiếng khóc trong cơn đồng thiếp của hiện sinh mê cuồng. 

Thơ, như chưa từng bao giờ có thơ như thế. 

Và đây thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. 

Trước hết, thơ ấu của Nguyễn Thị Khánh Minh đã là thơ. Đồng lúa, con sông, ngôi nhà ở làng Thuận Mỹ, Ninh Hòa, ánh trăng bên bờ giếng cũ, những bông hoa giấy trên sân nhà ở Nha Trang, tiếng còi tàu, bước chân của cha trở về… hồn thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh nở ra từ đó. Khánh Minh làm thơ ở tuổi còn để tóc bum bê cắp sách đến trường. Ấy có lẽ do ảnh hưởng của cha mẹ. Song thân của Nguyễn Thị Khánh Minh đều là nhà thơ, chủ nhân của lầu thơ Minh Minh. Nơi đó thường có mặt Vũ Hoàng Chương, Hà Thượng Nhân, Hồ Điệp, Nguyễn Đức Quỳnh… Ở lầu thơ Minh Minh của cha mẹ, Khánh Minh đóng vai cô bé pha trà và rồi ngâm thơ theo chỉ dẫn của Hồ Điệp. Từ lầu thơ của cha mẹ, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh đã lớn dậy cùng với những tháng năm với hoa lá và mây trời. Nguyễn Thị Khánh Minh mang thơ qua sân trường Luật và những nẻo đường của phố xá Sài Gòn. Và, cho đến bây giờ. 

Tôi xin an lành gom hết những lời kinh nguyện. Bầu trời no tin cậy. Mầu xanh phủ hết tai ương cho con người và trái đất chan hòa nương tựa. Tôi sẽ tìm về đêm bé thơ thỏ thẻ với cha điều ước mơ chưa từng nói. Nếu có tìm tôi. Xin chờ mảnh sáng sao băng.

Vậy xin nương theo ánh sao đến với thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, cũng như thơ Lê Chiều Giang, thơ duyên, không theo bất cứ khuôn khổ tiết tấu nào. Nó là nhịp đập của thời gian và hơi thở người. Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh  còn là thơ xuôi, thơ tản văn, mở ra một cõi trời hoang mơ. Đọc thơ Nguyễn Thị Khánh Minh ngay từ bài đầu tuyển chọn ở đây đã thấy tâm hồn nhà thơ mở rộng với đất trời và nhân gian. Cảm động là cô muốn đem chia sẻ cùng cha những tình ý ấy như thuở còn thơ. 

Trong bài thơ Khoảnh Khắc Giấc Mơ, cô bé Khánh Minh muốn dâng hết lời kinh nguyện cho bầu trời bình yên với màu xanh phủ hết tai ương. Và cô sẽ tìm về một nơi với vạt đèn khuya ủ những ý thơ trong cơn mơ, vì “tất cả mọi cảm hứng thi ca đều là giải mã những giấc mơ”. Và cô nguyện nếu có bay đi xin bay về đồng lúa thuở ấu thơ nơi quê nhà bình yên, với con tàu chuyên chở hội ngộ, tiếng cửa mở sum vầy và bếp lửa trong căn nhà xưa. Còn nữa, thơ sẽ thắp lên ánh sáng của sao hôm và sao mai, cô sẽ treo tiếng chim trước cửa để đánh thức ngày vui. Trong ánh chớp của thanh xuân về lại, Nguyễn Thị Khánh Minh sẽ theo con sóng nhỏ về nơi biển xanh hiền hậu của thời ấu thơ và ai kia muốn tìm lại hình bóng của người làm thơ Nguyễn Thị Khánh Minh thì xin đến với hàng liễu xanh và con trăng mới mọc… 

… Nếu có một nơi để nhớ. Vạt đèn khuya trỗi lên bài ca năm tháng. To nhỏ câu thơ phút hôm nay ta sống cùng người. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm tình tự. Nơi giấc ngủ một người, trái tim vẫn hoài đập trong khoảnh khắc của giấc mơ… 

… Nếu thanh xuân là quà tặng. Sinh cho tôi đời lá non. Sẽ sống tận cùng xanh, hết sức. Từng hạt mầm nuôi tôi trở lại cho dẫu hơi thở kia có không ngừng lặp lại nỗi đau. Tôi sẽ về hay tôi sẽ đi. Lời chào ấy là phút tôi trao nhận một món quà vô giá. 

… Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống…

Đó là tiếng nói của thơ. Tôi chưa thấy ai thao thức với thơ trăn trở với thơ như Nguyễn Thị Khánh Minh. Khi viết xong bài thơ có khi cô khóc, và lạc giữa cõi thơ như trong cơn mộng du. Cô mê sảng, cười điên cùng bài thơ, những con chữ có khi là những giọt lệ. Cô nằm gai nếm mật hình thành bài thơ. Trong cơn mộng du chữ nghĩa, Nguyễn Thị Khánh Minh muốn thơ mình lang thang qua khắp cõi bờ nhân sinh, Thơ đi vào quán nụ cười như để tìm vui. Đi vào quán đêm xin một giấc mơ, rồi đi vào trường kịch nhân gian, vào con đường của kiếp dã tràng, ghé thăm quán hoàng hôn, vào lòng đóa hoa xin mật ngọt, vào chung với bầy kiến, vào đồng lúa, vào dòng sông… Tất cả là đi tìm hơi thở của sự sống… Đọc thơ Khánh Minh ta như được cùng tác giả hòa chung nhịp thở với thiên nhiên, bởi đó không chỉ là ngắm nhìn với nỗi ơ thờ mà hòa nhập với thiên nhiên. Xin cùng với nhà thơ bước vào đêm, hóa thân với sao trời và gió như có linh hồn – sao tắt, hồn rơi và gió khóc đưa tang. Đêm thì ngất lịm trong chiêm bao, nghe tiếng ngày đi run rẩy, nghe hồn cỏ thao thức, cây trút lá bơ vơ – rồi ngày lên mang chút niềm vui sót. Nhà thơ đi vào đêm, đem theo nụ cười, chia sẻ những rạn nứt đổ vỡ của đêm, nụ cười thơ làm nở một vì sao. 

Tắt một lời, hồn thơ Nguyễn Thị Khánh Minh cảm nghe được nhịp mùa, nhịp ngày đi đêm tới. Có thể nào ta gọi thơ Nguyễn Thị Khánh Minh là bản symphony của nhịp mùa và thời gian. Riêng với Nguyễn này như được lạc vào vùng trời của Gitanjali nghe thi nhân thổi lên bản hòa ca trên cây sáo bằng ống sậy. 

Trong thơ Khánh Minh còn có những khoảng trời của tình bạn. Nguyễn Thị Khánh Minh  chia sẻ cùng bạn những nét đẹp của sáng tạo, những ý tình lung linh hư ảo, những nỗi chia xa. 

Với Duyên, cùng Duyên sống lại niềm vui và vẻ rực rỡ của thanh xuân ngày ấy. Với Đinh Cường: cảm thông cùng tiếng cọ của người họa sĩ và những sắc màu trong tranh và nỗi đau cùng vẻ hư ảo của cuộc đời. Với Trịnh Y Thư: cùng bạn cảm thông với vệt nắng chiều đang tắt, bóng người con gái ngồi cong lưng như mảnh trăng non, trong vẻ đời ảo hoặc, chia xa. Với Nguyễn Xuân Thiệp, cùng nghe tiếng chiều rơi trong tiếng con chim nhại và vẻ ảo hoặc của mùa thu với màu hoa cúc quỳ vàng trong khu vườn của ngày đã xa. Còn nhiều. 

Còn nhiều những điều chưa nói về thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nhưng thôi, chỉ xin cùng đọc một đoạn trong tuyển tập thư hương này: 

Người đem theo nụ cười 

Đi vào giấc mộng 

Những vì sao chưa mọc 

Những vì sao đã chết 

Bỗng nhận ra mình 

Mất tích bao năm 

Người đem theo nụ cười 

Đi vào bóng tối 

Những hạt lệ lặng lẽ 

Những hạt lệ vô hình 

Bỗng nhận ra mình 

Bật khóc 

Người đem theo nụ cười 

Đi vào những biên giới… (Có Vì Sao Mới Mọc) 

Nguyễn Xuân Thiệp 

Dallas, tháng 11, 2024

Sách có bán trên BARNES & NOBLE

224 trang, bìa mềm, 5.5” x  8.5”, giá bán: US$20.00

Xin bấm vào đường dẫn sau:

Tho duyen le chieu giang nguyen thi khanh minh by Nguyen Thi Khanh Minh, Paperback | Barnes & Noble®

*****

THƠ DUYÊN

chuyện cổ tích 

– gửi các thi sĩ.. 

– riêng đến Mary, đoá hoa dại. bên bờ suối

Bạn gửi bài thơ, Hoa Mùa Cổ Tích.* 

hoa Muguet, hoa chuông hạnh phúc. 

đem tôi về những ngày xưa. cũ 

ngày mộng mơ, nuôi nấng trái tim… 

Kể cho bạn nghe về Mary

người hàng xóm cũ, rất dễ thương

chúng tôi chia nhau bầu trời có cây. cao ngất

hoa dại nhiều, hoang dã. dưới lùm cây 

có dòng suối nhỏ mang tên Buck Creek 

uốn lượn quanh co, qua khu rừng nhỏ 

nơi hoa liên tiếp nở, đến độ Đông về

Mary, người không có tuổi 

lãng mạn, yêu đời, kiếp nàng thơ

thường rảo bước trong rừng, sáng tinh mơ 

góp nhặt những đóa hoa 

nở trong sương sớm, gom thành bó nhỏ 

đẹp, thật thà. dành tặng tôi, vào sáng bình minh…

Ngày đó, tên những loài hoa dại 

buttercup, muguet, jack in the pulpit 

silver dollar, trilium, violet, wild geranium 

còn xa lạ…

tôi học tên loài hoa, qua những bó hoa

đến, từ khu rừng nhỏ.

Hơn hai mươi năm, xa xóm cũ 

tôi ở nơi này, Buck Creek cũng lượn qua 

nay bạn nhắc đến tên, hoa mùa cổ tích 

kỷ niệm cũ bỗng uà về, như giấc mơ… 

có Mary đứng trước hiên nhà buổi sáng 

nắng bình minh nhẩy múa sau lưng 

bó hoa dại trên tay, miệng cười xinh xắn 

đôi mắt long lanh, cất tiếng chào.

Lâu lắm tôi chưa về qua xóm cũ

lâu lắm rồi, chưa gặp lại Mary 

có lẽ, tôi sẽ về qua xóm cũ… 

tìm lại Mary, tìm lại nụ cười

hay cứ thả đóa hoa vào giòng suối

chờ người năm cũ 

vớt cánh hoa… 

5. 2015

* Hoa mùa cổ tích, thơ Nguyễn Thị Khánh Minh

Có một dòng sông

Viết cho anh Dũng, tháng Tư buồn

đêm qua. trong trí nhớ

recite một bài thơ. buồn…

chìm vào giấc ngủ

nhủ lòng mình, sáng dậy

chép bài thơ.

trí nhớ mập mờ 

dẫn tôi đi…xa lắm

đầu óc trắng tinh

trở lại với mình

tinh khôi. ngày đó…

có dòng sông xưa. bàng bạc

cuối con đường

có con đò nhỏ, ít người qua

bên này sông là thành phố nhỏ

bên kia, làng quê

dân chơn chất, hiền hoà

đất mênh mông…

không hiện hữu. một số nhà*

người lái đò 

thuỷ chung. không bắc cầu

nối hai đời sống 

một thành thị. một thôn quê

một dòng sông. một con đò…

và một cuộc chiến, không xa.

một ngày kia, có tôi

đáp chuyến đò, trưa

tìm đến ngôi nhà. không có số*

vách trống. yên bình

khu vườn rộng. bao la

cha mẹ hiền

và một người em gái nhỏ

báo tin buồn

anh D vừa tử trận, hôm qua.

anh ra trường. mới đeo lon chuẩn uý

không hiểu sao. khi anh C mất

anh được phép về

qua nhà tôi thắp nhang

cúi đầu, cầm nước mắt

giận chiến tranh tương tàn

cướp đi nhiều sinh mạng

cả anh C thân yêu

người, anh hằng quí mến

có ngờ đâu…

giờ. lại chính mình

giã từ cuộc chiến.

hỡi dòng sông

tự bao giờ 

đã ngập tràn nước mắt

anh đi rồi

sông buồn. giữ lại. bóng hình anh…

nói gì. với gia đình anh

tôi không nhớ rõ

làm sao. tôi qua được chuyến đò 

trở về. thành phố nhỏ 

…như người lái đò

tôi để lại. bên kia sông

những khuôn mặt. nát lòng…

có một ngày thật buồn

trên chuyến đò ngang 

cụm mây ngỡ ngàng

soi mình trong dòng sông

đã nhuốm mầu nước mắt

trí nhớ tôi. buồn…

trắng. mầu mây trắng…

(Michigan, 29.4.2017)

* Gia đình anh Dũng ở xã Hoá An, bên kia sông Đồng Nai.  anh học giỏi, cựu học sinh Ngô Quyền (k3), sinh viên Khoa Học MGP. Anh rớt đại học một năm, vào Thủ Đức. khi nhập ngũ, anh mượn địa chỉ nhà tôi cho dễ liên lạc. Khi anh mất, người lính tìm đến nhà, chúng tôi phải đưa ông qua bên kia sông để báo tin buồn cho gia đình anh. 

good morning, em

tiếng còi tầu oa oa…

sớm rạng đông

đưa bà qua nhiều cánh đồng vắng vẻ

vài sân ga nhỏ. yên ắng. sớm Đông

tất cả. bình minh quá!

chưa nhuốm ưu phiền, một ngày sắp đến.

qua những vườn cây cảnh

những chậu hoa, xếp hàng thẳng tắp

chờ đợi mùa xuân

lướt qua những khu rừng white birch

thân cây mầu trắng. đẹp

ảnh Ansel Adams

và những rừng thông. evergreen

hứa hẹn một ngày mới, an lành

mới tinh. như em

mai, vừa tròn một tháng.

hôm nay đâu phải ngày rằm

trăng lúc ẩn. hiện

theo chân bà, buổi sáng

bên cửa sổ

đàn chim. xếp hàng thật đẹp

cũng bay theo…

tuyết trắng. sáng rực rừng cây xám

hiện ra những cây con, chưa rụng lá

ẩn nấp dưới tàng cây mẹ

đang chờ đón mùa xuân.

tiếng còi tầu oa oa…

kéo dài hơn trước

báo hiệu một thành phố mới, sắp qua…

bà lại gần em, thêm chút nữa…

đàn chim xoải cánh, sà xuống cánh rừng thưa

tìm thức ăn còn sót lại, cuối đông.

con suối nhỏ, cặp thiên nga bơi lội

nước vừa tan băng, trong veo. mùa xuân

rừng đã thưa dần

trăng vẫn theo…

Chicago. chắc không còn xa lắm

tiếng còi tầu nhỏ hơn. dài hơn. qua đường phố rộng

cao ốc đã hiện ra, lúc một rõ ràng

trăng vẫy chào từ giã

tiếng oa oa…

nhỏ. nhẹ. êm dần

từ lúc nào…

bà đã được nghe tiếng oa oa…em.

buổi sáng

còn nguyên trên thành phố mới.

good morning, em!

03.11.2015

ngày ViVi đầy tháng 

***

THƠ LÊ CHIỀU GIANG

vỡ nợ

Thôi. Chán quá

Ta về làm thi sĩ

Ủ trong thơ là

Ánh lửa triền miên

Nếu chán hơn

Ta sẽ thành họa sĩ

Vẽ lên trời bóng tối của vầng trăng

Và. Sao nữa?

Ta ngàn năm vẫn thế

Cứ khơi khơi

Cứ bương bướng với đời

Buồn ngang xương. Để

Thất thoát niềm vui

Tìm nghĩa lý trong điều

Không ai hiểu.

Và như thế. Ta

Muôn đời vẫn thiếu

Nợ trần gian. Và

Nợ cả nhân gian

Nợ với người lời hứa:

Mãi thuỷ chung.

Thiếu cả chính ta

Một lời…

Nói thật

đốt nhà

Bới tung.

Từng góc nhà

Xó bếp

Tay nâng niu những tháng ngày xưa

Có bao năm?

Mà như thiên cổ

Nhà ơi.

Giữ lại dùm ta những gió mưa

Giữ lại dùm ta

Ngàn tiếng nói

Âm vang nào chôn giấu, đã lâu

Tiếng thét to, đôi lần tuyệt vọng

Những cười khan.

Những khóc giấu.

Những đêm dài.

Ra đi

Đốt lửa căn nhà trống

Vung vãi tàn tro

Khắp đất trời. Và

Xóa bàn đi làm lại hết

Ta thả đời ta. Giữa

gió bay.

***

THƠ NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

phút mong manh giữa những từ

Khi viết xong bài thơ
Đôi khi. Tôi khóc
Có phải vì lời đã nói về nước mắt 

Trong lòng đêm ma mị


Lạc giữa bài thơ
Ngu ngơ. Như vừa bị cắp đi. Những chữ 

Mộng giữa bài thơ

Nghe mình lam nham nói mớ

Thức giấc cùng bài thơ

Tôi và chữ giật mình

Bay bay. Cao cao. Rồi vỡ

Khi viết xong bài thơ
Tôi thường hay xóa
Dường như tôi sợ bóng tôi
Giãy chết giữa những con chữ đói

Bầy ý nghĩ tử thi

Làm tôi buồn như vừa đưa ai về huyệt mộ

Khi chấm hết bài thơ
Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời

**

Khó mà thoát khỏi sự cám dỗ
Tôi mải miết
Điều gì sau dấu chấm hết một bài thơ?

Sau một vụ mùa
Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín
Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay

Làm tôi đã vô cùng sung sướng
Tôi đã tắm đã hưởng
Tất cả những ngọt ngào mát mẻ của con sông
Và dẫu tôi không mang về một hạt nước nào của nó
Nhưng làn da tôi thì mãi còn dư âm cái trườn mình của dòng chảy

Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ
Nhưng phút mong manh giữa những từ
Là lúc đóa hoa đang nở. Đang tỏa hương
Tôi có gì đâu phải vội

đêm

Phương đông im như ai vừa sập cửa

Ngày oằn vai cõng tối. Nắng theo đi

Để lại một trời đêm chết đứng

Sao tắt hồn rơi không lưới đựng

Từng bầy gió nhỏ khóc đưa tang

Vành môi khô trăng buồn neo lưng ốm

Đường mờ sương hút từng con bóng chạy

Khuya nằm ngất lịm mớ chiêm bao

Nghe xa lắm tiếng ngày đi run rẩy

Đàn cỏ ồn mầm xanh khua bóng tối

Rưng rức những bàn chân mọc đuổi

Nhìn treo lên lúc lỉu những phương trời

Trời xa đuối. Lòng đêm sâu thẳm miết

Cây mỏi mệt bứt ra hoài lá bệnh

Thở dài gió lạnh trổ mình gai

Gai đêm nhọn giấc mơ đi không trót

Mắc cạn lòng nhau giấc ngủ đìu hiu…

Họa chăng mai. Có một niềm vui sót

2020

*****

Đỗ Hồng Ngọc: Lời bạt Thơ duyên lê chiều giang nguyễn thị khánh minh 

D U Y Ê N 

nỗi lá vàng cuối thu 

duyên không chỉ làm thơ. duyên vẽ. duyên chụp hình. duyên làm những bookmark thiệt dễ thương để gởi bạn bè, nhắc nhớ mỗi khi lật từng trang sách, vì ngoài kia… 

bên khung cửa 

lặng nhìn chiếc lá vàng. rơi 

một mình…

The Last Leaf 

O’Henry, 

Cho nên đọc thơ duyên cứ nghe “Chân đi nằng nặng hoang mang… Ta nghe tịch lặng rơi nhanh. Dưới khe im lìm” (TCS) 

chợt. hiểu ra rằng 

mầu đỏ, vàng kia tự bao giờ… đã 

ngấm. ngập 

trái tim ta. 

Phải, hình như những chiếc lá vàng kia vẫn luôn xào xạc, vẫn luôn thổn thức dưới trăng mờ của con nai vàng ngơ ngác tự thuở nào kia. 

và khi trăng mờ, trên núi xa… 

có lá vàng. lìa cành vội vã… 

có mùa Thu, lành lạnh. gió thu, sang 

Cô bé đi vớt mặt trời của Nguyễn Xuân Thiệp không về nữa… nhưng Zhivago thì vẫn về lại mái nhà xưa 

Zhivago trên cánh đồng tuyết trắng 

tản cư về. về lại, mái nhà xưa 

nơi. thi sĩ kể thơ. tình mê đắm 

vẫn lạc loài, hình bóng Lara… 

Ơi Lara. Rồi Lara hỏi Zhivago: 

lá đỏ. lá vàng… đẹp ngỡ ngàng 

mỗi độ sang Thu 

lá vàng ơi. dặm đường xa. có mỏi 

Zhivago còn biết trả lời sao? 

Tôi một lần kia đi giữa Boston với cả một mùa thu, trọn một mùa thu. Nhớ Xuân Diệu với “Lá không vàng, lá không rụng, lá lại thêm xanh, ấy là mùa thu đã về, mùa thu mới về, yểu điệu thục nữ…”. Thực ra, lá như ráng níu lại chút xanh, và vì níu lại nên có vẻ chặt hơn, xanh hơn lên mà thôi. Bởi vì rất nhanh, lá bỗng vàng rượm, vàng rực, vàng tía, vàng buốt… và bầu trời rộng ra, thênh thang, yểu điệu kỳ cục. Mới mấy ngày thôi mà cây cứ tô dần tô dần cái màu vàng buốt, óng ả, rực rỡ chen lẫn với xanh đậm, xanh lợt mong manh đó… và sáng hôm sau, rơi từng lá từng lá tràn ngập các lối đi. 

Bỗng nhớ Em không nghe mùa thu của Lưu Trọng Lư. Rõ ràng thu không phải để dòm, để ngó, để ngắm, để nghía… mà chỉ có thể để nghe. Mà cũng không phải để nghe tiếng, dù là tiếng lá rụng mà để nghe mùa. Cái tiếng mùa đi, mùa về, cái tiếng đời của mỗi chúng ta. Nó ở trong không gian dằng dặc, đùng đục thênh thang kia, và ở cả trong thời gian hun hút, héo hon rơi rụng nọ. 

Tôi bước đi từng bước nhẹ dưới những vòm cây và nghe cho hết tiếng thu về. Dưới chân tôi từng lớp lá rụng, bước chân bỗng như hẫng đi và tôi chợt ngơ ngác như chú nai vàng “xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về” (Huy Cận) đó vậy. 

Lạ, ở Mỹ người ta không gọi Autumn – mùa Thu, mà gọi Fall – mùa Rụng, bởi vì chỉ có lúc lá rụng bời bời như vậy người ta mới thấy hết được nỗi vui mừng, nỗi xót xa, nỗi  buốt nhớ… không rõ vì đâu. Và vì Fall, mà người ta dễ “fall in love” có phải? (Nghe tiếng thu giữa Boston, ĐHN, 1993). 

ngày cuối Thu buồn tênh… 

vầng trăng chưa tỏ 

bóng những chiếc lá 

thoi thóp trong đêm 

sẽ vùi chôn theo… 

mùa Thu chết!* 

Đọc thơ duyên không chỉ thấy nỗi buồn dằng dặc bởi thu phai mà còn thấy lòng mình như rộng mở, như những chiếc lá thu ngập thềm nhà, đẫm ướt mưa đêm mà còn biết chất chồng lên nhau cố giữ hơi ấm cho nhau…

trở về. sân nhà ngập lá 

phủ kín lối đi… cây ginkgo vườn sau trơ cành. gầy guộc 

sót lại. vài chiếc lá trơ vơ 

thềm lá vàng 

chất chồng lên nhau, chen mầu nâu, đỏ 

đẫm ướt dưới mưa đêm 

cố giữ hơi ấm cho nhau… 

ngày tàn thu 

Tôi chắc, một hôm thu kia, thế nào một chiếc lá vàng sẽ lắt lay trong gió nhẹ, mênh mang và vĩnh cửu, chiếc lá vàng được vẽ bởi duyên chớ không phải bởi O’ Henry, phải không duyên? 

LÊ CHIỀU GIANG 

trên sông khói sóng… (*) 

Thơ Lê Chiều Giang không phải thơ. Nó là tiếng thét, là tiếng thở dài não nuột. Đọc Lê Chiều Giang thấy một người thơ, sống như thơ, thở như thơ, sáng trưa chiều tối, từ trong tranh bước ra, ngồi đó, ngó quanh, không thấy ai, lại bước vào trong tranh. 

Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi. 

Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya… 

Lê Chiều Giang vẫn cứ lẽo đẽo tìm theo những rêu phong của ngày tháng cũ, nhiều lúc muốn xổ lồng bay xa mà vẫn ngập ngừng e sợ… 

Cánh cửa 

Sầm. Đóng lại 

Chìa khóa? Quăng lên trời. 

Ta. 

Bước chân phiêu bạt 

Tay không, 

bày cuộc chơi. 

Rồi hét lên tôi cứ lẳng lơ, tôi rất lẳng lơ viết những chữ mông lung, vật vờ như gió… sáng trưa chiều tối 

Vẫn có một bờ vực không thể vượt qua, cho dù cứ lẳng lơ, rất lẳng lơ như thế! Để rồi 

Đứng mãi trong tranh 

Đóng vai: 

Góa phụ 

Sáng nay ta 

Ra với mặt trời 

Như kẻ xa xôi về lại trái đất… 

nhìn quanh quất, vội vã bước trở lại trong tranh để: 

… Diễn tiếp 

Hỡi thế gian 

Ta. 

Bỏ cuộc chơi. 

(Đầu hàng). 

Trong tranh, Lê Chiều Giang có lúc như ngựa chứng, tóc bờm tung bay phi nước đại, cổ vươn cao ngoằng hí vang, dưới bóng trăng huyền hoặc lẫn bóng tối u mê giữa ngàn lá biếc. Sự cách điệu không hài hòa làm cho gương mặt có sắc sáng như trăng, lại thêm chút bóng tối của u mê. “Mắt tôi xếch và sắc như kiếm dao, bướng bỉnh đầy ngạo mạn, điểm thêm với miệng cười khinh bạc”. 

“Chút khinh bạc, không biết bao lần đã nương bên tôi, đứng thẳng cùng tôi giữa đất trời, bên một dòng đời vô cùng nghiệt ngã…”(Lê Chiều Giang). 

Giờ thì tôi hiểu có một hôm nào, Lê Chiều Giang đã gởi tặng Đỗ Nghê bài thơ Thiền giả: Ta đảo điên. Ta bất chấp. Ta bới tung…Ta quăng kiếm. Ta bẻ gươm. Ta nằm im. Ta giả chết… Toàn là hư chiêu hết đó thôi nhe! Đừng vội tưởng thiệt. 

Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi 

Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya 

Bay trên cao mà nhớ 

Bước chân đi… 

Sấp ngửa lưng trời. Ta 

Tĩnh tâm 

Ta. Thiền định 

Thì ra, đã là Sa Di Ni… từ lúc nào không biết. Cứ tưởng ngổ ngáo, ngang tàng, chọc trời khuấy nước… ai ngờ vẫn đắm chìm trong một cõi vời vợi, xa xăm… 

Thiền Giả

Như đệ tử Kim Dung. Múa 

trên đầu kiếm sắc 

Ta đảo điên. 

Ta bất chấp. Ta 

Bới tung… Chẳng hiểu ra 

đời. 

Đã rất bao dung 

Rất nương nhẹ 

Để ta còn sống sót 

Khi thất bại 

Ta biết vờ đợi chết 

Giả nằm im. Nghe 

trái đất ngả nghiêng 

Quá thấm đòn 

Ta quăng kiếm 

Ta bẻ gươm 

Cũng biết thân. Ta ngồi im 

Góc tối 

Chợt nghe xa xăm như có ngàn tiếng gọi 

Gió âm u, gió lồng lộng rừng khuya 

Bay trên cao mà nhớ 

Bước chân đi… 

Sấp ngửa lưng trời. Ta 

Tĩnh tâm 

Ta. Thiền định 

Cứ tưởng ngang tàng bướng bỉnh, “giang hồ mê chơi quên quê hương”, ai dè mới nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà, đã thút thít. Phải chi có một ông Bụt hiện ra hỏi: Sao con khóc? 

Ta như đêm mịt mù 

Giữa trùng trùng duyên khởi. 

Quanh một vòng trái đất 

Thèm trở lại chốn xưa 

Ngồi bên hè phố cũ

Tỉ tê. Khóc. Nhớ nhà. 

Thì ra là một nỗi oan. Không ai thấu hiểu. 

Buồn ngang xương. Để 

Thất thoát niềm vui 

Tìm nghĩa lý trong điều 

Không ai hiểu. (Vỡ nợ) 

Có những nỗi oan 

Tính viết lời chống đỡ 

Mà mực khô, mà 

Ý cạn. Tay run. (Tịnh khẩu) 

Mổ trái tim xem: 

Không gì trong đó 

Mở đôi bàn tay: 

Những thứ chẳng còn. (Lâm chung) 

Đọc Lê Chiều Giang mà thương hơn cho một nhan sắc, một tính cách, một người sống với cõi đầy thơ… Để có những buổi “chiều buông trên dòng sông cuốn mau…” 

Để rồi, nhận ra cõi vô lượng tâm: 

“Bể sầu không nhiều, nhưng cũng đủ yêu…” 

(Chiều về trên sông, Phạm Duy) 

(*) trên sông khói sóng cho buồn lòng ai…(Tản Đà, dịch Hoàng Hạc Lâu).

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH 

thơ rắc bùa hương

Khi viết xong bài thơ 

Đôi khi. Tôi khóc 

Có phải vì lời đã nói về nước mắt 

Trong lòng đêm ma mị 

Khi viết xong bài thơ 

Tôi thường hay xóa 

Dường như tôi sợ bóng tôi 

Giãy chết giữa những con chữ đói 

Khi chấm hết bài thơ 

Tôi hụt hẫng. Như chưa thể xong lời 

Là bởi, bài thơ tưởng “hoàn tất” kia vẫn giữ mong manh những con chữ đói, giữ những từ đợi chờ, nên thi sĩ chẳng bao giờ hoàn tất nổi một bài thơ. 

Sau một vụ mùa 

Tôi chỉ đem về được đôi ba hạt lúa chín 

Chút mầu vàng của nó lấp lánh trên tay 

Bài thơ hoàn tất. Là một điểm hẹn quyến rũ 

Nhưng phút mong manh giữa những từ 

Là lúc đóa hoa đang nở. 

Đang tỏa hương 

Tôi có gì đâu phải vội 

Cho nên “Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự…” 

Hãy nghe thi sĩ nói những lời tình tự bằng lời ma mị, bằng thứ bùa mê, thuốc lú với những con chữ đói như thế nào 

Tình Yêu 

Trong nét vẽ dịu dàng của vòng ôm 

Tôi chiếc lá cong

 Âm thanh mềm một vũ khúc 

Quyến rũ mầu đêm phủ 

Tôi bờ đất ấm 

Nghe từng hạt cát hòa âm 

Âm thanh đi tới 

Âm thanh của hòa tan… 

Nhưng tình yêu không chỉ là đôi lứa, là vòng ôm là vũ khúc là hoà âm, mà tình yêu còn là đồng lúa chín vàng, là con tầu chở chuyên hội ngộ, là tiếng cửa reo sum vầy, là bếp ấm báo tin no đủ… Là nỗi ước mơ một ngày nào đó trong cõi chiêm bao 

… Tôi sẽ thắp ánh sáng của sao hôm không có nước mắt chiều phai, của sao mai hẹn về khung trời đang mở nắng. Tôi sẽ treo trước cửa sổ phòng người tiếng hót một loài chim sớm đánh thức ngày vui. Tôi sẽ kéo tấm rèm chở che một điều đang bắt đầu trong khép lại một ngày ơn phước, nếu có tìm tôi… 

Tôi biết. Tôi sẽ được cất tiếng. Trong mùa thơ quyến dụ ấy với ngôn ngữ tình nhân. Ngôn ngữ tôi nghe một lần trong xứ sở chiêm bao. Khoảnh khắc giấc mơ tôi thực sống… 

Cơn bão rớt sẽ đến rồi sẽ qua. Và, chỉ cần có thế: “me tôi ngồi may áo, bên cây đèn dầu hao, cha tôi ngồi xem báo, tôi nghe tiếng còi tàu… “(Phạm Duy). 

Phải rồi, chỉ có ở đó, người ta mới có thể … “có tiếng chim trao lòng tin cậy; có bờ vai nương tựa sớm hôm; có những ánh mắt sao trời thơ trẻ”; và đôi cánh bay lên những ước mơ đằm thắm ngọt ngào của người thi sĩ, luôn nhắc nhở mình “đừng như bóng mây tan”. 

Phải rồi. Chỉ ở đó mới có tiếng reo vui Tat-bà-ha của Tâm kinh Bát nhã khi thấy biết “ngũ uẩn giai không/ độ nhất thiết khổ ách”. Bát nhã (Prajnã) là cái nhận thức có trước nhận thức, là cái trí tuệ có trước trí tuệ, không đếm đo, toan tính, nó vậy là nó vậy. Và chỉ ở đó, người ta mới thực sự hồn nhiên, thực sự reo vui: Tát-bà-ha! 

Tiếng chim ríu rít mách tôi sự trong trẻo ban mai trao lòng tin cậy. 

Bóng đêm mở nỗi sợ cho tôi tìm ra ánh sáng bờ vai nương tựa.

Những vì sao tặng tôi cách nhìn ngây thơ trong sáng. Gió cho tôi đôi cánh và đường bay mơ ước con người. Bóng mây tan nhắc tôi mỗi phút giây ở lại bên mình yêu dấu. Tiếng cười bé thơ cho tôi nghe reo vui lời tâm kinh bát nhã. (Khoảnh khắc giấc mơ) 

Cảm xúc với tranh Những Con Chim Ngược Gió của Họa Sĩ Đinh Cường, Khánh Minh viết, những bùa hương: Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh 

Bảng pha mầu lấm lem ngày tháng bụi 

Tiếng cọ ngày xưa thở ngoài khung tranh 

Trời đóng lại. Một đường đêm thăm thẳm 

Ai đi qua. Vệt mầu bạc thếch 

Sông thời gian đặc quánh ảnh hình 

Vừa quay lại đã muôn trùng đá lạnh 

Và gió, một mùi hương nồng nặc bùa mê trên sợi tóc vai người 

Bay đi. Bay đi. 

Bay qua dải thiên hà buồn bã kia. Mà về. 

Trên vai người sợi tóc thơm hương tinh tú. 

Tôi nhóm lên một ngọn lửa 

Gió thổi tắt đi 

Tôi nhóm lên một ngọn lửa nữa 

Gió lại thổi tắt đi 

Khi tôi không còn hy vọng 

Thì gió 

Lại làm những que tàn kia bắt lửa… 

 Đừng quên, chính những bùi nhùi năm tháng kia, không mất đi đâu, chỉ ủ một mùi hương chờ đợi ngọn gió từ cõi xa kia bùng thổi. Cho nên người thơ viết: Nên tôi quý những điều tôi đã nhận/ Nên tôi tận lòng với những điều đang ở. 

Còn có cách nào hơn là “mở con đường trú ngụ hơi thở tịch lặng” – Anapanasati- ở đó, hiện tại là sát-na mênh mông không ngằn mé. Và chỉ ở đó: 

Trong sáng láng ấy tôi đã gặp nhà thơ Mặt Trời. Lồng lộng nắng phương đông, chắt chiu hết tinh khôi nhân ái rắc xuống cánh đồng thơ diễm ảo. Tôi thức giấc từ lời hát của một bông cỏ dại người ban tặng và mảnh vỡ trái tim tôi thành những hạt pha lê được nuôi sáng bằng lời thơ dâng hiến… 

Và một khi đã thấy biết (tri kiến) như thế, khi đã reo vui như thế, thì người ta sống với yêu thương, sống trong yêu thương, sống vì yêu thương: 

Yêu thương nhé” “nói cùng lá cứ sống hết mình xanh”, “yêu thương ơi xin thức dậy cùng người…” “yêu thương ơi khoảnh khắc xum vầy đơn sơ thế xin một lần được cất cánh bay”. 

Rồi tự dặn với lòng: “yêu thương ơi chút lòng riêng xin chắt chiu nghe… “Cho dẫu chiều rồi phai nắng…” (Yêu thương ơi) 

Nếu có tìm tôi. Xin trông chờ mảnh sáng sao băng. Nếu có tìm tôi xin hát bằng nhịp tim bổng trầm lời tình tự… Nếu có tìm tôi. Xin theo dấu sáng đom đóm quyện hương bờ dậu quê nhà. (…). Cho tôi đôi cánh hoa bay về miền đồng lúa chín vàng. Ngôi làng không bận lòng gì hơn là sống bình yên. Có con tầu đi về chở chuyên hội ngộ. Mỗi tiếng cửa mở ra là một tiếng reo sum vầy. Mỗi bếp lửa là mỗi báo tin mùa màng no đủ. Nếu có tìm tôi…Trên bước gió mở ngàn khơi nơi cuối cùng là phương Đông ấm một mặt trời… (Khoảnh khắc giấc mơ). 

Hoang mang thế nhưng rồi, như một nhà thơ từng viết: Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy! Khánh Minh thì “Tôi đi tìm những trang bản thảo, mảnh đất tị nạn bình yên của tôi. Nơi có trò chơi trốn tìm dưới ánh chớp những chùm sao đang va vào nhau vang dội. Âm thanh ẩn mật là chiếc chìa khóa cuối cùng tôi phải mở, cõi thách thức cảm xúc phục sinh. 

 Tôi nhặt được một trang bản thảo lem luốc đầy vết xóa và tôi nghe tiếng tim mình còn hồi hộp đập…” (Trong cơn bệnh). 

Phải, “Còn hồi hộp đập” nghĩa là còn sẽ nhặt nhạnh thêm. 

“Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh” thôi mà! Phải không? 

Đỗ Hồng Ngọc 

(Saigon, 30.10.2024)