Tiểu thuyết của Nguyễn Viện: Những khoảng tối có ma (Kỳ 1)

Nhà văn Nguyễn Viện, họa sĩ Bảo Huân vẽ theo ảnh chụp của Phùng Thương

Một gã râu xồm đi ngang trước mặt, đầy mùi cứt chó. Choàng tỉnh giữa lúc vừa ngủ gật, tôi vội gọi giật, “Ông kia, trả lại tôi cái chữ.”

Hắn đứng lại. Một tay sờ râu, một tay vẫn còn trong túi quần, hắn nhìn tôi, “Mày bảo cái gì?” 

Tôi nhắc lại, “Trả tôi cái chữ.” 

Hắn nhìn tôi từ đầu xuống chân, “À, tao biết rồi, mày về nhà hỏi mẹ mày nhé”. 

Tôi bảo, “Mẹ tôi chết rồi.” 

“Thế thì hỏi bố mày đi.” Hắn nói. 

Tôi bảo, “Bố tôi cũng chết rồi.”

Hắn ra chiều ái ngại, “Thế thì chắc chắn con mẹ hàng xóm nó lấy của mày.”

Tôi bắt đầu nghi ngờ thằng đểu giả này, “Tôi không có hàng xóm.” Nhưng dẫu sao, tôi cũng phải cám ơn sự kiên nhẫn của hắn. 

Hắn hỏi lại, “Thế mày nghĩ tao là ai?” 

Tôi trả lời không đắn đo, “Ông là chủ tịch, ông vĩ đại, đừng dối gạt tôi.”

Thằng cha được gọi là chủ tịch và vĩ đại cười ha hả. Nhìn hắn, tôi cũng buồn cười. Tôi cười theo. Mấy con chó vẫn ỉa trong công viên ngơ ngác đứng ngó. 

Gã râu xồm ngồi xuống một đầu ghế, đốt điếu thuốc. 

Tôi bảo, “Ông lấy của tôi làm gì mấy thứ đó. Nó có đáng gì đâu.” 

Hắn nhả khói, “Nếu mày muốn tìm nó, cái thứ chẳng đáng gì ấy, cứ đi theo tao.” 

Nói xong, hắn bỏ đi. Nhưng tôi đâu có ngu, tại sao tôi lại phải đi theo hắn, cho dù hắn là chủ tịch hay vĩ đại? 

Khi hắn đã đi khuất, tôi vẫn lầm bầm, “Toàn bọn chó đẻ.”

Tối qua, tôi ngồi cà phê với hai ông bạn họa sĩ trên một bờ sông, sau khi đã nhậu hết mấy chai bia, nửa con vịt nấu chao và một dĩa heo ba rọi nướng riềng mẻ, ở một quán khác. Một ông họa sĩ vừa có cuộc triển lãm tranh, bảo tàng mỹ thuật mua ba bức, mọi chuyện dễ dàng ngoại trừ một chi tiết chẳng biết khóc hay nên cười, anh đành cho qua như một cái tắc lưỡi. Họ yêu cầu anh đổi cái tựa “Ra khỏi bóng tối” của một bức tranh. Các quan chức mua tranh bảo, “Ông muốn ra khỏi cái gì cũng được, nhưng chúng tôi thì không thể “ra khỏi bóng tối”, mong ông thông cảm.” 

Người bạn họa sĩ vì cần tiền, nói “Thế thì quí ông muốn ra khỏi cái gì thì ra, tôi đã ra khỏi bóng tối rồi, tôi không quan tâm nữa.”

Vì thế, trong hợp đồng mua bán, tựa bức tranh được sửa lại là “Ra khỏi nỗi buồn”.

Kể câu chuyện xong, người bạn tợp miếng nước trà, không bàn luận gì thêm. Nhưng tôi ngứa mồm, bảo “Nếu là tôi thì tôi sẽ thay tên cho bức tranh là “Ra khỏi cái lồn”, tuy cũng nhạy cảm nhưng phi chính trị. Nghe vừa sướng vừa an toàn.” Giống như đeo bao cao su. 

Không ai phụ họa hay cười cợt, bởi vì ai cũng biết đấy là một câu nói đùa thiếu hiểu biết, ở đất nước này, trong văn chương hay nghệ thuật lưu trữ của nhà nước “cái lồn” không tồn tại, cho dù đó là phần không thể thiếu của cuộc sống. 

Nhớ lại câu chuyện này, tôi tự hỏi, tôi đã đánh mất chữ gì? Cái lồn à? Không phải, cái lồn có phải của tôi đâu. Tự do à? Cũng không phải, vì tự do hay không là một ý thức hay trạng thái nội tại. Bản thể hay chữ “OM” thần thánh? Ồ, đấy là điều tôi không quan tâm. Quả thực, tôi không thể nhớ mình đã mất chữ gì, ở đâu, khi nào. Nếu không có nó tôi chết mất. Vì thế, gặp ai tôi cũng muốn hỏi như hỏi thượng đế, “Sao ông ăn cắp chữ của tôi?” 

Cũng ở bờ sông, sáng nay, tôi hỏi một ông nhạc sĩ, vốn có vài ca khúc được in trong một tuyển tập thơ văn nhạc họa của phong trào sinh viên tranh đấu trước 1975, “Ông theo cách mạng từ bao giờ?” 

Ông nhạc sĩ cảm thấy nhột sao đó, bảo “Tôi chưa làm Việt cộng ngày nào.”

“Ủa, thế hồi đó tụi nó hát bài của ông trong mấy cái giảng đường đại học là sao?” Tôi ngạc nhiên hỏi lại. 

Ổng nói, “Cũng tại bạn tôi, nó thấy hợp với phong trào tranh đấu thì cho anh em hát thôi.” 

Thì ra, một con người cách mạng tình cờ. 

Tôi lại hỏi, “Thế ông không cảm thấy bị đánh cắp à?” 

Ổng cười trừ. May mà ông bị đánh cắp, đời ông không sang chảnh, nhưng cũng thập phần bội hậu ơn cách mạng, ơn đảng. 

“Người bạn khác của tôi ở quê đã bị một thằng cha bên hội nhạc sĩ ngang nhiên chiếm đoạt một ca khúc bằng cách tự xưng mình là tác giả.” Ổng kể tiếp, “Thằng bạn tôi cũng chưa từng đi làm cách mạng ngày nào. Nhưng, nó cũng là người bị cướp công.”

Tôi vẫn nhớ cảm giác sởn người khi nghe những ca khúc tranh đấu được hát liến láu theo âm ngữ Trung Hoa vĩ đại vang vọng trên hành lang đại học. Cho đến giờ này, sau gần nửa thế kỷ, cuộc chiến tranh tương tàn và có màu sắc thời thượng của ý thức hệ, chủ nghĩa kết thúc, tôi chắc chắn rằng, không mấy người đã nhận ra mình bị đánh cắp. Cuộc sống vốn mập mờ, đứng trước những thách thức của lương tâm, con người thường né tránh tự vấn và coi sự tự vấn như một điều không cần thiết, để tiếp tục an cư trong mập mờ về chính sử lịch của mình. Sự mập mờ ấy giúp người ta thoải mái sống hai mặt, thỏa hiệp với cái ác và trâng tráo “nhân văn”. 

Ở giữa dòng sông, một cái phà lớn chở đá đang xoay vòng. Mặt nước êm ả và không khí dịu ngọt. Người bán vé số tới chào. Tôi mua hai tấm. Người bạn cũng mua. Tôi hỏi người bán vé số, “Ông có thấy thằng cha râu xồm, mặc áo đỏ, đi giày trắng đâu không?” 

Ông già bán vé số lắc đầu. 

Thật khả nghi, tôi thay đổi thái độ, nhìn thẳng vào mặt ông ta hỏi nghiêm nghị, “Ông có lấy cái chữ của tôi không?” với hy vọng sẽ bắt lọn được ông già này. 

Nhưng ông ta chỉ ú ớ. 

“Thế sao thằng cha râu xồm ở đâu cũng rêu rao rằng, ở đâu có người nghèo khổ, ở đấy có đấu tranh?” Tôi bắt bẻ. 

Ông già bán vé số có vẻ nổi quạu, mặt đỏ gay. Nhưng miệng ông ta cũng chỉ ú ớ.

A, thế này là ngộ nhận. Là Bùi Giáng. Là Albert Camus. Là Jean Paul Sartre. Nhất định lão là đồng đảng của mấy thằng ăn cắp. Người bán vé số bỏ đi. Tôi ngẩn ngơ một lúc, sao con người lại bỏ đi? 

Ở phía bên kia sông, cô gái viết trong tin nhắn “Kiếp này em lỡ yêu Chúa rồi. Hẹn anh kiếp sau, em sẽ làm quân vô đạo chỉ yêu anh và tôn thờ anh.” 

Không một ai cảm thấy đánh mất điều gì. Một cô gái khác viết, “Bác viết truyện đời cháu đi, nhưng đừng viết truyện 18+.” Thế thì hư vô quá. 

Buổi sáng chầm chậm như con phà chở đá nặng vẫn đang xoay vòng giữa dòng sông không biết để làm gì. 

Ở đâu đó vọng về tiếng vỗ của sóng biển đập vào ghềnh đá. Tôi cảm thấy người chao đảo, muốn ngã. Dạo sau này, ngoài huyết áp cao, tôi còn bị thiểu năng tuần hoàn não. Đôi khi, mất trí nhớ. Nhưng không phải vì thế, cảm giác bị đánh cắp điều gì đó càng ngày càng rõ rệt. Nó làm cho tôi trở nên thiếu thốn. Tuy nhiên tôi khẳng định, chưa bao giờ cái tôi của tôi bị đánh mất. Nó vẫn luôn đấy như chính nó. Một hiện hữu mang tên tôi. Bồn chồn. Những người bạn lần lượt về sớm. Mình tôi ngồi lại quán nhìn dòng sông mênh mang. Những mảng lục bình lớn trôi về ký ức thời chiến tranh. Những mảng lục bình giấu theo người lính đặc công du kích ôm mìn giật cầu. Những đêm nằm trong đồn bắn vu vơ vào bóng tối. Những truyền đơn chống Mỹ Ngụy dán ở gốc cây. Oanh kích tự do của phía bên này và pháo kích bừa bãi của phía bên kia. Những cuộc bầu cử dân chủ màu mè ở phía quốc gia và những bản án viết tay dán trên ngực nạn nhân bị chém đứt cổ bằng mã tấu của cách mạng. 

Người bạn nhắn tin, “Cô Th vừa bị bắt. Hình như điều 258.” Tôi lại cảm thấy như mình vừa bị lấy mất đi điều gì. 

Một người bán vé số khác đến. Đấy là một cô gái khá xinh. Hơi đen. Cô gái nói, “Xổ số chiều trúng.”

Tôi bảo, “Anh không thích trúng vé số, nhưng lại thích trúng em, phải làm sao?”

Cô gái bảo, “Dễ ẹt, anh cứ mua vé số, anh trúng số thì tức khắc sẽ trúng em, nếu anh muốn.” 

À, tôi hiểu. Cô gái tự định giá tiền tỉ. Tôi tự hỏi, không biết có bao nhiêu người chọc ghẹo cô mỗi ngày. Và cô có thích ai trong số đó? Tất nhiên, tôi sẽ phải mua vé số không phải hy vọng sẽ trúng được cô, nhưng tôi phải trả giá cho mấy câu nói đùa của mình, nếu không muốn trở thành vô duyên. Niềm vui nào cũng có giá của nó. Tôi nhận ra đây là một câu “triết lý” rẻ tiền. Ừ, rẻ tiền vẫn là một giá và cũng vẫn là một “triết lý”. Tôi nói cám ơn cô. Cô ta cười thật xinh. 

Tôi bảo, “Không biết nụ cười của em có phải là cái tôi đánh mất không?” 

“Em không biết.” 

“Tôi muốn đi tìm cái bị đánh mất.” 

Cô lại cười, tươi hơn, “Anh cứ đi theo em thế nào cũng thấy.” 

Okie, tôi trả tiền cà phê rồi đứng dậy đi theo cô. 

Giữ một khoảng cách khoảng mười thước để không là người hắc ám, đến khoảng trưa, tôi thấy tập vé số trên tay cô đã gần hết. Tôi hỏi, “Bữa trưa của em thế nào?”

“Ăn một dĩa cơm ở một lề đường nào đó.” 

“Hôm nay tôi mời em, được không?” 

“Vì anh đã đi theo em, nên cũng đáng được thưởng cho anh cái hân hạnh ấy.” 

Tôi cười, “Em vẫn đọc tiểu thuyết ngôn tình à?” 

“Tiền đâu mua sách.” 

Khi thấy một quán phở, tôi nói “Em ăn phở nhé.” 

Cô “Dạ”. 

Chúng tôi bước vào. 

Tôi nói, “Em ăn thêm hột gà nhé?” 

Cô gật đầu. 

Tôi không muốn hỏi bất cứ điều gì về gia cảnh cô. Tôi nhớ một người bạn, từng là người viết văn, làm báo đã chết. Như tôi biết, anh có nhiều mối tình với các cô bán hàng rong, vé số. Và tôi thích cách sống đó. Tôi không muốn bắt chước anh. Nhưng tôi không hiểu điều gì, cô bán vé số này đã lôi cuốn tôi. Có một chút gì đó truân chuyên trên khuôn mặt bí ẩn của cô. 

Tôi nói, “Anh muốn đi ăn trưa với em mỗi ngày.” 

Cô ái ngại, “Có phiền anh quá không?” 

“Không, tôi thích.” 

“Sao anh không ăn cơm nhà?” 

Tôi nói, “Anh lang thang cơ nhỡ.” 

Cô cười, “Xạo ke.” 

Tôi cố nghiêm nghị, “Thật đấy, không tin thì đi theo anh, biết liền.” 

Cô cười thật to, “Em không mắc lừa anh đâu.”

Tôi không thể và cũng không muốn mua hết xấp vé số còn lại của cô, vì thế, tôi bảo tôi phải về để cho cô đi bán tiếp. Tôi cũng hẹn cô, “Anh sẽ chờ em mỗi ngày ở quán cà phê đó, mình đi ăn trưa.” 

Cô nói cám ơn và ra khỏi quán phở. 

Tuy nhiên, cô không cho tôi nhiều cơ hội gần gũi. Một vài tuần cô mới ghé đến chỗ tôi cà phê và đi ăn với tôi. Tất nhiên, không chỉ có phở. Mỗi lần tôi biết thêm một chút về cô mà không phải gia cảnh. Đó là những câu nói đường đột, thông minh và một nỗi niềm sâu thẳm. Đôi khi tôi chới với vì những câu nói ấy, như thể cô đưa tôi lên núi cao và nhìn xuống. Giống như sự cám dỗ. 

Nhưng tôi cũng bị những cám dỗ khác.

Gặp cụ ông từng giữ một trọng trách trong quốc hội, tôi hỏi “Những quan chức và cả những đại biểu quốc hội trong chế độ này, theo anh, họ có ý thức làm chính trị không?” 

Ông nói, “Cũng cần phải định nghĩa lại nội hàm chính trị. Nếu hiểu chính trị theo ý của anh, tức là theo mô thức xã hội dân chủ Tây phương, tôi đoán thế, thì chắc chắn không. Thật ra, đại biểu quốc hội cũng chỉ là một chức vụ được phân công cũng như những chức vụ khác trong hệ thống công quyền. Họ chỉ có một ý thức phục vụ chế độ như một sự trung thành, an thân và kiếm chác.” 

“Anh cũng như họ không còn tin vào lý tưởng cách mạng?”

Ông nhìn tôi chăm chăm, không trả lời.

Tôi nói tiếp, “Đã có những nhân vật về hưu và phản tỉnh. Thế còn những người đương chức thì sao? Họ có âm thầm vận động cho một cuộc thay đổi?” 

Ông bảo, “Ngoại trừ một số ít đang nắm quyền bảo thủ để giữ ghế, đại đa số còn lại, tôi nghĩ họ đều lận dao găm trong người, sẵn sàng cho một cuộc tàn sát lẫn nhau. Sự thay đổi nếu có, cũng chỉ là một cuộc thanh toán, soán vị nhau.”

Tin trên Facebook, một người đàn ông vừa tự sát trong đồn công an bằng dây thun quần. 

Chúng tôi nhậu trong một quán thịt trừu, vắng. Ở tầng trệt, duy nhất có đám chúng tôi, những ông già bất lực với gái trẻ, thời cuộc và với chính mình. Những món ăn quen thuộc gồm bánh mì, pa-tê, thịt nguội, trừu nướng và tô xí quách. Những câu chuyện xưa cũ thời sinh viên. Tôi không thuộc vào hàng ngũ những người trong phong trào sinh viên tranh đấu nhưng hiểu niềm vui và cùng lúc, nỗi xót xa của họ. Dẫu sao nó cũng là một thời máu và nước mắt. Tất cả tuổi trẻ của họ, niềm tin của họ dành cho quê hương. Nhưng cái quê hương họ mơ tưởng, giờ đây dúm dó và bị xẻo thịt bởi chính những người đồng hành với họ. Họ bị phản bội? Bị lừa đảo? Tôi không thật sự biết họ cảm nhận thế nào về hiện trạng đất nước trong đó có sự góp phần của họ, nhưng tôi thích dùng từ sập bẫy. Như những nạn nhân. Quả thật, tôi chưa thấy ai phản tỉnh mà nhìn nhận họ chính là tác nhân của thực thể bi đát này. Vì thế, không có kẻ sám hối. Không có kẻ phủ nhận. Cái sai thuộc về kẻ khác. Tôi biết những con người trung kiên và tôi biết những kẻ giật dây tạo anh hùng, những kẻ đóng thế vai, dù rằng tất cả chỉ là những con rối trong một “cuộc chơi” được gọi là thời thế.

Một người bạn trước khi chết đã kịp tuyên bố bỏ đảng. Ông không phải là người sám hối, cũng không là người muốn xóa bàn làm lại, mà ông chỉ muốn sửa đổi. Tuy thế, đám tang ông vẫn được an ninh canh chừng cẩn thận. Họ kiểm soát từng lời phúng viếng và cướp đi những vòng hoa tang. Một người bạn khác bảo, nhận thức của người ta mỗi thời một khác, vì thế vấn đề không phải là sám hối mà hành động như thế nào? Tôi nhớ những lần anh em bạn bè xuống đường thuở nào, bất chấp lựu đạn cay, dùi cui và nhà tù. Và bây giờ, cũng những con người đó, nhiệt huyết chỉ còn là tiếng thở dài. Thậm chí, thờ ơ. Và hơn cả thờ ơ, họ chấp nhận mình là giun dế. 

Một số nhà hoạt động xã hội dân sự bị bắt cóc và câu lưu sau khi tiếp xúc với phái đoàn Liên minh châu Âu tìm hiểu về nhân quyền. Những người tranh đấu cho dân chủ đã phản ứng bằng một tuyên cáo phản đối cơ quan an ninh giữ người trái phép.

Sau một tuần, cô bé bán vé số gặp tôi lần thứ hai, cũng ở quán cà phê cũ khi đã gần trưa. Xấp vé số trên tay cô không còn nhiều, tuy nhiên tôi cũng chỉ mua năm tấm. Và tôi đứng dậy mời cô đi ăn cơm. Tôi nói, “Hôm nay dành cho em quyền chọn lựa.” 

“Em muốn ăn thử mì cay Hàn quốc.” 

Từ hôm hẹn cô, bữa nào đi uống cà phê tôi cũng mang theo hai nón bảo hiểm. Vì thế, tôi chở cô đi xa chút không khó khăn gì. Cũng may, tôi tìm được một quán ăn Hàn quốc trong vòng ba cây số. Tôi nói, “Mì cay đây.”

Chúng tôi vào quán. Tôi nhìn cô kỹ hơn. Tất nhiên, mặt cô không trang điểm, nhưng cô mặc một chiếc áo mới, màu đỏ. Tôi bảo, “Áo em đẹp và hợp.” 

Cô cười bẽn lẽn, “Em mới mua hôm qua. Có một ông khách trúng số, tặng em ít tiền.” 

Mì cay làm tôi ho sặc sụa. Vừa ăn tôi phải vừa uống nước cho đỡ cay. Cô nhìn tôi cười bối rối, “Em xin lỗi vì không biết anh ăn cay không được.” 

Tôi nói, “Không sao, cũng phải quen với cách ăn của em.” 

Nghe tôi nói, cô càng bối rối. “Tại sao phải quen với cách ăn của em?” Cô hỏi. 

Tôi hơi ngập ngừng, tôi không thích câu hỏi có phần truy sát đó, nhưng tôi vẫn nói, “Bởi vì anh không nghĩ đây là bữa ăn sau cùng với em.”

Cô cười. Có thể cô ngây thơ, hoặc giả vờ ngây thơ. Tuy nhiên, nụ cười tươi vui của cô làm tôi nhẹ lòng. Không dưng, tôi nghĩ có thể cô cũng đang đánh mất điều gì đó mà cô không biết. 

Trời bỗng đổ mưa. Nước từ trời xối xả, mù mịt. Cô hỏi bâng quơ “Không biết trời mưa có lâu không? Em vẫn còn nhiều quá.” 

Tôi ngạc nhiên, “Hồi nãy anh nhìn thấy trên tay em còn có mấy tờ thôi mà?” 

Cô cười buồn, “Còn cả đống trong túi nè.” Lắc lắc cái túi, cô nói thêm, “Đấy chỉ là chiêu để dụ khách mua thôi.” 

Tôi cười, “Nếu bữa nay em bị ế, thì tại trời, không phải anh.” 

Cô cũng cười, “Em đâu dám đổ tội cho anh. Anh không biết đâu, mỗi lần gặp anh xong, em đều hên lắm, bán vèo cái hết. Nhưng mỗi lần gặp anh, em ngại.” 

Tôi nói, “Nếu đúng thế, em phải gặp anh mỗi ngày chứ?” 

Cô bẽn lẽn, “Em sợ lắm.” 

Tôi hỏi, “Sao sợ?” 

“Không biết.” 

Rồi trời cũng tạnh. Tôi kêu tính tiền, và nói “Em đi trước đi.” 

Cô “Dạ” rồi đứng lên. 

Tôi nói “Chúc em may mắn.” 

“Cám ơn anh.”

Có một người vừa chết trong đồn công an được cho là do nhồi máu cơ tim. Nhưng khắp người ông ta đầy vết thâm tím. 

Kêu thêm một tô “cơm cháy vùng vịnh”, người bạn đặt câu hỏi “Tại sao người Việt không có khả năng tư duy độc lập?” 

Một người bạn khác đang còn dạy đại học bảo, “Có lẽ dân tộc ta quen với lối học từ chương, tôn sư trọng đạo một cách mù quáng, trung thành tín ngưỡng theo tinh thần Nho giáo, không dám phản biện thành ra mất tự tin. Chỉ biết và chỉ dám a dua tung hô. Điều đó dẫn đến mất khả năng tư duy độc lập. Phong kiến đã thế, chế độ Cộng sản đương thời còn hủy diệt luôn cả con người cá nhân. Hệ lụy của điều này sẽ còn lâu dài.” 

Tôi cảm nhận được rằng, nếu có một dân tộc tính, thì tính dân tộc của người Việt mang một bản chất nô lệ. 

Anh bạn nói tiếp, “Cả lịch sử của chúng ta chỉ là một anh học trò dốt.” 

Ở phía mây mù. Một cô bạn trẻ bảo, “Nếu anh vẫn viết như anh đang viết, anh sẽ không tìm thấy người đọc. Bởi vì đó không phải là điều họ quan tâm.” 

Vâng, tôi vẫn biết thế, chính trị và những hệ lụy của nó, trong môi trường sống của chúng ta, nó bị nhiễm độc đồng thời nó cũng là tử lộ cho mỗi cá nhân, nếu anh dấn thân vào nó. Và vì thế, người ta chấp nhận giao sinh mệnh của mình cho người khác, như một sự khôn ngoan ở đời. 

Lại mưa. Mưa kéo dài gần hai tiếng đồng hồ. Nước ngập mênh mông khắp thành phố. Dù không phải giờ cao điểm, nhưng xe cộ cũng kẹt cứng trên mọi nẻo đường. Lúc khoảng gần bốn giờ chiều, tôi thấy một người bán vé số cầm một xấp dày trên tay, vừa đi vừa khóc, kêu gào mọi người mua giúp cho bà. Tôi nghĩ đến cô bán vé số của mình, không biết cô đã bán hết chưa, hay cũng đang khóc ở một đoạn đường ngập nước nào đó. Tôi đang đứng giữa dòng xe cộ và tôi cũng đang bất lực vì chiếc xe đã tắt máy. Nước ngập nửa bánh xe. Khi dắt xe vào được sát lề, tôi không thấy người bán vé số đâu nữa. Tôi thầm cầu nguyện cho cô gái của tôi, mong cô không phải khóc. 

Tôi đã từng ở nơi không mưa, không nắng, không ngày, không đêm, không tiếng động. Nhưng bóng tối tràn ngập. Đó là phòng biệt giam dành cho tù chính trị. Chỉ có một lỗ nhỏ để đưa cơm vào, nằm sát đất. Tiếng trái tim tôi đập, tiếng tôi thở là những âm thanh duy nhất để tôi thấy sự sống. Tôi đã ở đó không biết bao nhiêu ngày. Thời gian chỉ là khoảng trống. Tôi luôn để tai nghe ngóng cho đến lúc tôi tưởng như thế giới ngoài kia cũng đã chết. Nhưng rồi bất chợt một ngày nọ tôi nghe mơ hồ có tiếng chân bước đi bên ngoài. Tôi tập trung lắng nghe, không phải tiếng chân của người đưa cơm. Tiếng chân đi tới một đoạn ngắn, rồi quay lại. Ba vòng. Không xa phòng tôi lắm. Một phụ nữ, tôi đoán thế. Ngày hôm sau, tôi lại nghe những bước chân ấy. Tôi quyết định nằm bẹp xuống, cố đưa cánh tay ra ngoài qua lỗ đưa cơm. Và tôi vẫy. Bước chân ấy quay lại. Một bàn tay nắm chặt tay tôi thật nhanh. Chỉ có thế. Tất cả lại im lặng. 

Tôi hỏi cô gái bán vé số, “Em đã từng nắm tay ai chưa?” 

Cô nói, “Em chỉ thích nắm tay má em thôi, nhưng má chết rồi.” 

Bất giác tôi cầm tay em, bóp nhẹ rồi buông ra. Không biết như thế cô có ngại không, nhưng tôi muốn chia sẻ mà tôi biết không một lời nói nào có thể thay thế được. Tôi cũng chợt hiểu, tiềm ẩn trong sự rắn rỏi của em là một nỗi chông chênh của kẻ không chỗ nương tựa. Nhưng tôi không thật sự biết, em có hay khóc không. Tôi ngập ngừng hỏi, “Sao mẹ chết?” 

“Má em bệnh, không có tiền mua thuốc.” 

Tôi lại hỏi, “Còn ba?” Cô lắc đầu không nói. Tôi cũng không dám hỏi tiếp. 

Dường như có ai đang rình rập. Một kẻ nào đó sẵn sàng xông ra từ sau một bức tường đứng trước mặt và nói mày không được đi lối này. Tao cứ đi thì mày làm gì tao? Tao đánh vỡ mặt mày. Tại sao tao lại không được quyền đi lối này? Vì mày không có quyền, thế thôi. Tao không có quyền, sao mày lại có quyền? Không những tao có quyền cấm mày, mà tao còn có quyền đánh mày nữa, thằng ngu ạ. 

Tôi kéo cô bé bán vé số rẽ sang bên kia đường, nói “Cần phải tìm những chỗ mới, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn.” 

Cô hỏi, “Cơ hội gì ạ?” 

Tôi nói, “Có thể em sẽ bán được nhiều hơn.” 

Cô bảo, “Hên xui thôi.” 

Tôi nghĩ, bọn cướp ở khắp nơi. Chúng giống như những con ma đói, cái gì lấy cắp được là chúng lấy, bất kể giá trị thế nào, bởi cướp bóc là một tất yếu cho sự hiện hữu của chúng. Tôi không còn gì để mất nữa, nhưng tôi lo sợ cho cô bé. Cô không quàng khăn đỏ, nhưng sự trong trắng của cô là một miếng mồi đáng khao khát nhất của bọn cướp, chúng nhuộm bẩn cuộc đời như một lẽ sống. 

Thêm một người trong số những người tôi biết thuộc phong trào sinh viên tranh đấu trước 1975 vừa chết. Anh vốn là quá khứ và chỉ gìn giữ quá khứ. Vì thế, hiện tại của anh chỉ là một cái xác không có linh hồn. Hôm nay, thể xác anh nằm xuống. Chấm dứt một bi kịch. Những người bạn anh, cũng là bạn tôi, đã không truy điệu anh như một nạn nhân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà tưởng niệm anh như chính quá khứ của anh, kẻ đã bị đánh cắp linh hồn. Họ gọi đó là sự trung thành, trung kiên. 

Tôi vẫn không hiểu nổi những trí thức, những người biết quí trọng tự do và phẩm giá con người lại có thể cho phép mình bó thân, tâm, trí tuệ vào trong một hệ thống kỷ luật của một đảng độc tài, độc tôn và tước bỏ hoàn toàn nhân phẩm, nhân quyền của mình. Tôi nghi ngờ tính cách trí thức, sự độc lập của tư duy và tự do hành động của những người theo đảng. Sự vong thân đến từ đâu: nỗi sợ hãi hay đặc quyền đặc lợi? Tôi hỏi những người bạn mình đang còn là đảng viên, mấy ổng nói khi tụi tôi vô đảng, nói chung ít quan tâm đến lý tưởng cộng sản, mà chính yếu là vì muốn “chống Mỹ cứu nước”, ai ngờ chống Mỹ xong thì nó đổ đốn ra vậy. Và cũng nói chung, cho dù được đúc khuôn xã hội chủ nghĩa miền Bắc hay vốn sống trong lòng chế độ tự do của miền Nam, thật kỳ lạ, họ không hề băn khoăn về bản chất độc tài cộng sản và chấp nhận một tình trạng vong thân ma mị, như tất yếu. 

Tôi cần phải ngủ. Ngủ để thấy một thế giới khác. Ngủ để hồi sinh hay ngủ để quên. Kiểu gì cũng phải ngủ. Tôi nhắm mắt. Tôi muốn chết đi. Tôi không muốn gì nữa. Nhưng rồi tôi cũng phải thức. Thực tại vẫn là cuộc sống. Hơi thở của tôi. Nhịp đập trái tim tôi. Tôi không thể tự chui sâu vào chính mình như một con ốc khép kín. Tôi cần bầu trời. Tôi cần núi. Cần biển. Cần một người đàn bà. Tôi cần tất cả mọi hệ lụy của cuộc đời này. Tôi cần tiền. Thiền sư cũng cần ăn. Triết gia cũng cần rượu. Tôi cần tất cả mọi thứ và tôi thiếu thốn mọi thứ. Tôi là một số phận trong muôn vàn số phận. 

Sau ngày 30.4.1975, chính quyền cách mạng cho đổi tiền thống nhất trên cả nước trong một hạn mức cào bằng sự nghèo khổ. Trơ trụi, không chỉ là một cảm xúc bị tước đoạt tất cả tài sản mà còn là trạng thái bị vặt lông trong một lò giết mổ gia súc. Đó là lần đầu tiên tôi cảm nhận được sức mạnh của một hệ thống quyền lực. Và càng về sau tôi càng cảm thấy tính chất cơ chế của nó chà xát lên cuộc sống con người, mỗi số phận như một hạt gạo trong cái cối xay. Sự suy tưởng trong cái cối đá trong lúc đang tan mới vô nghĩa làm sao. 

Cô sĩ quan an ninh quản lý văn nghệ sĩ nói với tôi, “Chúng ta nói chuyện hòa bình không chiến tranh nhé.” 

Tôi cười, “Có bao giờ tôi thích chiến tranh đâu.” 

Cô bảo, “Chú thì vậy, nhưng với cái ông bạn chú, cứ nói chuyện là chửi nhau.” 

Tôi bảo, “Càng vui chứ sao. Cả hai đều có cơ hội nâng cao tay nghề.” 

Cô cười vui vẻ. Đây là lần thứ hai cô làm việc với tôi. Lần trước trong đồn công an phường, lần này trong quán cà phê. Tôi bảo “Em vẫn đẹp.” 

Cô nói “Vẫn nhớ à?” 

Tôi bảo, “Gái đẹp thì không nên quên.” 

Cô nói thông cảm cho cô, đây là công việc. Tất nhiên, tôi biết tôi đang làm việc với nhân viên an ninh tư tưởng văn hóa. Tuy nhiên, cũng chẳng có luật hình sự nào qui định tôi không được tán tỉnh cô. Vì thế, trước khi ra về, tôi bảo “Cho anh nắm tay em.” 

Cô đưa tay cho tôi nắm. Tay cô mềm, không có vẻ gì là bàn tay cầm súng, sẵn sàng bắn vỡ đầu những ai chống đối chính quyền và bỏ tù người phản kháng. Tôi bóp mạnh bàn tay cô vì tôi không tin cô có thể cảm nhận được sự tinh tế của hai làn da chạm nhau. Vì thế, bàn tay còn lại tôi xoa nhẹ lên mu bàn tay cô. Trong một lúc, cái cảm giác bị sỉ nhục biến mất. Tôi muốn ôm cô để từ biệt, nhưng tôi ngừng lại, biết đâu lại chả nếm mùi Hane Makikomi của Judo. 

Tôi ngồi bên vỉa hè uống cà phê với mấy người bạn. Cô bé bán vé số của tôi thấp thoáng. Dường như cô biết tôi đang ở đây, nhưng cô chỉ lảng vảng từ xa. 

Từ xa, tôi nhìn thấy quá khứ của cô. Giữa mênh mông của Biển Hồ xứ Chùa Tháp, cha cô uống rượu say và đánh đập mẹ cô. Mẹ cô kêu gào, trong lúc cô co rúm dưới cuối thuyền. Gần như ngày nào cũng như thế, cho đến một ngày cô không nhìn thấy mẹ nữa. Mẹ cô đã nhảy xuống bao la tối tăm của Biển Hồ. Cô không biết mẹ cô đã chết hay đang lang bạt ở đâu đó. Đến lúc cô cũng bị đánh và bị hiếp, mỗi ngày. Cũng chẳng có gì ầm ĩ hay ghê gớm trong cái xóm thuyền chài lênh đênh này. Lợi dụng khi cha cô say xỉn, cô đã nhảy qua một ghe chở du khách quá giang vào bờ. Cô trốn về Việt Nam tìm họ hàng. Nhưng họ hàng cũng chỉ là hàng họ. Không ai giúp được cô. 

Nhìn gần, tôi thấy cô lẫn lộn với những người chung quanh đang rình rập tôi và những người bạn. 

Tôi bị mất cắp.

Có lẽ chưa bao giờ như hôm nay, con người lại bị soi mói đến thế. Nó đến từ khắp nơi, những con người được thuê mướn và ngay cả ở những tiện nghi cá nhân chúng ta đang sử dụng như điện thoại, máy tính và những công cụ tưởng như vô tri nhất. Cả thế giới này đang chống lại chúng ta. Không những “họ” kiểm soát từng người một, mà “họ” còn điều khiển chúng ta theo cách của một đám đông. 

Người bạn hiện vẫn đang là một quan chức văn nghệ, nói “Không một ai khi đã ở trong guồng máy cai trị này lại không phải là một con người hai mặt, trừ bọn không có não”. 

Đúng ý tôi. Tôi cười khoái trá rồi nói, “Tôi có ý định viết một tiểu thuyết về những con người đó. Những nhân vật điển hình cho lối sống hai mặt trong thời đại chúng ta.” 

Anh bạn bảo, “Tôi không có ý định làm ứng cử viên đâu nhé.” 

Những người bạn khác cũng cười. Họ góp ý, ông A được đấy, thằng cha ấy mâm nào cũng có mặt. Có người nói, ông B hay hơn, ông này hưởng hết lộc của chính quyền lại có tiếng thơm trong giới đấu tranh dân chủ. Người khác nói, ông C mới độc đáo, cả đời cúc cung tận tụy phục vụ chế độ, nhưng sắp chết lại bị chính quyền cho tế thần, trở thành kẻ đại diện cho mọi tội ác của cách mạng. 

Tôi nhớ đến chiếc ghe mà gia đình cô bé bán vé số lênh đênh trên mặt Biển Hồ. Trong khoảng không gian chật hẹp chỉ mấy bước chân, họ nhìn thấy gì ngoài chuyện cơm áo? Cô bé của tôi kể, nỗi ám ảnh cô nhất chỉ là những tiếng kêu rên của mẹ trong đêm. Cô không hiểu gì về chuyện đó cho đến sau khi cô bị người cha hiếp. Cô thương mẹ. Nhưng cô vẫn tự hỏi tại sao mẹ không mang cô theo? Với cô, cuộc sống không có lời đáp cho tất cả mọi bất hạnh của cô. 

Tôi vẫn thấy cô thấp thoáng bên những người đang rình rập tôi. Có thể, cô lại bị đánh cắp một lần nữa, theo cách ngọt ngào hơn. 

Những người bạn tôi vẫn hỉ hả và truy sát cuộc sống trên những ý niệm về sự ngay thẳng. Nhưng tôi chợt nhận ra, đường thẳng không phải là đường ngắn nhất giữa hai điểm. 

Và tôi cũng chợt thấy mình sợ mất cô gái nhỏ bán vé số kia biết bao. 

Tôi muốn đi tìm cô gái bé nhỏ của mình. Tôi muốn đến Biển Hồ. Tôi muốn đi hết các đường phố. 

Cuối buổi chiếu phim ra mắt của bà bạn, cô gái đến trước mặt tôi, gọi “Anh”. 

Tôi nhìn sững cô, “Xin lỗi, em là ai?” 

Cô gái không lớn hơn cô bé bán vé số bao nhiêu. Cô cười, “Anh không thể biết em là ai đâu.” 

Rồi cô cười giòn tan, hồn nhiên nhưng huyền hoặc như từ một thế giới nào khác vọng đến. Tôi nói, “Dù sao thì em cũng đang đứng đây, tôi không biết em là ai, nhưng em có thể cho tôi biết em muốn gì ở tôi?” 

Cô cười mỉm duyên dáng, “Em biết anh từ lâu, nhưng hôm nay mới gặp, em chỉ muốn chào anh thôi.” 

Tôi cũng cười, nhìn cô kỹ hơn, hàm răng cô không đều, nhưng nhờ thế, cô có duyên và sinh động hơn. Tôi nói, “Tôi cũng chào em và tôi muốn hơn thế.” 

Cô nhìn tôi chờ đợi. Tôi giang cánh tay, cô ngả người vào tôi. Tôi ôm cô và tôi cảm nhận được sự trao gởi của cô. Tôi biết, chúng tôi có thể đến với nhau như sự thân thuộc. 

Tôi hỏi, “Anh có thể gọi em là gì?” 

Cô nói, “Thì cứ là em như bao nhiêu em khác. Và cứ là cô ấy như bao cô khác, khi anh kể về em.” 

Cô ấy muốn trở thành vô danh hay cô ấy không muốn chiếm hữu và được chiếm hữu? Tôi không biết. Tôi cũng không biết, khi vô danh thì con người sẽ tận hưởng cuộc sống trọn vẹn, hạnh phúc hơn khi người ta mặc định về một danh xưng không? Sau này, khi đủ thân thiết với cô, tôi thấy mình may mắn như trúng số, một hạnh phúc bất chợt nhưng tràn đầy, cho dù cô không đẹp, không là hotgirl hay bất cứ một định vị xã hội nào. Một say đắm thuần khiết bởi tình yêu và tận hưởng nhục dục chan hòa tự nhiên như khí trời, cây cỏ. Niềm kiêu hãnh chính là được tận hiến cho nhau, vì nhau. Trong một lần yêu đương, tôi mắc đái, cô ấy bảo “để em uống cho”. Tôi đái vào miệng cô ấy, ngay trên giường. Cô bảo không ngon, nhưng em muốn được tôn sùng anh. Và tôi cũng tôn sùng cô như thế. Tôi tin rằng cô đã chứng ngộ được chính mình, như tôi. Tôi thấy biển, thấy núi, thấy hồng hoang và tôi tin cô ấy cũng thấy như tôi. Cô nghiện tôi như nghiện cao Sao Vàng. Tôi cần cô như cần một khoảng trời trong. 

Trên căn hộ tầng thứ 28 của cô ấy nhìn xuống biển và những mái nhà lô nhô, đám cây lữ thoa không ngừng trò chuyện. Chúng kể với nhau về những lần làm tình của cô chủ với người khách lạ, như những vị thần của Hy Lạp trên núi cao, loạn luân và cuồng bạo. Ngọn gió mang mùi tanh ẩm ướt của họ bay đi cùng với lời kể của đám lữ thoa thành những đám mây màu hường. Quả thật, trên tầng 28 của chung cư nhìn ra biển, tôi và cô ấy như những đám mây màu hường giữa lồng lộng gió. Bay đi.

Ngày sinh nhật cô, tôi mang đến một cây trang leo và đặt giữa đám lữ thoa. Ngay lập tức, cây trang leo tôi tặng cô đã biến thành lữ thoa và chúng trò chuyện với nhau như thể nó cũng biết rồi, biết tuốt mọi thể loại yêu đương của tôi. Có lẽ bọn lữ thoa này không có chuyện gì để hóng hớt ngoài chuyện yêu đương của tôi. 

“Em thích quà tặng của anh. Nhất là khi nhìn thấy nó lớn lên từng ngày, như tình yêu của anh dành cho em”, cô nói một cách sến sẩm và cười bẽn lẽn. 

Tôi bảo, “Anh thích sến khi yêu.” 

Có tiếng gõ cửa. Cô bảo “Anh im lặng nhé”. 

Cô mở cửa phòng ngủ bước ra. Tôi không nghe thấy gì ngoài cửa chính. Nhưng trong đầu tôi nghĩ ngay đến một anh bảo vệ chung cư hoặc một gã an ninh nào đó. Tôi nghe thấy cô lục lọi gì đó ngoài phòng khách. Lát sau, cô quay lại. Cô đứng giữa cửa phòng ngủ nhìn tôi. Rồi cô quì xuống, bò tới cuối giường. Cô liếm gan bàn chân tôi. 

Cô bảo, “Anh đứng dậy đi.” 

Tôi đứng dậy, cô kéo tôi ra phòng khách. Món ăn tôi thích đã được bày trên bàn. Thịt cừu nướng và khoai tây chiên, muối tiêu chanh. Cô nói “Quán quen, ăn cũng được.” 

Tôi uống chung ly bia với cô. Đám lữ thoa reo trong gió. Tôi vừa ăn thịt cừu vừa ăn thịt cô. 

Mỗi sáng, tôi vẫn ngồi cà phê bên bờ sông với các đồng chí lão thành cách mạng. Nhưng đã lâu, tôi chưa gặp lại cô bé bán vé số. Chẳng lẽ cô không muốn mang niềm may mắn đến cho tôi nữa? 

Gần trưa, tôi để lại dòng sông cho trời đất và đi bộ tới quán ăn. Giữa đường, bất ngờ cô bé bán vé số xuất hiện. Cô nói, “Có một người lạ hỏi em tại sao đi ăn với anh?” 

Tôi hỏi lại, “Thế em trả lời sao?” 

Cô bảo, “Em nói, tôi thích thì tôi đi, được không?” Người lạ hỏi tiếp: “Rồi có đi đâu nữa không?” Em hỏi lại ông ấy: “Ông hỏi gì kỳ vậy?” 

Tôi cười thành tiếng, “Anh hiểu rồi”. Và tiếp, “Giờ em đi ăn với anh nữa không?”

Cô bé le lưỡi, “Thôi, em không dám đâu.” Ngừng một lúc, cô bảo “Em giữ cho anh khỏi nguy hiểm.” 

Rồi cô bất chợt rẽ ngang. 

Tôi đứng lại nhìn theo cô bé. Lòng chùng xuống. Tôi không nghĩ mình có thể mất cô bé theo cách ấy. 

Tôi bỏ bữa ăn trưa, đi bộ về nhà, dù không gần. 

(còn tiếp)

Nguyễn Viện