Tiểu thuyết của Nguyễn Viện: Sinh ra từ trứng (Kỳ 1)

Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam, phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
(Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Căn phòng tầng áp mái
Tôi nằm trên sàn nhà. Mùi ẩm mốc của thời gian sưng tấy trong cổ họng. Mỗi lần nuốt nước bọt, tôi phải ngửa cổ ra phía sau mới không bị vướng. Rất khó để nằm im. Và khi không thể nằm im, từng bộ phận của cơ thể đều muốn lên tiếng. Chúng tôi oải… Những bức tranh (*) nhìn xuống tôi. Có bức là chân dung tự họa. Có bức là một đám đông. Có bức là tĩnh vật hoa. Có bức là một cô gái. Có bức là những con cá ngựa… Qua những thời kỳ khác nhau, mỗi bức tranh mang một âm sắc khác, nhưng không tránh khỏi cái đồng nhất về sự nhu thuận với cuộc đời cam chịu. Mỗi khi xoay người hay nằm sấp, tôi thấy vị trí của những bức tranh thay đổi. Đôi khi tôi cũng có cảm giác mình bị treo lên. Chênh vênh. Như tranh.
Treo lên lưng chừng trời hay nằm sấp trên mặt đất thì can hệ gì. Số phận tôi chỉ là một con cá nằm trên thớt. Thi thoảng quẫy đạp vào khoảng không. Liệu có ai không phải là cá nằm trên thớt? Cả Đức Chúa Trời và nỗi sợ hãi vô hình đều ở khắp mọi nơi.
Không thể nuốt trôi được cái khát, tôi cầm cốc nước đổ xuống mặt sàn. Cành hoa, cô gái và cả những con cá ngựa đều nói “Cám ơn”. Chúng tôi khát. Một ông già và một bà già ngồi trên hai đầu của cái bập bênh bằng gỗ tếch trong công viên cũng thì thào “Chúng tôi khát”. Mặt đất khát.
Trung Hoa lục địa khát. Tôi nghe thấy tiếng ai nói dưới sân. “Chúng ta sẽ mất vĩnh viễn cửa ngõ bơi ra Thái Bình Dương”. Ồ chỉ là những con cá ngựa… Tao nhận ra chúng mày. Câm miệng lại. Đấy lại là tiếng nói của bức tường. Tôi chắc chắn thế. Nhưng tôi không thể đập vỡ bức tường. Môi hở răng lạnh. Chúng mày chỉ nên quanh quẩn trong ao làng là đủ. Đụ nhau chỉ cần đến thế.
Treo. Khát. Bức tường.
Tôi nằm giữa mông lung. Chán ốm. Và tất cả mọi cơ quan đoàn thể trong người có ý kiến. Không thể chịu nổi, tôi bò dậy nấu nước pha cà phê. Ở đất nước trồng và xuất khẩu cà phê nhất nhì thế giới này, kiếm được một ly cà phê thật, nguyên chất ngoài quán là không tưởng. Tôi nói với mấy con cá ngựa, cái gì cũng giả chỉ trừ chúng mày. Màu cà phê đen như nước cống. Cặn bã là một liên tưởng bệnh hoạn. Bạn có khỏe không? Đây lại là một liên tưởng khác. Mọi việc cứ để Đảng và nhà nước lo. Cám ơn, tôi khỏe. Suốt đêm qua không ngủ, không phải thức vì coi bóng đá (một bãi cứt), mà tôi muốn nuôi một cơn mộng.
Cơn mộng của tôi thế này:
Tôi xét hỏi chúng nó, những nhân vật trong tranh, chúng mày từ đâu đến và âm mưu gì? Đừng nói với tao rằng chúng mày tạo dựng cái đẹp hay nhân văn mả mẹ con tườu, con khỉ gì đó. Chúng mày nhận tiền của bọn nước ngoài? Chúng mày muốn diễn biến hòa bình hay tay sai thế lực thù địch?
Thành thật khai báo sẽ được khoan hồng.
Nhưng một khi các con đã lãnh nhận sự khoan hồng, các con sẽ không bao giờ có thể trở lại là mình như trước được nữa. Nó là một vết thương khác không bao giờ lành.
Đó là một buổi sáng. Tia nắng hắt qua cửa sổ chạm vào cô gái. Mắt cô chỉ là một khoảng tối. Cô cúi đầu nhẹ nhàng bảo em còn trinh. Em không đi biểu tình chống chính quyền hay nước lạ. Em cũng không lầm lũi khiếu kiện mặc dù em là dân oan. Đất nhà em đã bị cưỡng chế không còn nữa vì thế em tá túc trong bức tranh này. Dạ, em chỉ biết có vậy.
Đó là một ngày mưa. Những giọt nước đi từ rừng ra biển. Những con cá ngựa thở ra bọt nước, chúng tôi ngửi thấy mùi lá mục, nhưng chẳng có vấn đề gì. Bề nào chúng tôi cũng phải thở và làm tình. Bề nào chúng tôi cũng phải kiếm ăn. Chuyện con đực mang thai không phải là lỗi của chúng tôi. Những dòng máu loang trên biển không can dự gì đến số phận chúng tôi hay đại sự của thế giới. Chuyện tàu bè đâm nhau hay xây đảo chìm hoặc đảo nổi cũng chẳng làm xáo động gì đến cuộc sống chúng tôi. Tại sao lại nhốt chúng tôi vào bức tranh này?
Đó là một buổi chiều khi nắng đã tắt. Bông hoa buồn rầu bảo, tất cả mọi rắc rối đều do hai ông bà già ngồi trên cái bập bênh đó. Phần tôi, tôi đã buồn ngủ và tôi cần đi ngủ. Đừng quấy rầy tôi. Tôi không biết gì hết. Mặc dù tôi biết mọi rắc rối trên đời này chỉ vì không ai đẹp và thơm như tôi.
Người đàn ông không có tóc. Ông ta bảo “Không phải tôi bị hói, nhưng tôi đã nhổ chúng ra khỏi da đầu. Tôi muốn như người bẩm sinh không có tóc để không ai nắm được tóc tôi.”
Nhưng người đàn bà tin rằng bà đã bắt được ông. Trọn gói, linh hồn và thể xác. Có vẻ như việc này không liên can đến ai, nhưng sự tình có vẻ không liên can đến ai ấy lại làm xáo trộn cả không gian vốn đã nhỏ hẹp này trở nên chật cứng. Câm nín và vọng tưởng.
Ngày nào cũng như ngày nấy. Ngấy đến tận cổ.
Tôi nói với người đàn ông trong bộ quần áo màu xanh úa, “Hãy cứ để cho đàn bà tin điều họ muốn tin, nhất là điều ấy lại mang đến cho họ sự tự tin và bình an.”
Người đàn ông ngọ nguậy như muốn nhấc mông khỏi chiếc ghế màu xám cháy nói, “Không được đâu ông ơi, để cho đàn bà nắm được mình thì còn gì là đàn ông.”
Tôi bật cười, hỏi: “Sao thế? Cứ cho đấy là ngục tù, nhưng là một thứ ngục tù cần thiết, phải không?”
Người đàn ông nói: “Coi chừng nhầm lẫn, việc ông bị bắt ở tù ngoài ý muốn với việc ông tự nguyện lao vào mê lộ là hai việc rất khác nhau.” Sau một chút im lặng, người đàn ông nói thêm, “Tôi muốn nói đến sự điên cuồng ấy. Mà ông đã bao giờ điên cuồng chưa?”
“Tôi à? Tôi cũng không biết nữa, bởi vì tôi lúc nào cũng là một người bị treo lên.”
“Không hiểu lắm, nhưng tôi có thể thông cảm với ông.” Người đàn ông trên chiếc ghế gỗ nói. “Tôi tưởng chỉ những người không còn nữa mới bị treo lên.”
Tôi bảo: “Một cách nào đó, tôi cũng không còn nữa.”
Màu xanh chung quanh người đàn ông đã nhá nhem thành rêu. Người đàn bà ngồi ở đầu ghế còn lại nói: “Tôi đã mất hết chỉ vì người đàn ông này.”
Tôi an ủi bà ta: “Thế giới có thể không thuộc về chúng ta, nhưng ít nhất chúng ta vẫn có thể ngắm nhìn chúng. Và ở trong đó, như bà biết đấy, có tất cả những thứ chúng ta muốn.”
Người đàn bà nói như thể thầm thì: “Tôi không còn thời gian nữa.”
Tôi hỏi: “Vậy bà còn chờ đợi điều gì?”
Bà ta nói: “Một tình yêu đích thực.”
Người đàn ông có vẻ không chịu nổi, ông nói xen vào: “Viển vông.”
Tôi hỏi: “Sao lại viển vông?”
Người đàn ông chỉ ậm ừ: “Cái loại đàn bà sinh ra từ trứng ấy…”
Tôi hỏi một lần nữa: “Tại sao người ta lại có thể chết vì những điều viển vông?” Không ai trả lời.
Tôi lại nghĩ một cách viển vông về những niềm hy vọng của chính tôi.
Tôi cần sửa lại căn hộ này bởi nó đang muốn sập như một cách tự hủy vì một lý do sâu xa nào đó tôi không hiểu. Những bức tranh có lẽ cảm thấy điều ấy rõ hơn tôi. Chúng thường tỏ ra lo sợ khi tôi bước vào phòng. Trần nhà được làm bằng một thứ vữa xưa cũ mỗi ngày rơi rụng một chút đã lộ ra cốt gỗ. Loang lổ. Mọi thứ loang lổ. Nhưng làm sao tôi có thể sửa khi tôi không thể thương lượng được với những căn hộ chung quanh và với những qui định về bảo tồn của nhà nước. Bởi vì chúng tôi là di tích quốc gia.
Một nỗi bùi ngùi tràn ngập lòng tôi. Cuộc đời đang thoát ra khỏi tôi. Thế giới này làm bằng gì? Tôi không biết.
Đứa con ngoại hôn
Thật ra, tôi chỉ nhìn thấy bà ta từ bức tranh lụa “Chơi ô ăn quan” của Nguyễn Phan Chánh vẽ năm 1931. Khi ấy, bà còn là một cô gái nhỏ, con của bóng tối và được một gia đình địa chủ cưu mang. Nhưng như tôi biết chính xác đó là đứa con ngoại hôn của lão phú hào với một cô gái trong huyền sử. Bà đẹp, trong thời kỳ rực rỡ của nền văn học nghệ thuật lãng mạn những năm trước 1945, cũng là những năm huy hoàng nhất của đời bà, sắc đẹp và sự nền nã Đông phương của bà được ca ngợi bởi hầu hết các nghệ sĩ từng biết đến bà. Cũng vì ảnh hưởng của thời kỳ lãng mạn đó, bà từ chối lời cầu hôn của một ông quan đã có vợ để đi theo một anh họa sĩ nghèo. Còn anh họa sĩ nghèo của bà cũng có một niềm lãng mạn khác, không phải làm cách mạng mà phục vụ cách mạng, vì chàng không có nhu cầu tự thân cho một cuộc nổi loạn nghệ thuật. Tình yêu của họ không vì thế mà mất đẹp, nhưng nghệ thuật của chàng như con chim chỉ mọc có một cánh, đã không bao giờ bay lên như tài năng bẩm sinh của chàng có thể cho phép. Sắc đẹp của nàng, tiếc thay, cũng lụi tàn theo thời gian. Trong tận cùng của nỗi khao khát trường cửu, nàng thất vọng cũng như tất cả những phụ nữ đẹp nhìn thấy tàn phai trong từng phần nhỏ nhoi của cơ thể. Niềm kiêu hãnh và sự vĩ đại của nhan sắc đã không có cơ hội được bộc lộ và xiển dương. Đôi khi nàng tự hỏi, “Có phải mình sinh ra từ trứng?” Câu trả lời hẳn nhiên cũng không kết luận được điều gì, nhưng ít ra nó lý giải phần nào về cái sinh mệnh không ra gì của mình.
Năm 1955, cả bố mẹ nàng đều bị cách mạng giết trong cuộc cải cách ruộng đất. Một lần nữa, cái cảm thức về nguồn gốc sinh ra từ trứng của nàng trở nên sâu đậm hơn, nó nhấn chìm nàng vào sự mông lung nhân thế. Nó cũng tách rời nàng khỏi cái bản thể nối con người với niềm tin về một chốn quay về.
Bố mẹ chết. Nàng trở thành đứa trẻ mồ côi vĩnh viễn. Nhưng sự đơn độc không phải là phán quyết cuối cùng đối với cuộc đời nàng, mà nàng đón nhận được trong ngày tang tóc ấy, cái định mệnh từ xa xưa này: nàng cũng sẽ chỉ sinh ra trứng như huyền thoại về tổ tiên mình.
Tôi hoàn toàn tin rằng người ta có thể được sinh ra từ trứng cũng như đẻ ra trứng. Tôi cảm nhận được tính vô danh của con người trong câu chuyện này, vì thế tất cả các nhân vật đều không tên tuổi và họ thường bị lẫn lộn vào nhau bởi tính vô danh của nó, cũng có thể vì cuộc đời như tôi thấy, vốn chằng chịt vay mượn và lập lại, nhất là trong một giai đoạn lịch sử nào đó, con người cũng thường có những mảnh đời giống nhau như trong một vận mệnh chung, mà có thể họ vô tình hay cố ý tiếp nối và bổ sung cho nhau.
Người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ
Giờ đây, chỉ còn người đàn ông ngồi một mình trên băng ghế gỗ. Chỉ nhìn được từ phía sau, giữa màu xanh của cây cỏ và bầu trời, cái vật thể màu đỏ bằng nỉ mang dáng đàn ông nổi lên giống như một phiến đá nghịch thường, lặng lẽ. Cái bùi ngùi chảy từ tôi qua ông giữa buổi chiều cô quạnh. Không có ai hay bất cứ con vật nào như chó mèo quanh quẩn ở đấy. Tôi không biết ông ta nhìn gì ở phía trước. Có thể ông ta nhìn mà không nhìn. Mọi thứ đều có trong ông ta, trong bộ đồ nỉ đỏ đó như một nhà ảo thuật. Dù không nghĩ ông ta kiếm sống bằng nghề làm ảo thuật, nhưng tôi lại tin rằng ông ta có thể tạo ra được nhiều điều kỳ diệu như móc trong túi ra một cánh rừng, một đàn chim, hoặc thậm chí một người đàn bà…
Một không gian của hoài niệm dấy lên từ mặt đất những dấu chân mờ mịt giả định ông ta từ đâu đó, đi đến và ngồi xuống. Người họa sĩ đã vẽ ông như một hành trình, mặc dù chẳng có một hành trình nào. Ông ta đã ngồi xuống như một định mệnh, muôn thuở. Ở đó, ông ta hóa thân thành sự im lặng.
Sự im lặng không phải là không thể đối thoại.
Tôi nói từ phía sau lưng ông ta, “Tôi muốn được ngồi như ông và chết”.
Ông ta trả lời, “Xin mời, chẳng có gì ngăn cản ông…”. Giọng ông ta như một tiếng chuông khô cứng lạnh lẽo.
Chiếc ghế không có lưng dựa, tôi ngồi xuống phần đầu ghế còn lại và quay người về phía sau, ít ra tôi cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt mình để nói chuyện.
Một nỗi xao xuyến tràn ngập lòng tôi và tôi không biết nên mở lời như thế nào với ông ta. Đối thoại là một nhu cầu khẩn thiết nhưng vô ích, tôi tự nhủ. Khi ấy tôi thấy một đàn chim bay qua và những giấc mộng của con người lềnh bềnh cuối tầm mắt. Rồi tôi trở nên xa vời. Và sự xa lạ ấy làm tôi trở nên cùng quẩn, bối rối. Tôi nói mà cũng không nhất thiết để cho người đàn ông kia nghe, “Tôi không cảm thấy mất mát điều gì nhưng tôi quá bùi ngùi. Nếu như tôi có thể làm ảo thuật, tôi muốn móc từ trong túi ra một lọ kem bôi mặt, sau khi bôi xong tôi sẽ biến hình thành bất cứ một cái gì đó mà một ai đó muốn nhìn thấy.”
Người đàn ông nói mà không nhìn tôi, “Ông có khả năng để làm một họa sĩ.”
“Tôi không mong ước điều đó. Tôi chỉ muốn làm một trò chơi.” Tôi nói.
Ông ta hỏi, “Ông đã từng có ít nhất một người đàn bà chứ?”
“Không hẳn. Nhưng mơ tưởng thì nhiều.” Tôi thú nhận.
Người đàn ông nói, “Đàn bà là một trò chơi lớn.”
Tôi hỏi, “Sao ông không tiếp tục?”
“Thực ra, tôi vẫn chơi trò chơi ấy, cho dù người đàn bà đã bỏ đi.”
Tôi nói, “Thế thì bi kịch quá.”
Người đàn ông bảo, “Cái khoảng trống trên bức tranh mà ông thấy không có nghĩa là thiếu vắng nàng. Cũng không phải hoài niệm, nàng vẫn hiện hữu như một lý cớ cho sự tồn tại của tôi cũng như bức tranh.”
Tôi nói, “Xin lỗi không phải vì tò mò, tôi thật sự đau đớn khi không còn nhìn thấy nàng ở đây.”
Người đàn ông hình như mỉm cười, ông ta nói, “Chỉ là một trò chơi trốn tìm thôi.”
Tôi muốn nói như thế thì hơi trẻ con, nhưng tôi lại nói “Ông không buồn chứ?”
Người đàn ông bảo ông không còn biết thế nào là buồn hay vui. “Có lẽ điều này phải hỏi ông họa sĩ.”
Ông họa sĩ
Ông kéo cao cổ chiếc áo khoác dày che giấu một phần khuôn mặt. Không biết má ông hóp vì gầy ốm hay do miệng ngậm ống vố, khiến ông có vẻ khắc kỷ một cách rất “triết gia”. Đôi mắt liếc xéo, hai con ngươi lệch hẳn về phía bên phải dưới bờ trán thoáng có nếp nhăn lại giúp ông trông linh hoạt và nghệ sĩ. Khi ông cúi xuống bập một hơi thuốc, tôi không có cảm giác về một cái gì vừa bị mất đi. Không một hơi khói nào tỏa ra. Tuy nhiên, khuôn mặt ông dường như dịu lại.
Ngày nào tôi cũng gặp ông ở quán cà phê này. Tôi biết có những phác thảo đã hiện ra giữa cái ồn ào của một quán nước, nơi mà ai cũng muốn tỏ ra mình lịch lãm. Tôi không hề muốn làm quen hay nói chuyện với ông mặc dù ông không tỏ ra hợm hĩnh hay kiêu bạc như những thứ nghệ sĩ giẻ rách vẫn lăng quăng ở chỗ đông người. Tôi thích nhìn ông như thể ông là một tác phẩm do tôi sáng tạo hơn là chính bản thân ông. Bởi vì như thế tôi có thể suy đoán ông và làm chủ lấy mình. Nhưng sự thâm trầm nơi ông chỉ cho tôi thấy một quá khứ giông bão và có phần hiu hắt.
Tôi không biết giữa ông họa sĩ và người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ đã gặp nhau như thế nào, nhưng tôi hoàn toàn tin rằng cái không gian giữa họ phải là một màu vàng đất.
Căn phòng tầng áp mái
Tôi thích hai màu nâu đất nung và vàng đất. Tôi cũng thích gọi đó là màu quê nhà. Nồng nàn và buồn bã. Tôi ước ao có thể chìm đắm vào những cô gái mặc áo yếm hoặc cởi trần bên bờ giếng với chum vại màu đất nung và màu vàng đất. Bao giờ lòng tôi cũng đầy xót thương với những gam màu u buồn đó.
Tôi thấy tôi là đất.
Ông họa sĩ lên tiếng, “Nếu như có thể được, tôi cũng muốn mình là đất.”
Người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ nói, “Nhưng tại sao ông lại nhuộm đỏ tôi thế này?”
Ông họa sĩ thanh minh, “Đã có lúc tôi sợ. Vì thế tôi vẽ ông màu đỏ để người ta đừng nhầm lẫn về tôi. Nhưng tôi cũng còn một nỗi sợ khác lớn hơn, đó là sự phủ nhận chính mình, vì thế tôi đã đặt ông trong một không gian xám và trống rỗng.”
“Cũng có thể vì thế mà tôi không biết buồn hay vui chăng?”, người đàn ông nói.
“Tôi xin lỗi”, ông họa sĩ nói khẽ. “Bù lại, tôi cũng đã tặng ông một người đàn bà”, ông họa sĩ nói tiếp.
“Cũng chẳng ra làm sao.” Người đàn ông nói.
“Không phải đấy là một tình yêu sao?” Ông họa sĩ ngạc nhiên.
“Tốt nhất là ông cứ để tôi một mình.” Người đàn ông tỏ ra bực dọc.
“Thế cũng được. Tôi sẽ sửa chữa trong những lần sau.” Ông họa sĩ chấp nhận. Một hiện thực trần trụi, không có ngày mai.
Ông họa sĩ quay sang phía tôi, “Không có phụ nữ áo yếm hay cởi trần cho ông đâu. Cũng không có bờ giếng hay chum vại gì cả.”
Tôi nói, thật ra cái tôi cần là màu đất nung và màu vàng đất. Nhưng ông họa sĩ nói cũng không thể có những gam màu ủ dột đó được. “Tất cả phải tươi sáng, ông hiểu không?”
Tôi hiểu đó là một bi kịch thời đại, không một nghệ sĩ nào thoát khỏi ám ảnh mất lập trường quan điểm, nếu muốn được lộ diện trước công chúng. Tôi để nỗi u buồn của tôi vào những chiếc lu sành mà tôi mua ở làng gốm Nguyệt Lãng. Chẳng ai cấm được màu đất nung nồng nàn và buồn bã trên những cái lu, chậu trong vườn nhà tôi.
Người đàn ông nói, “Tôi muốn đứng lên.”
Ông họa sĩ bảo, “Tùy. Nhưng tốt nhất là đừng đi lại.” Và tôi thấy người đàn ông đứng lên, vặn vẹo trong không gian xám. Bất ngờ, ông ta cất bước. Sau mỗi bước chân ông, cỏ mọc lên, nhưng vẫn là màu xám. Ông họa sĩ hoảng hốt kêu lên, “Chết tôi rồi”. Cỏ màu xám mọc lan đến chân trời.
Và điều không tránh được đã xảy ra.
Tôi nghe thấy tiếng đập cửa. Rồi có người xô vào. Không phải một người. Họ đứng chen chúc trước cửa. Tôi nghe tiếng ồn ào, “Ở đây chứa chấp tội phạm”. Các bức tranh bị niêm phong. Ông họa sĩ bị dẫn đi.
Trong quán cà phê
Nhiều năm sau, tôi vẫn đến ngồi ở quán cà phê quen thuộc, không để tìm lại hình ảnh ông họa sĩ cao ngạo ngậm ống vố hay bất cứ điều gì, mà chỉ để giữ một thói quen như cái thành trì tối hậu của sự riêng tư. Trong khi ấy, ông họa sĩ vẫn bị dập vùi theo cách của một xã hội chuồng trại. Mọi tiêu chuẩn nhu yếu phẩm để sống của ông vốn dĩ chưa đủ cho ra một con người đã bị cắt hết. Ông bị vất ra đường trong sự tránh né của đồng nghiệp và đồng loại.
Ở quán cà phê, tôi gặp những người khệnh khạng, tuy họ không ngậm ống vố. Họ là những người biết tuốt. Cái gì cũng biết. Họ cũng là những anh hùng trong hàng quán. Chửi tuốt không chừa một ai. Và họ vô can trong mọi sự. Tôi ớn lạnh. Tôi cũng thực sự buồn nôn. Tôi tự hỏi, thế giới này làm bằng gì? Tôi không trả lời được.
Tôi lại bùi ngùi mất rồi. Cuộc đời đang tuột khỏi tôi.
Không biết tự khi nào, một cô gái lạ ngồi bên cạnh tôi. Cô nói, cô không muốn sống như cô đang sống. Cô gái trẻ đẹp, có phần quí phái.
Tôi hỏi, có phải cô chán cái nghề đi theo dõi người khác không?
Ồ, không. Cô nói, “Ông coi thường tôi.”
Tôi bảo, không dám.
Cô nói, “Tôi thích làm người mẫu hoặc đóng phim.”
Tôi bảo, tốt đấy.
Cô ta nói, “Tôi cũng thấy vậy, nó có thể cho tôi cái tôi muốn.”
Tôi hỏi: “Sao cô không làm chính trị? Quyền lực cho phép người ta làm bất cứ cái gì, hay nói một cách khác, quyền lực cho người ta mọi cái mà người ta muốn.”
Cô ta rụt vai, “Tôi sợ lắm.”
Tôi nói, “Làm chính trị cũng là một nghề mà. Cô sợ cái gì?”
Cô ta nhìn thẳng tôi, “Chắc là ông không sợ?”
À… à… Tôi cũng sợ. Nhưng tôi lại hỏi, “Có phải cô muốn sống khác như cô đang sống?”
Cô ta gật đầu.
Tôi bảo, thế thì chẳng có cách nào khác ngoài làm chính trị. Trong mô hình xã hội hiện nay, làm chính trị được coi là đồng nghĩa làm cách mạng. Nhưng đấy không phải là một trò đùa. Tôi không đùa với cô nữa, tôi nói có một cuộc cách mạng khác không phải đổ máu, không phải ngồi tù là hãy đi theo tôi, dẹp cái vụ người mẫu hay đóng phim đi.
Cô cười nắc nẻ, “Anh nói được đấy.”
Hằng ngày, tôi ngồi với cô.
Cô nói, “Em có thể đi bất cứ đâu mà không cần có tiền”. Thưa, tôi tin. “Em có thể chọn người đàn ông mà em muốn”. Thưa, tôi tin. “Nhưng em chọn anh”. Thưa, tôi tin. Cô nhìn tôi, không nói thêm. Tôi cười. Tôi đi tìm niềm vui. Nhưng cô không bao giờ đi khách sạn với tôi. Cô không bao giờ cho tôi bụp. Cô chọn tôi để làm gì? Cô nói, em muốn đi với anh đến mọi nơi anh vẫn đến, trừ khách sạn. Nhưng tôi bảo, khám phá lớn nhất về anh chỉ có thể tìm thấy trong khách sạn. Cô bảo, em chỉ muốn biết những bí mật nhỏ của anh thôi.
Bí mật nhỏ của tôi
Cô gái theo tôi về căn phòng tầng áp mái. Người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ bất chợt quay mặt lại, ông ta nhìn đăm đăm vào cô ấy. Có vẻ như họ quen nhau.
Cô gái nói: “Không ngờ lại gặp anh ở đây. Xin lỗi, tôi tưởng anh không còn nữa.”
Người đàn ông nói: “Tôi không chết. Tôi mãi mãi là hình mẫu đàn ông của cô.”
Cô gái nói: “Anh không biết xấu hổ à?”
Người đàn ông nói: “Thế mà người ta đã tạo ra tôi cho những người như cô đấy.”
“Đó chính là lý do khiến tôi phải bỏ đi, anh biết không?” Cô gái nói.
Người đàn ông quay mặt đi: “Cô đã thật sự thay đổi rồi sao?”
Cô gái: “Phải, tôi không thể chịu đựng nổi một khuôn mẫu duy nhất như anh. Nó hủy diệt tôi. Hủy diệt mọi ham muốn của tôi.”
Người đàn ông nói: “Không phải tôi đã lo lắng tất cả cho cô?”
Cô gái: “Và anh biến tôi thành một xác chết.”
Người đàn ông: “Tôi yêu xác chết đó.”
Bỗng tôi nghe dậy lên trong không trung tiếng ầm ì từ xa như tiếng sấm rồi rõ dần tiếng của một đám đông: “Chúng tôi yêu xác chết.”
Cô gái hốt hoảng nói với tôi: “Anh mau ra khỏi đây. Bọn giết người đến.”
Tôi không tin có bọn giết người kiểu hoang đường truyền khẩu. Trong lúc chưa kịp phản ứng gì, chung quanh tôi đã đầy người. Tất cả bọn họ đều mặc bộ đồ nỉ đỏ y như người đàn ông trong bức tranh trên tường. Họ không hiếp hay giết cô gái, nhưng họ xông vào tôi, xé bộ quần áo tôi đang mặc, rồi trùm vào tôi bộ đồ nỉ đỏ. “Tôi không muốn”, vừa nói tôi vừa cố giằng lại bộ quần áo cũ của mình. Vô ích. Họ đánh đập tôi.
Khi tỉnh lại, tôi đã là một người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ.
Từ ấy, tôi trở thành một người yêu xác chết. Tôi cần phải giết người, hoặc tôi phải tìm kiếm những tử thi.
Những người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ lôi kéo tôi vào những cuộc đàn áp như họ đã từng đàn áp tôi. Nhưng tôi không thể. Tôi đứng nhìn. Rồi tôi bị cô lập. Lạc lõng.
Khi đứng một mình, bộ đồ nỉ đỏ làm cho tôi trở thành tương phản với chính mình. Tôi vốn màu nâu đất và tôi thuộc về sự chết, nhưng tôi không giết người và không yêu xác chết. Những xác chết cần phải được đem chôn hoặc hỏa táng. Và quên đi.
Tôi nôn mửa hiện tại. Và yêu cuồng một tương lai bất định, nhưng cũng như những kẻ “chém gió” khác, tôi bất động và thủ dâm với một con cu bệnh hoạn, càng ngày càng teo tóp. Cô gái nói với tôi, “Anh không còn là người như em chờ đợi.” Tôi hỏi, “Em chờ đợi gì nơi anh?” Cô gái bảo, “Một cái gì khác.” Bộ đồ nỉ đỏ làm tôi khó thở, nó dán chặt vào da và càng ngày càng trở nên hôi hám. Tôi nói, “Tôi không thể.” Với bộ đồ nỉ đỏ, tôi giống như người đeo bao cao su toàn thân phòng hộ với cuộc làm tình giả tưởng. Tuy nhiên, trong tận cùng tôi, nỗi khao khát muốn hiếp cô vẫn nóng nẩy. Cô đẹp và đầy sức mạnh hủy diệt. Làm thế nào để tôi lột bỏ bộ đồ nỉ đỏ tù túng oan nghiệt đó? Một thứ bản năng nào giúp tôi trở nên thanh sạch?
Cô gái có mái tóc như một cánh rừng
Tóc cô quấn cao, búi lệch qua một bên. Lần đầu gặp, tôi cứ đinh ninh rằng cô tóc ngắn.
Cô nói: “Thật ra, tóc em rất dài và lúc nào cũng bồng.”
Tôi nói: “Thả xuống cho anh coi.”
Cô nghiêng đầu, tay gỡ búi tóc và thả xuống, rồi nhìn tôi cười. Mái tóc dài ngang lưng giống như bờm sư tử, che khuất cổ và bờ vai trần.
Tôi nói: “Nếu được chọn, anh thích em tóc ngắn. Khuôn mặt em sẽ rực rỡ hơn.” Tôi cũng muốn nói thêm, cổ em sẽ gợi cảm hơn, nhưng tôi ngần ngại.
Cô nói: “Cắt đi em tiếc lắm.”
Tôi nói: “Nếu muốn để tóc dài lại cũng được mà.” Nhưng cô chỉ cười. Vuốt ve mái tóc.
Cô nói: “Em yêu những cánh rừng.”
Tôi nghĩ, cô là một cánh rừng, mỗi ngày một rậm rạp thêm. Trong cánh rừng ấy, tôi không phải là một gã tiều phu. Tôi là một con thú nhỏ.
Cô lại nói tiếp: “Nhưng em chỉ là một sa mạc.”
Tôi không thích cô kiểu cách ăn nói làm dáng như thế. Nhưng tôi không thể không ví von cô như dòng sông, mỗi ngày một dài rộng thêm. Tôi là một con cá nhỏ.
Đối với cô, tôi lúc nào cũng như hồi tưởng. Cho dù tôi có ý thức hay không việc cô đã rũ bỏ người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ và để ông ta ngồi lại một mình trên chiếc ghế gỗ công viên màu nâu xám.
Cô nói, “Rũ bỏ quá khứ, không bao giờ là việc dễ dàng. Nhưng nếu không rũ bỏ nó, em sẽ không thể là con người tự do.”
Bản thân tôi, tôi cũng muốn sống như người không có quá khứ, nhưng trong thực tế, tôi là một kẻ lộn xộn về thời gian và xào xáo hiện thực. Vì thế, có lúc tôi tưởng như đã lột bỏ được bộ đồ nỉ đỏ khỏi thân mình và trần truồng trước cô gái. Nhưng tôi đã không đạt được bất cứ điều gì để cô gái có thể đến với tôi thuần khiết giống như tôi mong ước về cô.
Bọn chúng từ rừng ra.
Trong lúc tôi cố gắng giải tỏa mọi ngăn cách chướng ngại giữa hai chúng tôi thì bọn người mặc bộ đồ nỉ đỏ đã ập tới và đè tôi xuống. Bọn chúng vẽ lên người tôi những khẩu hiệu kêu gọi đoàn kết chống phá rừng. Không cho phép bất cứ thứ đoàn kết nào khác tồn tại ngoài đoàn kết với bọn chúng. Giống như bị đeo ngàm vào miệng, tôi nhất trí chống phá rừng.
Năm mươi con của người mẹ đẻ ra trứng vẫn ở trên rừng. Họ tin vào truyền thuyết và chờ đợi ngày dòng dõi ưu việt của họ tiếp tục được sinh ra từ trứng.
Căn phòng tầng áp mái
Để tuân thủ việc chống phá rừng, tôi chui về căn phòng tầng áp mái và trồng rừng trên mái nhà. Tôi trở thành kẻ ẩn nấp và âm mưu. Trên tất cả các bức tường nhà tôi bỗng đầy những bức tranh mô tả việc kết nạp Đảng. Từ kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ đến kết nạp tại các nhà máy, nông trường hoặc trong hầm mỏ… Cảm giác mình bị kết nạp vào một cái gì đó thật kinh khủng, tôi ớn lạnh toàn thân, giống như sắp bị một con ma ăn thịt. Tôi vừa tháo những bức tranh xuống vừa run. Xúc phạm thánh thần hay ma quỉ đều đáng sợ như nhau. Tôi không muốn bị ám ảnh về tình trạng mất linh hồn. Khi những bức tường đã trống, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, mặc dù tôi không biết phải làm gì với những bức tranh đó. Có thể tôi sẽ tìm một cái kho và bỏ vào đó tất cả mọi hệ lụy. Thời gian sẽ lãng quên.
Trước đó, tôi tìm thấy chân dung cô gái ngồi chống tay trên tấm phản, đôi vai nhô lên như lệch lạc, nhưng không làm mất đi vẻ dịu dàng thơ mộng của cô. Đôi mắt lá dăm xa vắng. Hiện tại không có tôi. Quá khứ phía sau lưng cô là một con ngựa gỗ, màu nâu. Bên cạnh cô, những búp sen hồng được ám thị như những dương vật thẳng đứng và gầy ốm. Cô mặc chiếc áo dài đen, tóc cô xõa ra thành rừng, âm u.
Tôi tiếp tục tìm thấy những cô gái khác trong vườn hoặc dưới trăng, nguyên sơ và đầy tính biểu tượng. Chỉ có trăng màu vàng chanh, còn lại vẫn là không gian màu xanh xám. Những mảng màu mạnh mẽ khỏa thân và biến tan. Cái tôi của tác giả bị che giấu. Bên dưới lập trường quan điểm về cái đẹp của tính bầy đàn, tôi nghe ra một giai điệu hoang mang, vô định.
Không có bất cứ điều gì để chia sẻ với các cô gái, nhưng lòng tôi lại tràn ngập lòng xót thương ông họa sĩ. Ông ấy phải chết. Cho dù cái chết không giải thoát ông khỏi gông cùm của sự áp đặt mượn danh con người, vốn chỉ là những hình mẫu không có linh hồn. Trong một bầu khí đầy âm tính được cường điệu hóa bởi sự hùng hổ của các khẩu hiệu nghệ thuật vị nhân sinh ấy, tôi cảm thấy mọi điều trở nên xa lạ, thù địch. Ngay cả căn phòng mà tôi vẫn ở xưa nay cũng khác, nó không còn là của tôi, mà thuộc về cái thế giới đang vây hãm tôi. “Kết nạp” trở thành một từ khủng khiếp với tôi giống như cái còng được liên tưởng cùng lúc bập vào hai cổ tay.
Linh hồn ông họa sĩ
Giống như Vương Thúy Kiều, ngay khi còn trẻ dại, ông đã trao cả linh hồn và thể xác cho thằng bán tơ. Khi ông nhận ra mình bị lừa phỉnh thì mọi thứ đã trở nên muộn màng. Linh hồn và thể xác ông bị phân thân không sao hòa nhập được. Ngay cả đến sau khi chết, linh hồn ông cũng không tìm được xác mình trong đất. Và cái linh hồn bơ vơ không chỗ trú thân ấy đành quay về với các bức tranh mà ông đã vẽ lúc sinh thời. Có nhiều đêm, tôi nghe tiếng linh hồn than khóc. Tôi không dám chắc về bất cứ nỗi niềm nào của ông, nhưng tôi vẫn chờ mong một lúc nào đó, ông sẽ chia sẻ với tôi, không phải với tư cách là tác giả của những bức tranh mà chỉ như một người thưởng ngoạn nghệ thuật, bất chợt kỳ ngộ.
Để chờ đợi ông, tôi ít khi ra khỏi nhà. Trong căn phòng tầng áp mái, những bức tranh tôi đã gỡ hết khung và treo sát vào nhau cho đủ chỗ. Và như thế, căn phòng đã trở thành nơi trú ẩn cho những nhân vật lạc loài tôi sưu tập được. Và không còn cách nào khác, linh hồn của những người trong tranh cũng như linh hồn của các tác giả và linh hồn tôi buộc phải nằm chồng đè lên nhau. Và sự vô hình của các linh hồn không làm mất đi những giới hạn, vì thế chúng tôi rất bực bội về sự chật chội, ngột thở của căn phòng, đặc biệt là mùi của cái gọi là hệ thống tỏa ra.
Và để giết thời gian, tôi chẳng biết làm gì hơn là trò chuyện với linh hồn những nhân vật trong tranh. Họ không phàn nàn, nhưng cũng chẳng ai trong số họ hài lòng về cái thế giới họ có mặt. Đôi khi, sự hiện hữu của họ chỉ là nhầm lẫn, họ cả quyết với tôi như thế. Việc họ không mấy tin vào tác giả đã tạo ra họ làm tôi ngạc nhiên nhất. Họ không nói về tài năng, nhưng họ cần sự thành tín. Theo họ, chỉ có sự thành tín mới có thể tạo ra sự sống hay sinh mệnh họ. Tiếc thay, họ chán nản nói, toàn bọn ngụy tín. Bởi thế, với cuộc đời, họ bất toàn và xa lạ, hoặc giả hình với ngay cả chính họ. Và điều ấy dằn vặt họ.
Tôi luôn có cảm giác như vô định trong sự chờ đợi này, vì vậy, tôi không tránh khỏi rơi vào trạng thái trầm uất, và bước hụt vào không gian. Tôi như kẻ sống ở bên ngoài cuộc đời thật cũng như vọng tưởng, như những nhân vật trong tranh. Nghệ sĩ có thể làm gì? Tôi tự hỏi. Họ có quyền làm tất cả mọi việc trong tự do không? Tôi biết đó là một câu hỏi thừa. Trong hệ thống độc trị, con người chỉ có thể sống an toàn trong sự trung thành ngoan ngoãn với người dẫn dắt (lúc nào cũng vĩ đại). Tự do bị đồng nghĩa với phản loạn, phản động. Để tồn tại, nghệ sĩ tự biến mình thành một loại thái giám của các vua chúa đương thời.
Linh hồn ông họa sĩ, nỗi u hoài của kẻ không chốn nương thân, ông có thể nói gì về tự do?
Chuyện kể của cô gái
Thoạt đầu, tôi không hề biết ông là họa sĩ, dù tôi vẫn thấy ông có gì đó khác biệt với những khách hàng khác thường đến nhậu ở chỗ tôi làm việc. Hầu như dân nhậu nào cũng hay nói và nói to, đặc biệt là các ngài nghệ sĩ, nhưng ông lại thường im lặng, nếu có nói, ông cũng nói rất nhỏ. Ông thường đến với một người bạn, sau này tôi biết đấy là một nhà văn. Có lần ông nói với tôi, “Em có vẻ đẹp của một nhân vật hội họa.” Tôi không hiểu vẻ đẹp ấy như thế nào. Ông nhà văn hỏi tôi, em có thể làm người mẫu cho bạn tôi vẽ không? Tôi hỏi làm người mẫu có khó không? Ông nhà văn nói, chỉ cần biết khát khao và kiên nhẫn một chút thôi. Tôi nói, tôi phải đi làm, không có lúc nào rảnh. Thế rồi, việc ấy cũng qua đi. Một lần, tôi thấy ông rất buồn. Ông uống nhiều, tôi muốn ngăn cản ông nhưng không dám nói. Ông say gục xuống bàn. Tôi lấy khăn nóng lau mặt cho ông. Ông đứng dậy không nổi. Người bạn đề nghị cho ông được nghỉ lại trong quán. Ông chủ đồng ý. Đêm ấy tôi cũng ngủ lại quán để dọn dẹp và săn sóc cho ông.
Sáng hôm sau thức dậy, ông tỏ ra áy náy và xin lỗi tôi. Ông mời tôi ăn sáng. Ông nói cho ông ghé qua nhà để làm vệ sinh. Trong lúc chờ ông, tôi ngồi uống cà phê. Khi trở lại, tay ông cầm một gói quà. Ông nói gọn lỏn, “Tặng em.” Tôi hỏi, “Em có thể mở ra xem được không?” Ông bảo, “Mở đi.” Đó là một chiếc áo len màu rêu rất đẹp. Tôi cám ơn ông và hỏi, “Ông còn có ý định mời em làm người mẫu không?” Ý tôi là sẽ mặc chiếc áo len đó cho ông vẽ. Ông bảo “Thôi, việc này cũng hơi phức tạp.” Tôi không hỏi thêm.
Rất lâu sau, ông lại mang đến tặng tôi một cái đồng hồ. Mặc dù, ông vẫn đến uống bia mỗi ngày như không có chuyện gì xảy ra. Hóa ra, ông chưa quên tôi. Ông nói với tôi, khi nào rảnh thì cho ông biết. Quả thật, tôi không lúc nào rảnh. Tôi đành phải xin phép ông chủ cho tôi nghỉ một buổi sáng với lý do đưa mẹ đi bệnh viện.
Sau khi ăn sáng, ông đề nghị tôi đến nhà ông, ông sẽ cho xem tranh ông vẽ. Tôi không nghi ngờ gì ông. Và tôi về nhà ông.
Đó chỉ là một căn phòng nhỏ, tầng áp mái. Tất cả những bức tranh trong nhà là hình tôi. Tôi không hiểu gì lắm, nhưng ngỡ ngàng và cảm động. Ông nói, “Anh quen sự có mặt của em. Về ở với anh nhé.” Tôi sung sướng gật đầu.
Đám cưới tôi chỉ là một bữa nhậu, sang hơn một chút so với ở quán tôi làm. Khoảng chục người bạn của anh tham dự. Tôi không mời ai ngoài ông chủ quán.
Tôi không đi làm nữa, mặc dù anh vẫn đi nhậu mỗi ngày.
Những lúc không có anh, tôi không biết làm gì ngoài việc ngắm nhìn những bức tranh. Những cô gái trong tranh xa lạ với tôi. Thế giới của tôi không phải là cái đẹp của sự mơ tưởng. Được gần nửa năm, tôi nói với người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ đang ngồi im lặng ở đâu kia của chiếc ghế gỗ trong công viên, “Có lẽ tôi phải đi. Tôi không muốn chờ đợi nữa.”
Tôi đi tìm những người đàn ông được sinh ra từ trứng.
Trong quán cà phê
Quả thật, cô có vẻ mặt rất hội họa và đầy trắc ẩn.
Cô nói: “Tôi muốn được sống hạnh phúc, chân thật. Nhưng ông ấy đã bắt tôi phải chờ đợi trong bất công.”
Tôi hiểu đó là một cách giết người. Tôi nghĩ, cần phải vất vào thùng rác mọi thứ trung thành ngu muội. Nhưng tôi nói với cô một cách dè dặt: “Không còn cách cứu vãn sao?”
Cô bảo: “Cách cứu vãn tốt nhất là tôi phải tự cứu bằng cách thoát khỏi người đàn ông đó.”
Tôi hỏi: “Cô sẽ không đi tìm người đàn ông khác chứ?”
Cô hỏi lại tôi: “Ông không nghĩ tôi có thể sống một mình được ư?”
Tôi nói: “Thật ra, sống một mình hay sống với ai đó có lẽ không quan trọng lắm. Vấn đề là người ta sống thế nào.”
Cô nói: “Có thể tôi chỉ là một giấc mơ của ai đó. Nhưng phần tôi, tôi sẽ không mơ mộng gì nữa.”
Tôi nói: “Tôi thích những giấc mơ.”
Cô hỏi: “Ông không hài lòng với cuộc sống của mình ư?”
Tôi cười: “Không phải là vấn đề hài lòng hay không hài lòng. Tôi thích những giấc mơ bởi vì nó làm cho tôi đa chiều hơn.”
Cô nói: “Dường như đấy lại là một giấc mơ khác?”
Tôi nói: “Không, nó là một giấc mơ trong những giấc mơ. Và tôi muốn giấc mơ thành sự thật, cho dù có phải thất vọng. Thí dụ, tôi mơ luôn có cô mỗi khi tôi nghĩ đến cô.”
Cô cười: “Ông chỉ đùa.”
Và tôi đùa: “Cô là một giấc mơ của tôi.”
Cô nói: “Tôi không tin ông. Nhưng cho tôi hỏi, ông có phải được sinh ra từ trứng không?”
Tôi nói: “Tôi cũng không biết nữa.”
Cô hỏi: “Tại sao lại không biết?”
Tôi cười: “Đơn giản vì tôi không thể biết, khi ấy tôi là một đứa bé chưa biết gì, cô biết thế mà.”
Cô cũng cười: “Ờ, nhỉ. Nhưng tôi có cảm giác ông được sinh ra từ trứng.”
Tôi nhìn cô, hỏi: “Điều gì làm cô có cảm giác đó?”
Cô nói: “Tôi cũng không biết. Tôi đang đi tìm.”
Tôi nói: “Nếu cô muốn tìm một người mơ mộng, thì đấy là tôi. Nhưng tôi đoan chắc rằng tôi không phải sinh ra từ trứng.”
Cô gái: “Một người đàn ông sinh ra từ trứng, tôi nghĩ sẽ khác. Tôi muốn có người đàn ông đó.”
Tôi nói: “Vậy thì cô phải viết một truyện cổ tích.”
Cô nói: “Tôi không biết viết văn.”
Tôi nói: “Không nhất thiết phải là viết văn. Một truyện cổ tích, cô hiểu không?”
Tôi không biết cô có hiểu không, nhưng đấy là cách duy nhất để người ta có thể tìm thấy điều kỳ diệu.
Giấc mơ Kiều
Cô nằm gối đầu lên mộ Đạm Tiên. Màu tóc đen của cô xõa ra lẫn trong cỏ. Chiếc áo dài đen chìm với đất. Khuôn mặt cùng với đôi tay mơ màng. Bên cạnh chiếc quạt hình lá trầu nằm tình cờ trong khoảng trống giữa đôi chân đang co lại và hai tay tạo nên mảng đối xứng với con ngựa của Từ Hải phía sau lưng cô. Con ngựa không người cưỡi đang phóng những chiếc vó của nó về phía trước. Từ Hải chết rồi. Cô nói, “Tôi cũng đi chết đây.” Và cô đã nằm xuống làm một nấm mộ sống bên cạnh Đạm Tiên, một cái chết khác.
Nhà sưu tập hỏi: “Ông bán tấm này bao nhiêu?”
Tôi hỏi lại: “Ông muốn mua nó vào thời điểm nào?”
Nhà sưu tập nói: “Ngay sau khi bức tranh hoàn tất.”
Tôi nói: “Tôi chỉ bán nó vào thời điểm năm mươi năm sau.”
Nhà sưu tập: “Ông cũng muốn là nhà đầu tư nữa sao?”
Tôi nói: “Tại sao không? Tôi biết giá trị của nó.”
Nhà sưu tập: “Thôi được. Tóm lại là bao nhiêu?”
Tôi nói: “Một trăm ngàn đô.”
Nhà sưu tập cười: “Tôi trả trước năm ngàn đô. Chín mươi năm ngàn đô còn lại tôi sẽ trả sau năm mươi năm nữa. Được không?”
Tôi nói: “Được. Bây giờ ông đưa trước năm ngàn đô đặt cọc. Năm mươi năm nữa ông ghé lấy tranh.”
Nhà sưu tập: “Khổ quá. Tôi lại muốn được ngắm tranh mỗi ngày.”
Tôi nói: “Xin mời ông. Cửa nhà tôi lúc nào cũng mở.”
Thúy Kiều của tôi vẫn nằm chết ở căn phòng tầng áp mái. Thúy Kiều không bán mình nuôi tôi.
Cô gái và tôi
Cô gái nói: “Em thích làm chính trị.”
Tôi bảo: “Làm đi. Nhưng tại sao?”
Cô nói: “Em muốn thay đổi.”
Tôi bảo: “Tốt. Thay đổi em hay thay đổi chế độ?”
Cô nói: “Cả hai.”
Tôi nhìn cô hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn đùa hô khẩu hiệu: “OK. Làm chính trị, không làm tình.”
Không hài lòng về câu nói đùa của tôi, nhưng cô nói: “Làm chính trị và làm tình nhưng không làm đĩ.”
Tôi nói: “Nếu muốn làm chính trị ở đất nước này thì không nên dính vào hai việc, một là làm kinh tế, hai là làm tình. Làm kinh tế, sẽ bị bắt vì tội trốn thuế hay lũng đoạn thị trường, hoặc mua bán trái pháp luật. Làm tình, sẽ bị bắt vì tội vi phạm thuần phong mỹ tục. Nhưng nếu làm đĩ lại có nhiều cơ hội thành công hơn.”
Cô cười: “Anh đểu. Nhưng đúng. Em sẽ không bao giờ làm đĩ theo bất cứ nghĩa nào. Em tin vào sự tốt đẹp của những thay đổi lịch sử. Em tin vào cái sức mạnh minh bạch của sự thật. Em tin vào khả năng thuyết phục của cái vương đạo chính trị và cái thiện tâm chính nghĩa. Đã đến lúc người ta phải làm chính trị trong ánh sáng.”
Tôi cũng cười: “Anh tin em cũng như anh tin sự đê tiện trong bóng tối sẽ xóa sổ em từ trứng nước. Chính trị là cái búa không phải bông hồng. Nếu em không dám giết người thì không làm chính trị được. Những điều tốt đẹp chỉ có thể xây dựng trên sự hủy diệt.”
Rồi tôi kể cho cô nghe câu chuyện tôi đã từng bị bắt. Câu hỏi đầu tiên của chấp pháp là “Phương thức tập hợp lực lượng như thế nào?”. Làm chính trị cũng như nhà truyền giáo, cần có một đức tin. Nhưng làm chính trị cũng giống như người đi buôn, cần phải biết tính lời lỗ. Tương tự như vậy, tôi muốn hỏi cô gái, cô muốn làm Lê Văn Tám hay Lê Duẩn? Tất nhiên cô sẽ trả lời, “Lê Duẩn”. Vậy thì cô sẽ làm cách nào để tập hợp những Lê Văn Tám? Những Lê Văn Tám ấy ở đâu ra? Hay cô chỉ đấu tranh trên mạng internet như một diễn viên?
Cô nói với tôi: “Bây giờ là thời đại của các phần mềm và cơ chế mở.”
Những con nai khi được thả vào rừng, chắc hẳn chúng biết cách để đi đến chỗ cần đến.
Ngoài đường, một đoàn người lếch thếch bị gậy như những kẻ ăn mày khốn khổ, họ giương những biểu ngữ đòi trả lại đất đai, hoặc tố cáo đích danh những kẻ ăn cướp nhà cửa của họ trên chiếc áo thun trắng viết chữ bằng máu… Trong đám họ không thiếu những khuôn mặt vạm vỡ xưa kia đã từng chiến đấu trong lửa đạn hay nuôi giấu cán bộ trong hầm trú ẩn.
Những con nai đang chạy vào rừng. Cũng có thể chúng sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi sự truy đuổi của những kẻ săn thú.
Thiếu nữ trong vườn
Sau lưng họ là những bụi chuối. Tàu lá xanh óng mượt làm cô đọng lại mọi cảm xúc. Một cô ngồi ngả đầu trên hai đầu gối, dáng hình quen thuộc và rất trìu mến. Một cô nghiêng vai vuốt ve mái tóc. Bên chân họ, một con mèo xoải chân nằm ngủ. Cuộc sống tưởng như sẽ thanh bình yên ả mãi mãi… Cây chuối sẽ trổ hoa và ra trái, con mèo sẽ thức dậy và nhảy nhót, những đứa trẻ sẽ xuất hiện nghịch đất cát và đá bóng.
Nhưng một ngày nọ, tai họa đã bất ngờ đổ xuống. Xe xúc, xe ủi xuất hiện cùng với lực lượng cưỡng chế và công an, dân phòng các loại võ trang tận răng hào hùng hung hãn xung phong giữa trận tiền nhân dân… Và nhân dân (bao gồm trẻ già lớn bé nam nữ như nhau) bị bứng ra khỏi gốc rễ, trở thành vô gia cư ngay trên mảnh đất của tổ tiên mình.
Rồi họ đi lang thang trên khắp các nẻo đường để tìm thần công lý. Nhưng thần công lý cũng đã bị bẻ cổ và vùi xác trong các thư viện.
Một số người may mắn thoát thân khỏi các trận càn hủy diệt nhân danh nền văn minh đô thị tìm được nơi trú tạm trong các nhà máy. Ở đó, các ông chủ vắt sữa họ liên tục 12 giờ đồng hồ mỗi ngày. Nhiều đứa bé của họ chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bị chính họ vùi lấp trong các bãi rác.
Nhưng cũng có một kịch bản khác. Không biết là tai họa hay đại phúc. Những người đàn ông lạ xuất hiện rồi từng cô gái trong bức tranh quê thanh bình đó bốc hơi… Họ lấy chồng xa, nhưng không buồn như vọng cổ khi con sáo sang sông hay bi kịch như nhạc sến lênh đênh mười hai bến nước. Họ lấy chồng ngoại như dân sành điệu xài hàng hiệu. Những mái lều tranh rách nát hoặc lợp tôn nóng như cái nồi hấp ở quê nhà biến thành nhà ngói, bê tông, máy lạnh…
Những cuộc đổi đời dứt bỏ quá khứ và truyền thống hàng ngàn năm. Cũng là những gam màu đỏ của cách mạng, toát ra hơi nóng của dập vùi và vùng vẫy và thoát xác.
Họ lang thang trên khắp mặt địa cầu tay cầm đèn đỏ truy tìm miếng ăn và không quan tâm đến việc họ có được sinh ra từ trứng hay không. Đôi khi họ cũng nghe thấy tiếng xe ủi, xe xúc gầm gừ phá nát ngôi nhà và mảnh vườn cũ, họ càng quyết tâm hơn để hy sinh vì chữ hiếu.
(còn nữa)
Nguyễn Viện