Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.3)

6. Tôi

Tôi về đến Huế vào ngày 15 tháng 5 năm 1975.

Thế là tôi đi giáp một con đường vòng. Rời Huế ngày 22 tháng 3 vào Đà Nẵng. Rời Đà Nẵng khuya 29/3 vào Cam Ranh. Rời Cam Ranh ngày 5/4 đi Phú Quốc. Rời Phú Quốc ngày 18/4 trở lại Vũng Tàu. Rời Vũng Tàu về Sài Gòn ngày 26/4. Rời Sài Gòn ngày 12/5 để trở lại Huế. Đó là một cuộc trốn chạy bước tiến quân của Cộng Sản gian nan, kinh khiếp, hãi hùng, phấn khích và tuyệt vọng.

Tôi trở về Huế trong tâm trạng của một người phương xa bị dẫn dắt vào nơi hiểm địa. Cảnh vẫn còn đó, người vẫn còn đây, nhưng mỗi một nụ cười, mỗi một ánh mắt đều khác lạ. Bạn bè biến mất. Bà con lơ láo nhìn nhau. Hàng xóm nghi kỵ. Trở lại thăm ngôi trường, tôi bắt gặp những cái nhìn tóe lửa, thù nghịch từ một số học trò cũ, mới ngày nào đây vẫn còn thầy thầy em em trong quán cà phê. Thành phố lặng đi, buồn bã, bồn chồn như đang trong tình trạng giới nghiêm, chờ đợi một cái gì ghê gớm lắm sắp xảy ra.

Đứa con đầu lòng ra đời. Mẹ tròn con vuông. Đã đành là không vui tí nào mà lạ, lại cũng chẳng buồn. Mọi cảm giác lắng đi, chai lì. Đúng một tuần sau khi đứa con ra đời, chiều hôm đó, trong khi đang loay hoay nựng con trong phòng thì có tiếng gọi cửa. Tôi nhìn ra, thấy thấp thoáng bóng người đội mũ cối đứng sau cánh cổng. Lòng tôi hồi hộp. Tôi ra mở cửa. Đang loay hoay tháo chiếc then gài, tôi nghe có giọng ai đó nói nhỏ nhẹ:

– Thưa thầy.

Tôi hơi giật mình nhìn lên, bắt gặp một khuôn mặt quen quen, nhưng nhất thời chưa nhận rõ ra là ai. Cửa mở. Người đàn ông đội mũ cối chìa tay ra. Tôi cũng chìa tay ra bắt. Anh ta nhìn thẳng vào tôi:

– Anh là T.

Giọng Nghệ An đặc sệt kèm theo một nụ cười thật khó diễn tả. Dường như vui. Dường như ngạc nhiên. Dường như đe dọa. Cười mà vẫn không có vẻ gì là cười. Tôi gật đầu đáp vâng. Người thanh niên lập lại:

– Thưa thầy.

Tôi nhìn người thanh niên, phân vân. Người thanh niên giở chiếc mũ bê rê đen ra. Tôi ngạc nhiên:

– Hưng. Phải Hưng không?

– Dạ, em đây thầy.

Đúng là Hưng, người học trò đang học với tôi năm đó tại Đại Học Văn Khoa. Định hỏi Hưng tiếp vài câu, thì người đàn ông lên tiếng:

– Ta vào nhà cái đã. Tôi tìm anh cả tháng nay.

Tôi lặng lẽ đi trước. Tôi mời vào thẳng nhà trên, nhưng người đàn ông dừng lại ngay trước hàng hiên:

– Khỏi, anh T. à. Tôi bận lắm. Gặp anh tí chút để giải quyết mấy chuyện rồi đi ngay.

Không đợi mời, người đàn ông ngồi ngay vào chiếc ghế để kế cây cột trụ mái hiên, rồi nói như ra lệnh:

– Anh kiếm ghế ngồi đây, ta nói chuyện cho tiện. Đây thoáng mát.

Tôi lấy chiếc ghế cho Hưng và tôi, rồi ngồi xuống. Người đàn ông nhìn quanh. Khi tia nhìn dừng lại ở bàn thờ, anh ta hỏi:

– Anh Phật giáo à. Thế mà tôi lại tưởng anh là Công giáo kia.

Lại nhìn quanh, săm soi. Rồi nhìn chăm tôi:

– Anh còn trẻ quá nhỉ.

Lại nhìn quanh nữa. Bỗng nhiên, anh ta đứng dậy vỗ vai tôi:

– Nào, dẫn tôi đi thăm chị và cháu một chút đi. Nghe chị vừa sinh cháu gái phải không? Thăm một chút, trở ra, ta nói chuyện sau.

Cái anh chàng này lắm chuyện, tôi rủa thầm. Không đợi tôi dẫn đường, anh ta đứng dậy đi ngay xuống nhà dưới. Đến ngay cửa chính của nhà dưới, anh ta đứng đợi tôi:

– Phòng chị chỗ nào?

Tôi bước đến gần anh ta, tần ngần:

– Để tôi gọi vợ tôi ra…

Anh ta xua tay:

– Tôi muốn thăm chị ấy một chút. Anh cứ để tôi đi.

Lại cái giọng ra lệnh. Không biết làm sao hơn, tôi dẫn anh ta vào phòng. Vợ tôi vô cùng bối rối, cố gượng ngồi dậy chào. Anh ta ra dấu cho vợ tôi nằm xuống, rồi nhìn quanh. Cũng lạ, cái tay này! Bước đến đâu, anh ta cũng nhìn quanh, đôi mắt tưởng như muốn ghi nhận hết thảy những gì có mặt. Liếc thật nhanh qua cháu bé mới một tuần tuổi, anh ta nói với vợ tôi:

– Anh phải đi học tập một thời gian. Cũng không lâu đâu. Dăm ngày nửa tháng. Chị yên tâm chăm lo cho cháu, đợi anh về.

Không đợi vợ tôi trả lời, anh ta quày quả bước ra khỏi phòng. Tôi ở lại một lát trong phòng, nói nhỏ với vợ:

– Chuyện gì đến thì phải đến thôi. Em đừng lo lắng gì cho mệt. Anh đi, rồi sẽ về.

Vợ tôi thở dài, kéo đứa con ôm vào lòng, nước mắt lưng tròng. Khi tôi trở ra, chẳng thấy anh chàng bộ đội đâu, chỉ thấy Hưng vẫn còn ngồi đó. Tôi nhìn Hưng, dò hỏi. Hưng im lặng. Một lát sau, tôi thấy anh ta xuất hiện phía đầu kia của căn nhà, kế hàng chìa tàu. Thì ra, anh ta đi quanh sau vườn. Tôi nhìn anh ta chờ đợi một câu giải thích. Đoán chừng tôi thắc mắc, anh ta nói ngay:

– Tôi muốn xem cái vườn nhà anh một chút. Vườn rộng nhưng có vẻ như thiếu người chăm sóc, phải không?

Tôi cười gượng, không trả lời. Anh ta đến ngồi lại trên ghế, bảo tôi:

– Anh ngồi xuống đó đi, ta nói chuyện. Tôi là Lam, công tác tại Ty Công An Thừa Thiên. Bọn tôi biết anh từ lâu, khi còn ở trên rừng kia, giờ mới gặp. Theo chính sách của trên, anh nằm trong diện phải đi học tập cải tạo. Chúng tôi có ý chờ anh trình diện, nhưng mãi không thấy. Anh không định đi trình diện sao?

Tôi đáp:

– Có chứ. Nhưng ông biết đấy, vợ tôi sanh.

– Tôi biết. Lẽ ra, anh không nên để chúng tôi phải tới đây. Nhưng không sao, sớm muộn gì ta cũng gặp nhau thôi. Sớm thì hay hơn. Anh chuẩn bị áo quần, giấy bút, mai đi học tập. Chúng tôi sẽ trở lại đón anh ngày mai.

– Đón tôi?

– Vâng. Anh cứ ở nhà. Chúng tôi sẽ đến.

Nói xong, Lam đứng dậy, vỗ vai tôi:

– Nhớ ở nhà, không nên đi đâu hết.

Tôi tiễn hai người ra cửa. Hưng đi chậm lại, nói nhỏ với tôi:

– Em xin lỗi thầy. Thực tình em không muốn làm như thế này tí nào. Nhưng bên Ty họ tìm thầy mãi. Vào nhà cũ, không có. Đến nhà thầy thuê, cũng không có. Thầy thông cảm cho em. Dù gì em cũng là học trò của thầy. Thầy nhớ đem theo mền, chiếu và ráng… giữ mình.

Tôi vỗ vai Hưng, cười:

– Em không có lỗi gì. Trước sau gì họ cũng tìm ra tôi thôi. Mà nào tôi có định trốn đâu. Đã trốn thì về lại Huế làm gì, phải không?

*

Không phải đợi đến ngày mai như tay công an nói với tôi, mà chỉ mười lăm phút sau khi Lam bước chân khỏi nhà, một chiếc xe jeep Liên Xô (sau này nghe người ta vẫn gọi là xe con Liên Xô) đến đỗ ngay trước cổng nhà. Bốn công an nhảy vội xuống, vào nhà, buộc tôi lên xe. Tôi chỉ kịp lấy một bộ áo quần cùng cây bút, tập vở nhét vào xách, và lấy đại một chiếc chiếu rách cầm tay, leo lên xe. Vợ tôi nghe tiếng, chạy theo, đưa cho tôi thêm hai ổ bánh mì và hai gói thuốc. Xe chạy ngay.

Ra khỏi thành phố, xe chạy về hướng Kim Long. Lúc này, trời đã sâm sẩm tối. Mặt trời khuất hẳn sau đồi. Đường Kim Long vắng hoe. Giòng sông Hương đang chìm dần vào tối trong một nỗi ngậm ngùi lặng lẽ. Xe vòng qua dốc chùa Linh Mụ, đi thẳng một đoạn rồi rẽ phải vào một lối đi ngang qua một khoảng tường thành đổ nát. Xe dừng lại ngay dưới một bức thành cao, kế tầng cấp đi lên. Xuống xe, nhìn quanh, bất giác tôi rợn người. Trong cái nhá nhem tối, khung cảnh ở đây đã hoang phế lại càng hoang phế thêm, trông rất ma quái. Im lặng hoàn toàn. Mới có đầu hôm mà sông vắng, đường vắng. Cả cái làng nhỏ ven sông cũng im lìm y như đã đi ngủ từ lâu lắm. Chung quanh, cỏ dại mọc đầy, từ bờ thành lan ra khắp nơi, che lấp hết cả khoảng đất trống lót gạch. Dù đã từng qua lại con đường này, tôi bâng khuâng tự hỏi đây là nơi đâu, và sao người ta lại đưa tôi lên đây.

Trời tối hẳn. Bốn người áp tải thúc tôi đi. Hai người đi trước dẫn đường. Hai người đi kèm sát bên tôi, súng ngắn rút ra khỏi vỏ, cầm lăm lăm trên tay. Tôi mày mò bước lên từng tầng cấp, lòng hoang mang, nặng trĩu. Không ai nói với ai một tiếng nào. Lên khỏi hàng chục tầng cấp, tôi nhìn ra phía sông, nhận ra cái cổng chính quen quen, với ba lối vào. À thì ra đây là khu vực đền Văn Thánh. Tôi đã từng ghé đây một đôi lần. Chỉ trừ cái cổng tương đối nguyên vẹn, còn thì tất cả đều đầy dấu vết đổ nát. Một dãy nhà dài lợp tôn nằm dọc theo bờ thành thấp, hiện ra nhờ nhờ. Có ánh đèn dầu lay lắt ở một nơi nào đó trong dãy nhà. Bốn người dẫn tôi đi về cuối khu đất, nơi có một căn nhà. Thực ra, đó là một góc của khu đền Văn Thánh. Trời tối đậm. Một tay công an bấm đèn pin soi lối đi. Sỏi, đá, gạch, ngói vụn nằm rải rác trên lối đi. Cỏ dại, dây leo, tranh mọc đầy. Những thanh gỗ mục, thiếu đầu thiếu đuôi và các mảnh gỗ nằm lẫn lộn với ngói vỡ. Căn nhà—đúng ra là cái đền lớn—hầu như không còn gì nguyên vẹn. Cột, kèo, mái, tường cho đến nền, cửa tất cả đều xiêu vẹo, đổ nát. Chỉ còn một căn nhỏ nằm ngay góc. Mọi người lần mò từng bước tìm vào căn phòng. Lòng tôi hoang mang bất định. Tôi cố gắng không nghĩ đến một điều gì đặc biệt. Nhưng những hình ảnh đen tối, ghê rợn cứ tràn vào trong đầu óc tôi.

Một người nâng nhẹ tấm cửa rời chắn ngang cửa phòng, đặt sang một bên rồi bảo tôi:

– Vào đây.

Tôi bước vào. Anh ta rọi đèn khắp phòng, dừng ngang một góc, ở đó có một tấm ván dài kê trên mấy cục gạch. Anh ta nói:

– Đó là chỗ ngủ.

Nói xong, anh ta lẳng lặng bước ra ngoài. Tôi nghe tiếng thì thì thầm to nhỏ một lát. Anh ta lại trở vào:

– Chúng tôi được lệnh trên dẫn anh tới đây. Đây là chỗ ngủ của anh.

“Chỗ của tôi?” Tôi sửng sốt, môi lập bập muốn la lên như thế, nhưng kịp thời dằn lại. Anh ta nói tiếp, giọng bây giờ trở nên nặng nề:

– Anh chỉ được di chuyển nội trong phòng này. Cánh cửa kia không đóng, nhưng không được vượt qua. Có việc gì cần, đi tiêu đi tiểu chẳng hạn thì phải nói lớn, có người đến dẫn đi. Nên nhớ đây là lệnh trên, phải thi hành.

Tôi im lặng, gật đầu trong bóng tối. Anh ta rọi đèn khắp phòng một lần nữa rồi bước ra. Chợt nhớ điều gì, anh ta quay lại:

– Sẽ có người mang thức ăn lại.

Anh ta cẩn thận lấy tấm cửa rời, chắn lại. Bên ngoài nghe có tiếng lách cách của đạn lên nòng. Tôi đứng như trời trồng giữa phòng, toàn thân tê điếng hẳn đi. Tôi cố nuốt nước bọt, nhưng miệng mồm giờ khô khốc. Trong đầu vang vang môt câu hỏi không được trả lời: “Chỗ của tôi. Chỗ của tôi?” Tại sao lại chỗ của tôi ở một nơi như thế này?

Đã nghe vo ve tiếng muỗi. Một lát sau, đám muỗi háu đói bay quanh, vồ vập bám vào thân thể tôi, châm chích loạn xạ. Tôi hờ hững lấy tay đập vài con, rồi buông thõng, mặc kệ để chúng tự do hành sự. Nhưng có lẽ nhờ thế, tôi thấy tỉnh táo để nhìn căn phòng. Mắt đã quen với bóng tối, nên bây giờ, tôi có thể thấy mọi vật rõ ràng hơn. Đúng là một phòng với tường bao quanh. Tường nứt nhiều chỗ, các lớp xi măng bóc từng mảng lớn. Nền nhà cũng thế, hư hỏng, chỗ lồi chỗ lõm. Tôi lấy chân chà qua xát lại, không thấy có ngói gạch gì ở dưới. Như thế ở đây sạch sẽ hơn phía ngoài. Chắc người ta cũng có dọn dẹp đôi chút trước khi đưa tôi lên đây. Tuy vậy, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc. Phòng có một cửa lớn, hai cửa sổ. Cửa sổ phía trong thì đóng chặt, có một tấm gỗ nẹp thêm phía ngoài. Cửa sổ kia hướng ra ngoài, còn một số chấn song ngang, dọc, cái thẳng, cái cong. Có song truột ra khỏi tường. Bên ngoài là một khoảng đồng trống. Tôi vịn chấn song, nhìn ra, mắt cố điều tiết để nhìn cho rõ. Cách một khoảng ngắn từ cửa sổ trở ra là một hàng rào thép gai dày, cao quá đầu người. Cỏ vươn cao, tự do xen giữa các ô thép gai. Xa hơn là một khoảng đất trống với nhiều gò đống lờ mờ nhấp nhô trong màn đêm. Cố gắng nhìn, tôi phát hiện ra những gò đống kia là những ngôi mộ. Hóa ra, đó là một bãi tha ma. Điều này một lần nữa khiến tôi thốt nhiên lạnh toát cả người. Một ý nghĩ kinh khiếp mọc nhanh trong đầu. Tôi buông tay khỏi khung cửa sổ, run rẩy. Tôi bước vào, thả mình xuống tấm ván kê sẵn, hai tay ôm đầu trong một trạng thái kích xúc lạ lùng. Muỗi tấn công ào ạt. Tôi sờ soạng chung quanh, tay đụng cái túi xách. Tôi mở túi lấy hai gói thuốc bastos xanh. Tôi bật lửa đốt thuốc, hút. Tôi hít hà liên tục. Khói thuốc dường như làm cho tôi bình tĩnh đôi chút. Trong bóng tối, thỉnh thoảng đóm lửa lại lóe sáng như đốt lên một niềm hy vọng mong manh nào đó. Tôi lắng tai nghe động tịnh bên ngoài. Hoàn toàn im lặng. Bọn họ đi đâu cả? Tôi nhìn ra phía cửa chính. Tuy tối, nhưng tôi cũng lờ mờ nhận ra ngay trước căn phòng là một khoảng trống đổ nát, cây cỏ um tùm trông như một vạt rừng hoang mà lúc mới vào, vì quá bối rối tôi không để ý. Hoang liêu, vắng lặng hoàn toàn. Rõ ràng, phải từ lâu lắm, chỗ này chẳng có ai lui tới.

Có tiếng động. Tôi hồi hộp lắng nghe. Tiếng bước chân lại gần. Một lát, tôi thấy khoảng không gian bên ngoài sáng lên. Có ánh đèn. Hai cô gái bước đến trước cửa. Một cô bưng chiếc đèn dầu nhỏ, giơ cao, tay nâng tấm chắn cửa, giữ cho cô kia bước vào phòng. Cô gái nhìn quanh, rồi đặt xuống chỗ nằm một mâm cơm. Cô bưng đèn đặt cây đèn kế bên mâm cơm. Xong, cả hai cô đồng bước ra. Một cô nói, giọng cộc lốc:

– Ăn xong, để mâm và đèn ở ngoài này.

Nhìn mâm cơm, tôi bất giác rùng mình, thảng thốt. Một tô canh còn bốc hơi nóng. Một đĩa đồ xào. Một tô thịt heo kho. Một đĩa cá. Chén, đũa, muỗng tươm tất. Bữa ăn dành cho tôi? Một bữa ăn thịnh soạn dường ấy cho một tên tù trong nhà tù Cộng Sản? Tôi nhìn mâm cơm và không thể ngăn chặn được ý nghĩ về một bữa cơm ân huệ cuối cùng dành cho tử tội. Thoạt đầu, đó chỉ là một cảm giác bất thường. Nhưng hàng bao câu hỏi mọc lên trong đầu không trả lời được khiến cho ý nghĩ đó hình thành và càng lúc càng rõ nét. Không nghi ngờ gì nữa, tôi sẽ bị giết đêm nay. Chết! Ý nghĩ dứt khoát này khiến tôi đứng sững bất động giữa căn phòng, mắt không rời khỏi miếng thịt, con cá, cái muỗng… Đó là những điều bình thường trong một bữa ăn bình thường. Nhưng trong tình huống này, bữa ăn lại có vẻ thịnh soạn và vì thế, rõ ràng nó không bình thường một chút nào. Những kẻ chiến thắng vẫn tự hào về cái bản chất nghèo của họ. Không những thế, họ yêu cái nghèo và ghét tất cả cái gì sang cả, ngon lành. Đó là chưa nói đến sự trả thù. Vậy thì tại sao trong lúc người ta đi “học tập” chỉ được ăn cơm với muối và phải lao động cực nhọc để gọi là “cải tạo,” thì tôi lại được cho ăn một bữa ăn tươm tất như thế này? Tôi nhìn đồ ăn. Đồ ăn nhìn tôi. Con cá, những miếng thịt, muỗng, đũa… thảy đều nhìn tôi trừng rừng, thách thức.

Tôi lảo đảo ngã xuống đất. Mọi nghị lực bỗng nhiên tiêu tán. Tôi chới với vịn tấm ván ở chỗ nằm, đứng lên, rồi lại nằm vật xuống. Tôi chìm sâu trong một nỗi tuyệt vọng mênh mang. Và lịm người đi.

– Này anh kia, ăn đi để còn phải bưng xuống.

Tôi giựt mình nhìn ra. Không thấy ai. Một người nào đó chõ miệng vào ném một câu nói, xong đi mất. Tôi cố ngồi dậy. Bụng đói thật, nhưng nhìn mâm cơm, tôi kinh hãi. Cái cảm giác của một bữa cơm ân huệ của người tử tội khiến tôi lợm giọng. Nhìn còn không muốn, nói gì đến chuyện ăn! Tôi nhìn trong bóng tối. Gặp cái gì, tôi nhìn trừng trừng vào cái đó. Thanh gỗ, mảng tường, chấn song, khuôn cửa, góc phòng, trần nhà… Tất cả đều toát lên một vẻ thê thiết đến cùng cực. Tôi nhìn thân thể tôi. Thừa thãi. Vô nghĩa. Cảm giác về một cái chết thấy trước khiến tôi cảm thấy chán cái thân thể buồn nản này. Y như thể nó không còn là của tôi nữa.

Không gian bên ngoài vang động lời ca và giọng nói. Từ Kim Long. Từ Long Thọ. Từ Hương Hồ. Từ phố. Xuyên qua các loa phát thanh đặt cùng khắp, các điệu nhạc chiến đấu và những chuỗi từ ngữ nối nhau tuôn ra trong bóng đêm. …Quê em miền trung du, đồng tươi lúa xanh màu… hành quân trên đồi cao, nhìn vô trong Huế… trung tá Đính, một sĩ quan ngụy đầu hàng quân giải phóng, hôm nay đã nói chuyện cùng các trại viên trại cải tạo tại Ái Tử… phát biểu của sinh viên Hoàng Thị Thọ, thành đoàn sinh viên học sinh giải phóng… ba giòng thác cách mạng tiến công như vũ bão vào thành lũy của tập đoàn tư bản… [1] 

Đêm và nỗi sợ vây lấy tôi. Âm thanh vây lấy đêm. Âm thanh vò nát, cày xới đêm bằng những chuỗi từ ngữ lạ tai, chắc nịch, cao vút phát ra từ tứ phía. Bên kia sông. Bên này sông. Từ phố. Từ chân núi. Bừng bừng. Vô tận. Âm thanh và ngôn ngữ như muốn nuốt sống cả đất trời.

Người con gái từ đâu bên ngoài bước vào:

– Này, anh kia, ăn xong chưa?

– Chưa.

– Ăn mau đi. Không ai công mô đợi mãi.

Mẹ kiếp, ăn thì ăn! Tôi lấy chén đũa, xúc cơm gắp vội mấy miếng thịt, lùa đại vào miệng, cố nuốt. Nhưng không được. Nghẹn. Lại vọt ra. Không cách gì nuốt nổi. Tôi nói vói ra bên ngoài:

– Xong rồi.

Người con gái bước vào, nhìn mâm cơm rồi hỏi:

– Không ăn sao? Bộ chê cơm cách mạng há?

– No rồi.

Tôi lấp lửng cố không nói chữ “dạ” đầu câu. Cô gái bưng mâm cơm và đèn, bước ra ngoài. Căn phòng tối lại. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tiếc. Tại sao lại phải làm ma đói, nếu bị chết? Nghĩ thế, tôi lục xách, lấy ra hai ổ bánh mì mang theo, nhai. Cố nuốt. Và nuốt được. Tôi nuốt những miếng bánh mì như nuốt những ý tưởng chết chóc lớn dần lên đến độ bão hòa. Ừ, thì chết. Có sao đâu! …Sóc băm bô rộn rã tiếng chày khua… giã gạo đêm đêm vì ngày bận làm mùa… cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc nước ta… cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở miền nam… bác hồ dạy… đây cầu chống mỹ xe qua dập dìu… cùng mắc võng trên rừng trường sơn… Tiếng hát và tiếng đọc không ngớt tuôn ra.

Còn tôi, nỗi chết không rời. Tôi bắt đầu làm quen với ý nghĩ mình sẽ chết. Tôi bước trở lại khuôn cửa sổ, nhìn ra bãi tha ma. Những nấm mộ, những tấm bia cắt thanh những đường nét mơ hồ ngoài kia. Thỉnh thoảng, những đóm lửa đỏ nhờ nhờ bắn lên không trung. Tôi tưởng tượng một lúc nào đó trong đêm, tôi sẽ bị dẫn ra ngoài đó, bị trói lại, bị bắn bỏ và đạp xuống một cái hố đào sẵn. Hết. Cuộc đời tôi sẽ chấm dứt đơn giản như thế. Như những xác người hồi Tết Mậu Thân. Chết là một im lặng bất tuyệt. Thế thôi. Tôi sẽ ra ngoài đó, sẽ vĩnh viễn nằm xuống ở đó. Vĩnh viễn. Có gì đâu! Chết là rơi vào vĩnh viễn. Trút sạch hơn thua. Không ai thắng, không ai thua.

Bên kia sông, những giọng hát vang lên, bắt đầu cho một hội diễn văn nghệ nào đó, do sinh viên học sinh phụ trách. Bên này sông, những giọng nói. Từ dưới phố, những giọng nói. …Cách mạng, làm chủ tập thể, công trình thủy lợi, ngụy quân ngụy quyền, tiến công, dãy chết, chủ nghĩa anh hùng cách mạng… Giọng hát cương lên. Giọng nói cũng cương lên. Nhạc ào ạt. Tất cả như muốn nghiến ngấu những mảnh đời nhỏ bé, những thân phận đớn hèn đang âu lo trước cuộc phế hưng. Nào bạn. Nào thầy. Nào học trò. Nào hàng xóm. Rụp một cái, mọi quan hệ thay đổi tận gốc. Người ta hăm hở ùa theo kẻ thắng. Kể cả cây cỏ, giòng sông. Giả có thật có. Một kẻ mới hôm qua đây còn chưởi rủa Việt Cộng, thì hôm nay cầm cờ đỏ, cố chường mặt ra cho mọi người nhìn thấy. Còn những người thua cuộc thì bé lại, đột nhiên mất tăm giữa giòng cuồng lưu. Giữa đất trời chỉ còn một thứ, một loại, một âm thanh. Lảnh lót. Kiêu hãnh. Ngông nghênh. Nghiêng đồng đổ nước ra sông. Vắt đất ra nước thay trời làm mưa. Người ta xem đó là điều có thật. Và mọi người cố tin đó là sự thật. Chỉ vì, ngoài thứ âm thanh đó, chỉ còn là một im lặng. Im lặng thảng thốt. Im lặng như hàng hàng lớp lớp mồ mả ngoài kia. Như tôi. Một mình giữa căn phòng tối tăm, u uất này.

Tôi bước lui bước tới, gậm nhấm nỗi bất lực của chính mình. …Từ thành phố này người đã ra đi… tư tưởng tiến công cách mạng… đi thông đường để những chuyến xe băng băng qua… Trong không gian đầy cả những tạp âm ấy, bỗng nhiên một âm thanh khác lạ vang lên.

Bò…ò…oò…oò…n…g. Tiếng chuông! Vâng, tiếng chuông! Tôi cố lắng nghe. Âm thanh tiếng chuông cao dần lên, tan loãng ra, tưởng như biến mất, bỗng dội lại từng chút, rồi cuối cùng chan hoà trong không gian. Từ đó, chốc chốc, tiếng chuông lại đều đặn vang lên. Giữa những chuỗi từ ngữ sắc mạnh ào ạt ném vào không gian, tiếng chuông lúc đầu trông khá lạc điệu. Có cái gì như ngập ngừng, ẩn nhẫn, chịu đựng khiến tôi liên tưởng đến thái độ dè dặt của người đánh chuông. Đánh mà lòng không yên. Đánh mà không muốn đánh. Vừa đánh vừa dè chừng. Vừa đánh vừa dò dẫm.

bò…ò…ò…òng.

…năm anh em trên một chiếc xe tăng…

bò…ò…ò…ng

…từ thành phố này…

bò…ò…ò…ò…ng

Tôi lắng mình vào tiếng chuông. Càng về sau, tiếng chuông càng tròn trĩnh, đầy đủ, trầm lắng. Nó từ tốn vang lên, từ tốn truyền dần vào không gian, xuyên qua cây lá, thành quách, nhà cửa, nhỏ dần và biến mất. Cứ thế. Không cần người nghe. Không cần khua rộn.

bò…ò…ò…òng

Tiếng chuông hiền hòa, không lấn át nổi tiếng hát và những âm thanh chát chúa hùng hổ vang vọng trong đêm. Nhưng may thay, nó còn đó. Ít ra là nó còn đó giữa một đất nước đang bị bức bách thay đổi theo một chiều hướng vô định. Trong cái âm thanh nghe bình thường đó, tôi tự dưng linh cảm một sự cố gắng phi thường để tồn tại. Phải cố gắng lắm để cho nó bình thường. Vì mọi thứ đã trở thành bất trắc. Mọi thứ trở thành không bình thường. Như mâm cơm mà người ta vừa dọn cho tôi chẳng hạn. Như tôi, hôm nay, tại đây, trong căn phòng đổ nát, ẩm thấp, tối tăm này. Một nhà tù không cửa khóa, không tường cao hào sâu, không kẽm gai. Người ta nhốt tôi. Tôi nhốt tôi. Sự tan vỡ của một đất nước đột ngột, ghê gớm quá đến nỗi mọi phản ứng như tê liệt đi.

bò…ò…ò…ò…ng

Tôi bước lui bước tới, nhìn ra bãi tha ma, nhìn quanh phòng, đốt hết điếu thuốc này sang điếu thuốc khác. Đêm trôi qua nặng nề, chậm chạp. Tôi chờ đợi. Một lúc nào đó, tôi thiếp đi và giật mình tỉnh lại. Thì ra tôi ngủ khi đang đứng giữa phòng. Tiếng nói và âm thanh nghe đã ngớt. Chỉ còn tiếng hát vang lại từ bên kia sông, phía Long Thọ. Các giọng hát cố cương lên nhưng không nổi. Có lẽ vì đêm đã khuya. Tôi cố ý chờ đợi tiếng chuông, nhưng không còn nghe gì nữa. Bên ngoài bây giờ im lìm. Tôi bước gần cửa nhìn ra, xem thử có ai canh gác gì bên ngoài không. Chẳng thấy ai. Im lặng nặng nề, đe dọa. Đốt thuốc tiếp. Cứ thế, trong đêm tối, tôi lặng lẽ chờ đợi một cái chết. Những hoảng hốt đã qua. Nỗi sợ hãi cũng lịm dần. Tôi chờ đợi một bước chân, một tiếng lách cách của đạn lên nòng, một tiếng gọi. Không. Từng giờ, từng phút trôi qua trong vắng lặng hoàn toàn. Không hẳn thế. Còn có tiếng dế và tiếng muỗi. Nhưng trong tâm tưởng của một chờ đợi ngột ngạt, những âm thanh đó trở thành vô nghĩa. Với tử tội, mọi thứ đều vô nghĩa, kể cả niềm hy vọng. Đêm khuya khoắt, sâu dần. Tôi đi lui, đi tới, bóng dáng nghiêng ngả. Cho đến một lúc, tôi có một cảm giác thật lạ lùng: tôi chết rồi. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tôi nhẹ hẫng, không trọng lượng, không vướng víu, không buồn phiền. Nhìn ra không gian bên ngoài, tôi thấy mình thoát, thoát khỏi cái xã hội đang bị kềm thúc ngoài kia, cái xã hội đang bị buộc, bị gói, bị nhốt ngoài kia, cái xã hội đang bị tiêu chuẩn hóa ngoài kia. Tôi sẽ được tự do. Dưới một cái hố nào đó ngoài bãi tha ma thầm lặng ngoài kia. Vâng, tự do. Tôi sẽ hoàn toàn tự do, ướt đẫm tự do.

Bỗng nhiên, có tiếng động. Tôi giật mình, lắng nghe. Vâng, tiếng động. Tiếng bước chân nhè nhẹ đâu đó bên ngoài. Tóc tôi dựng ngược. Đã đến lúc rồi! Đến rồi! Người tôi căng cứng. Tôi hít thật sâu thêm một hơi thuốc, vứt phần còn lại xuống đất, dí tắt, nhìn ra chờ đợi. Không có gì. Chưa có gì. Tôi đốt một điếu thuốc khác, lập bập từng hơi. Và cảm thấy mình vừa thoát chết. Mình còn tồn tại đây. Khói thuốc chất ngất trong lồng ngực, sảng khoái.

Đêm trôi. Tôi trôi. Bồng bềnh, lấp lửng giữa bờ vực tử sinh. Giữa cảm giác, tưởng tượng và hình dung, suy đoán. Bên ngoài, lâu lâu lại có tiếng động. Hình như đổi phiên gác. Tôi chiến đấu với những cảm giác và suy luận của mình. Tôi không nằm xuống được, chỉ bước lui bước tới, bước ngang bước dọc và đứng.

Bò…oò…oò…n..g
            Tôi giật mình. Tiếng chuông! Lại là tiếng chuông. Tiếng chuông bỗng nhiên vang lên giữa một không gian vô cùng tịch lặng. Chuông sáng. Khác với đầu hôm, tiếng chuông lần này có vẻ tự chủ hơn, chắc hơn, tự tin hơn.

Bò…oò…oò…ng

Tôi sực tỉnh: chuông Linh Mụ! Ngôi chùa chỉ cách nơi tôi bị giam giữ, khu đền Văn Thánh, chừng nửa cây số. 

Tiếng chuông đều đặn vang lên trong không khí trong lành sau thời gian lắng dịu của đêm. Một mình. Cả bộ máy tuyên truyền vẫn còn ngái ngủ, chưa kịp thức dậy, vì thế, tiếng chuông khoan hòa êm ái truyền đi. Qua không khí, qua gió, qua sương, qua cây, qua cỏ. Chuông nối tiếp chuông cho đến lúc trời hửng sáng. Chỉ có tiếng chuông. Khi hồi chuông cuối cùng đánh dồn dập để kết thúc, thì tôi tìm lại được chính tôi. Một tôi nhếch nhác, đờ đẫn giữa một căn phòng nhếch nhác, đờ đẫn. Tiếng chuông đã đưa tôi qua một đêm khắc khoải, hoang tưởng. Tôi ngồi ngẫm nghĩ về những sai khác trong tiếng chuông. Suy cho cùng, có lẽ tiếng chuông vẫn thế từ mấy trăm năm nay ở ngôi chùa Linh Mụ cổ kính này. Có khác chăng là khác ở người đánh chuông và kẻ nghe chuông.
          Tiếng chuông làm gì có hưng phế.
          Chỉ có hưng phế trong phận người.

*

            Đó là đêm đầu tiên trong 176 đêm tôi bị biệt giam nơi căn phòng đổ nát này của đền Văn Thánh để “tẩy não” trước khi được chính thức chuyển sang trại tù khổ sai Bình Điền, hơi giam giữ hàng ngàn sĩ quan quân đội, cán bộ và nhân viên dân chính VNCH, nhiều năm tháng sau đó. Đêm đó có lẽ là đêm dài nhất trong cuộc đời tôi. Sau đó thì đêm nối đêm, trong bóng tối, tôi chờ đợi tiếng chuông để lấy lại thăng bằng sau khi trải qua những ngày nối ngày căng thẳng đương đầu với những cuộc thẩm vấn liên tu bất tận của hết toán công an này đến toán khác. Có một khoảng thời gian, tiếng chuông biến mất. Rồi xuất hiện trở lại. Rồi biến mất.
          Tiếng chuông đêm đó ghi đậm trong tâm tưởng tôi. Mỗi khi gặp điều gì bất như ý trong cuộc đời, tiếng chuông lại trở về, khoan hòa, trầm lắng.

7. Những “con ngựa thành Troy”[2]

“Phong trào đô thị” (Huế) là nhóm chữ được một số trí thức và sinh viên học sinh cộng sản nằm vùng quy cho các hoạt động tranh đấu của họ trong lòng chế độ VNCH. Lâu lâu, những cựu “nằm-vùng-viên” này lại tụ họp nhau để hâm nóng niềm kiêu hãnh “kéo dài” của họ bằng cách nhắc nhở lại những ngày tháng cũ. Một bản tin trên trang “Thừa Thiên-Huế online ngày 9/1/2014 viết: 

Với nhà thơ Võ Quê, nguyên Trưởng khối Báo chí – văn nghệ của Tổng hội Sinh viên trước 1975, thời thanh xuân là những năm tháng sôi nổi khi được hòa mình vào phong trào yêu nước của tuổi trẻ học đường. Thế hệ của ông, hình ảnh những cuộc hội thảo, mít-tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, bãi khóa, xuống đường, đốt xe Mỹ trên đường phố Huế… đòi hòa bình, thống nhất đất nước và những tháng năm ngục tù tại nhà lao Thừa Phủ, Chí Hòa, Côn Đảo… mãi mãi là những hồi ức hào hùng. Quá khứ đầy dũng khí trong một bối cảnh hiểm nguy, gian khổ ấy đã cho họ nhiều kỷ niệm với đầy đủ ý nghĩa vui buồn, khổ đau, hạnh phúc.

“Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh những người bạn tù sơ sinh đồng hành cùng chúng tôi trên chiếc tàu HQ 500 của nhà cầm quyền Sài Gòn với 5 ngày 5 đêm lênh đênh trên biển cả thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật đi từ bến cảng Thuận An ra Côn Đảo”, nhà thơ Võ Quê nhớ lại. Và bài thơ “Gởi người bạn tù sơ sinh” được ông viết trong bối cảnh ấy, bí mật gởi về đất liền đăng trên báo Đối Diện. Đối diện với hiểm nguy, sống chết nhưng bài thơ lại toát lên một tinh thần lạc quan: “Ngủ đi bé thơ!/ đời xanh tươi lắm/ ngoài cánh cửa đề lao trời cao và rộng/ trên mái nhà tù gió lộng trăng thanh/ gió lộng trăng thanh bé lành giấc ngủ/ đợi ba về mở cửa tự do/ đêm nay mẹ lại khoan hò/ đọc trong lời mẹ ngàn pho sử hồng…”.

Và một bài thơ khác của nhà thơ Võ Quê “Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa!”, thai nghén trong phong trào đấu tranh sục sôi của sinh viên những năm 1970 đã được tuổi trẻ học đường miền Nam hồi đó yêu thích. Nó đã được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài Gòn và ở Huế. Bài thơ càng có sức lan tỏa khi nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên phổ nhạc. Hình ảnh những nữ tù quét lá trên đường Lê Lợi, bị khiêng qua nhà xác Bệnh viện Huế trở thành ám ảnh lớn trong ông: Ơi người tù thiếu nữ trưa nay / Đang âm thầm quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi / Hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng / Ta biết lòng em đang rực hồng / biển lửa / Chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên…

(…)

Hồi tưởng những năm tháng có mặt trong phong trào sinh viên yêu nước, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cho rằng, Huế là một trong những trung tâm khởi phát phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh mạnh mẽ và liên tục, được ví như một ngòi nổ, làm bùng phát phong trào đấu tranh yêu nước ở đô thị.

“Theo tôi 5 yếu tố dẫn đến hình thành phong trào là: khát vọng về dân chủ và công bằng xã hội được cuộc đấu tranh của Phật giáo khơi dậy và cuốn hút; sự tự thức tỉnh về ý thức dân tộc khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam; có sự chỉ đạo của tổ chức Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và trong đó có sự chỉ đạo của Thành uỷ Huế; khát vọng hoà bình của tuổi trẻ trong thời điểm chiến tranh, phản chiến đòi hoà bình độc lập thống nhất đất nước thôi thúc thanh niên rất mạnh mẽ; và mọi phong trào của thanh niên sinh viên học sinh Huế liên tục được là nhờ có một tổ chức rất hợp pháp ngay trong xã hội của miền Nam làm ngọn cờ là Tổng hội Sinh viên Huế. Đây chính là trung tâm liên kết giữa sinh viên học sinh với trí thức công chức, người lao động, tiểu thương…”, ông Hoa đúc kết.” [3]

Một bản tin khác trên Tuổi Trẻ ngày 18/10/2015 viết:

Cứ hình dung những người thanh niên, sinh viên học sinh hồi trước năm 1975 trong phong trào đô thị Huế nay cũng tròm trèm sáu, bảy mươi tuổi, bỗng gặp nhau tay bắt mặt mừng, cầm trên tay tập sách dày dặn “nóng hổi” vừa in xong, bảo nhau ký tặng làm lưu niệm… cũng đủ thấy chất sôi nổi ngày xưa quả chưa mất đi trong những con người đặc biệt ấy.

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập cho biết đến nay đã tròn 50 năm ngày ông viết ca khúc Hát cho dân tôi nghe tại giảng đường đại học ở Huế. Cái năm 1965 ấy, khởi đi từ bài này, phong trào đô thị Huế hình thành một dòng chảy “Hát cho đồng bào tôi nghe” lan rộng khắp các đô thị và bùng lên ở Sài Gòn thành sức mạnh đáng kể.

Điểm lại quá trình hình thành bản thảo tập sách Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954-1975, ông Nguyễn Kim Dũng – nguyên bí thư Thành ủy Huế – cho biết việc viết lại lịch sử phong trào đô thị Huế trong những năm chống Mỹ là ý nguyện, mong muốn của nhiều thế hệ lãnh đạo kể từ sau 30-4-1975, tuy nhiên mãi đến gần đây mới thực hiện được. Buổi ra mắt sách hôm nay tại TP.HCM còn có cả đương kim Bí thư Thành ủy Huế Huỳnh Cư và đại diện ban biên soạn vào dự cùng các thành viên phong trào năm xưa.

Ông Lê Văn Thuyên – nguyên chủ tịch Tổng hội sinh viên Huế 1971-1972, đại diện ban biên soạn tập sách – trình bày các phần nội dung và lược thuật những nét chính trong diễn biến phong trào đô thị Huế từ 1954-1975, mà các mốc quan trọng như phong trào năm 1963, tình hình thử lửa năm 1965, cuộc biến động miền Trung năm 1966…

(…)

Ông Trần Hoài – đại diện ban biên soạn – cho biết: “Mỗi thế hệ đều có nhu cầu riêng của thời đại để giải quyết, nhưng chúng ta cùng một tâm nguyện là làm cho đất nước, cho cuộc đời tốt đẹp hơn lên. Bởi thế hệ chúng tôi cũng có nguyện ước là mong đất nước yên ổn để chúng tôi được học hành, trên cơ sở đó đóng góp cho đất nước, để đất nước phát triển có thể sánh vai với thế giới, thế lực nào cản trở khát vọng này là chúng tôi đấu tranh”. [4]

Từ trái: Lê Nhược Thủy (đứng hát); Tôn Thất Lập (đội mũ, đứng hát) – Võ Quê (đội mũ, ngồi) (Hình: L. Điền – Tuổi trẻ online)

Có khá nhiều “nằm vùng viên” nổi tiếng thời đó được nhắc đến trong hai bản tin: Nguyễn Xuân Hoa, Bửu Chỉ, Võ Quê, Phan Hữu Lượng, Trần Hoài, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Thái Ngọc San, Hoàng Thị Thọ, Nguyễn Duy Hiền, Lê Văn Thuyên, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Phú Yên…, trong đó một số đã qua đời như Bửu Chỉ, Tôn Thất Lập, Thái Ngọc San. Hầu hết những khuôn mặt này đều là bạn bè hay người quen kiểu này kiểu khác của tôi, nếu không thì cũng đã từng có lúc ngồi cùng bàn cà phê.

Gạt qua một bên tính cách tuyên truyền, hai bản tin trên cho ta một số thông tin về khung cảnh sinh hoạt dưới thời VNCH. Đó là một xã hội, trong đó, sinh viên học sinh được tổ chức “hội thảo, mít tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, bãi khóa, xuống đường,” không những thế, có khi còn “đốt xe Mỹ trên đường phố Huế, đòi hòa bình, thống nhất đất nước”; thơ tù thì “được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài Gòn và ở Huế”; đoàn văn nghệ được phép thành lập, đi biểu diễn ở các địa điểm công cộng như Giảng đường C, Giảng đường Karate, các trường trung học, chợ Đông Ba, khu dân cư; sinh viên học sinh được ra những tờ báo như “Tiếng Gọi Học Sinh”, “Tiếng Gọi Sinh Viên” , “Sinh Hoạt” hay sử dụng Tổng Hội Sinh Viên Huế, một tổ chức hợp pháp được quy chế tự trị đại học bảo vệ, để lưu trữ tài liệu cộng sản và tổ chức các hoạt động chống chính quyền và chống Mỹ. Tóm lại, đó là một xã hội mở, dành cho người dân nhiều thứ quyền, nhờ đó, người trí thức vừa được hưởng lương nhà nước và sinh viên học sinh vừa được học tập miễn phí, lại vừa được tranh đấu chống chính quyền một cách thoải mái. Sau 1975, tất cả các quyền công dân căn bản nói trên đều bị triệt tiêu: chỉ cần đưa ra một vài ý kiến trên Facebook không vừa lòng quan chức là bị kết tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” với những bản án vô cùng tùy tiện, bất chấp luật pháp, kể cả thứ luật pháp do chính nhà nước cộng sản đề ra. 

Theo các phát biểu nêu ra trong bản tin, động lực thúc đẩy các nằm-vùng-viên là: khát vọng dân chủ và công bằng xã hội, đòi hòa bình, thống nhất, độc lập, chống lao tù, chống nghèo đói, chống các tệ nạn xã hội, muốn đất nước phát triển sánh vai với thế giới. Một “nằm vùng viên” than phiền cảnh “thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật…” của những tù nhân. (Cần nhấn mạnh, những khát vọng như thế là của mọi người, chứ không riêng gì của những “nằm vùng viên”). Điều đó cũng có nghĩa là: nếu cộng sản nắm được chính quyền thì những khát vọng trên sẽ trở thành hiện thực và tất nhiên, các hìện tượng tiêu cực sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tuy nhiên, sau 1975, khi cộng sản nắm toàn quyền sinh sát từ bắc chí nam, tất cả những khát vọng vẫn chỉ là khát vọng; các tệ nạn xã hội, sau gần nửa thế kỷ, vẫn tồn tại một cách dai dẳng với tầm mức sâu rộng hơn trong lúc hình thức lộng quyền, tham nhũng của các đảng viên cộng sản và quan chức từ địa phương tới trong ương, kể cả bộ phận chóp bu, phát triển tràn lan, hoàn toàn bất khả trị. Trước thì đổ lỗi cho Mỹ-Nguỵ, bây giờ đổ lỗi cho ai? Ấy thế mà, trong lúc khá nhiều văn nghệ sĩ cùng lứa tuổi được đào tạo ở miền Bắc cũng như nhiều giới trẻ khác trưởng thành sau 1975 ký tên vào những bản lên tiếng hay viết bài góp ý, lên án các hành vi ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông, vụ Formosa, vụ thảm sát Đồng Tâm, các bản án oan khuất, các vụ tham nhũng tày trời, thì hầu hết các khuôn mặt trong phong trào đô thị, điển hình là các “nằm vùng viên” nói trên, đều hoàn toàn  ngậm miệng. Họ đứng về phía nhà nước và đảng Cộng Sản, tụ họp nhau, nhắm mắt trước hiện thực tồi tệ của đất nước, ôn lại chút quá khứ như một phép “thắng lợi tinh thần” (kiểu AQ của Lỗ Tấn)!

Trước các chính sách trưng thu đất đai, hiện tượng phá rừng, phá núi tràn lan, hơn lúc nào hết, những lời hát cũ ngày nào cần phải được lập lại:

Đất hoang ta phá đất khô ta gầy
đất mang hoa thắm tương lai ta đầy
đất ta ta xới đất ta ta bồi
đất ta ta tới đất ta ta ngồi. (Miên Đức Thắng)

–   Dành lại dòng sông này cho lúa chín khắp đồng xanh
Dành lại thành-phố đó bàn tay nâng cao hòa-bình (Tôn Thất Lập)

Với sự đóng góp xương máu của nhiều thế hệ, rốt cuộc, đảng cộng sản có được tất cả, nhưng nhân dân thì chẳng có gì.

*

Nhưng không phải tất cả những “con ngựa thành Troy” đều giữ mãi niềm tự-hào-như-một-quán-tính đó. Trong thời gian đầu, với tư cách người thắng trận và trở thành những chủ nhân ông mới của thành phố, một số nằm-vùng-viên được đảng bổ nhiệm nắm giữ những vai trò quan trọng của các ty, sở hay các phân khoa, trường học. Họ “hồ hởi phấn khởi”, hãnh diện tiến hành cuộc cách mạng thay đổi lịch sử mà họ đã từng đòi hỏi và mơ ước. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, mọi sự bỗng chững lại. Bộ máy đảng và nhà nước – kẻ chiến thắng thực sự – không hành xử theo thứ cung cách mà họ tưởng tượng. Với thành tích tranh đấu, họ tưởng mình là những người cộng sản tiêu biểu; nhưng đối với bộ máy đó, hóa ra, họ chỉ là những đứa con ngoại hôn. Được trưởng thành dưới chế độ VNCH, họ mang những tố chất của cái xã hội mà họ được giáo dục và đào tạo: lòng yêu chuộng tự do, tinh thần phản kháng, thich bàn cãi và tranh luận để tìm cái đúng, cái sai. Thế nhưng, đối với bộ máy đảng, những tố chất đó hoàn toàn không thích hợp, nếu không muốn nói là “phản động”, là tiêm nhiễm “nọc độc” của chế độ cũ. Họ được la lối, chí trích, rủa sả cái cơ chế đã giành cho họ  quyền được chỉ trích, rủa sả, nhưng không được hành xử quyền đó đối với các đồng chí của mình. Rốt cuộc, những con ngựa thành Troy bị bịt miệng. Hoặc tự bịt miệng mình.

Lần lượt, những chàng sinh viên Huế nhiệt huyết, tỏa sáng trong những cuộc tranh đấu, hội thảo, xuống đường trong chế độ cũ dần dà bị loại khỏi guồng máy. Các vai trò trưởng ty, hiệu trưởng hay một số chức vụ cao cấp nào đó  được “cách mạng” ban phát như một hình thức thưởng công, rốt cuộc, chỉ có tính cách lót đường và lần lượt được thay thế bởi những thành phần nòng cốt, gắn bó thâm căn cố đế với đảng cộng sản. Thất vọng và bất mãn, người thì bỏ Huế vào Sài Gòn làm nghề tư do kiếm sống, người thì lặng lẽ rút chân ra khỏi cơ quan nhà nước, kẻ thì dứt khoát hơn, trả lại thẻ đảng hay tìm cách trốn ra nước ngoài theo phong trào vượt biên hay bảo lãnh. Trong chốn riêng tư, họ không tiếc lời chửi đảng và nhà nước. Anh bạn láng giềng của tôi, người đã bao phen rủ rê tôi vào rừng theo “Mặt trận”, – khi đội mũ cối từ trên rừng về, việc đầu tiên là đập phá ngay cái am thờ trước mặt nhà, để chứng minh tinh thần chống mê tín dị đoan của mình -,  được phong cho giữ một trưởng ty gì đó, nhưng rồi bị thất sủng, thất vọng, một thời gian sau, nhuốm bệnh, chết. Một trí thức trẻ, dòng dõi quan gia, người đã nhiều đêm đến ngủ lại nhà tôi vừa đánh cờ vừa nhỏ nhẹ khuyên tôi nên ủng hộ hòa bình và thống nhất đất nước, được bố trí làm quyền khoa trưởng một phân khoa đại học, bỏ vào Sài Gòn đi bán thuốc Tây. Một nhà thơ, một thời nắm quyền sinh sát một tờ tạp chí địa phương, trả thẻ đảng. Một nhà thơ khác, bỏ học, lên rừng, ra Bắc, có tư tưởng chống chiến tranh, bị giam lỏng, trở về Huế sống không có hộ khẩu. Một giáo sư đại học, người từng được cho sắm vai chủ tịch một lực lượng hữu danh vô thực, chạy chọt ra nước ngoài rồi xin tỵ nạn. [5] Sau khi đi ở tù về, tôi gặp lại một số trong những người bạn “đối thủ” cũ đó với một quan hệ hoàn toàn mới mẻ: tôi là người của chế độ cũ mất đất đứng, họ là những người của chế độ mới, sống trong hụt hẫng. Hình bóng ngày nào của những thanh niên đầy hào khí cách mạng – những người đã từng chết mê chệt với hình ảnh của  “Che” Guevara (1928-1967) và Fidel Castro (1926-2016) – làm thành phố nóng bỏng lên với những lời lên án, kêu gào trong các buổi hội thảo, xuống đường, bây giờ im re, thủ phận, nhu mì như những chiếc bong bóng xì hơi. 

Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam nói chung, rốt cuộc, là một khát khao bị bội phản. Hào khí cách mạng mà họ sử dụng để chống chính quyền miền Nam trở thành một hình thức lấy dây thừng tự trói chính mình, một mặt và mặt khác, là một đóng góp lớn lao đưa đất nước theo con đường đi xuống. Cả miền Nam năng động trước 1975, thoắt một cái, bị nhận chìm theo chiếc thuyền miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Để cuối cùng phải muối mặt đi theo con đường tư bản, thậm chí ngửa tay nhận tất cả mọi hình thức viện trợ – không trừ một thứ gì -, của các nước tư bản, để cứu mình. Cao điểm là, mới đây, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam ngồi chén chú chén anh với Tổng Thống Mỹ, tay trùm sò tư bản, bằng một hiệp ước “Đối Tác Chiến Lược Toàn Diện”. Tờ Tuổi Trẻ lên giọng ca ngợi “Việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên Đối tác chiến lược toàn diện là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về thành quả của một quá trình gây dựng lòng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác ngoại giao.” [6]

Điều này khiến tôi nhớ đến “Trại súc vật” của George Orwell. Có lẽ cũng nên đọc lại trích đoạn cuối của tác phẩm đầy tính tiên tri này:

Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ. Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị  nâng li chúc mừng. (…) Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li. ʺThưa các ngài!ʺ, Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, ʺThưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng.ʺ  Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc  đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu. Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại. Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng ʺĐồng chíʺ. Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi. Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.

ʺThưa các ngài!ʺ, Napoleon kết luận, ʺTôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!ʺ. Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra. Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc. Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để  ý  đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.”[7]

Không giống như nước bạn Cuba, nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã làm “cách mạng” bằng con đường “phản cách mạng”: xuôi tay cho “mệ” tư bản nuốt! Và tự hào y như thể họ đã làm cuộc cách mạng vô sản thành công. 

Thái Bá Tân đặt một câu hỏi vô cùng chí lý:

Để có được cộng sản
Trên đất nước Việt Nam,
Hai triệu người phải chết,
Chiến tranh hàng chục năm.
Nay họ học tư bản 
Để làm giàu, lạ thay.
Vậy vì sao phải chết
Hai triệu con người này? [8] 

Nhưng đó không phải là điều người cộng sản quan tâm. Cộng sản là cộng sản, vốn là thể, đã là thế và sẽ như thế. Có lẽ khái niệm chính xác nhất để diễn tả cái cơ chế lạ lùng đó là hình ảnh của một “khối đặc” mà Lê Đình Nhất Lang gọi là “Bọn tao” (4/2011). [9]]

Bọn tao là một khối đặc
Bọn tao già đi nhưng không lệ thuộc vào một niên đại
Bọn tao không chấp nhận sự thông suốt
Bởi sự thông suốt đe dọa tính đặc của bọn tao

Bọn tao ngăn cản mọi sự túa ra
Bọn tao bưng bít
Bởi sự túa ra làm cho bọn tao hở

Bọn tao chống mọi lực đẩy
Bọn tao trì kéo
Bọn tao kết chùm
Bọn tao vinh danh quán tính và thần thoại quá trình quánh

Bọn tao hút hết mọi điều hiển nhiên vào chất ruột đen kịt
Từ lớp bụi mỏng phập phù của chứng cứ
Cho tới những hạt sạn gân gổ của phản biện
Trộn chúng vào làm ruột bọn tao đen thêm

Bọn tao xử thế bằng cách lăn tròn
Đó là truyền thống của bọn tao
Lăn tròn làm tất cả nhỏ đi
Nhưng tất cả sẽ không phát hiện ra sự nhỏ đi
Cho nên làm gì có sự nhỏ đi

“Bọn tao” diễn tả được tất cả tính chất then chốt của khối đặc “cộng sản”: không chấp nhận sự thông suốt, bưng bít, chống mọi lực đẩy, vinh danh quán tính, lăn tròn…Để đối phó với sự thay đổi tất yếu sẽ phải xảy ra, khối “bọn tao” ấy nghĩ đến một giải pháp rất…cộng sản: phơi khô thành một xác ướp.

Bọn tao biết trước sau rồi cũng bị toát hơi
Hoặc nhão ra dưới sức vặn khổng lồ của những viễn kiến nhân loại
Bọn tao nghĩ tới chuyện phơi khô
Để dành và không bao giờ rữa
Không bao giờ được rữa

Trần Doãn Nho

*Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.1)

https://diendantheky.wpengine.com/tran-doan-nho-noi-hue-p-1/

*Trần Doãn Nho: Nỗi Huế (P.2)

https://diendantheky.wpengine.com/tran-doan-nho-noi-hue-p-2/

——————

 [1] Những đoạn in nghiêng là lời trích từ các bài hát của văn công cộng sản hay từ các bản tin hay thông cáo được phát thanh từ đài phát thanh hay từ các loa phường gắn ở khắp nơi trong thành phố.

 [2] Theo thần thoại Hy lạp, “con ngựa thành Troy” là một con ngựa gỗ rỗng ruột, trong đó, một số lính Hy Lạp ẩn mình, bí mật lọt vào cửa và chiếm được thành Troy, nhờ thế mà cuộc bao vây thành 10 năm mới chấm dứt. Nghĩa ẩn dụ: một người hay vật bí mật tham gia một tổ chức để tấn công phá hoại nó từ bên trong.

 [3] Ngọc Hà, Hồi ức hào hùng về những tháng năm không ngủ, trang mạng “Thừa Thiên-Huế online”:

 [4] Lam Điền, Phong trào đô thị Huế bên trang sách sử, trang mạng “Tuổi Trẻ online”

 [5] Vì những lý do riêng, xin được miễn nêu tên những nhân vật nêu ra. Tuy nhiên, những ai có mặt ở Huế vào thời gian đó, đều  ít nhiều biết rõ những sự kiện này.

 [6] TS Nguyễn Thành Trung, Tuổi Trẻ online, ngày 14/9/2023. 

 [7] “Trại Súc Vật”, Phan Minh Ngọc dịch và giới thiệu.

 [8] Thái Bá Tân, Những câu nói nổi tiếng về Cộng Sản, Trang Đào Viên

 [9] Lê Đình Nhất Lang