Trần Mộng Tú: Người Muôn Năm Cũ
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Ngày 6 tháng 8 vừa qua tức là ngày mồng 4 tháng 7 âm lịch, Hà Chính, con trai duy nhất của thi sĩ Hồ Dzếnh và vợ đang sang Mỹ chơi và ở tại nhà chúng tôi, hai em xin phép chị Tú cho em được thắp nén nhang tưởng niệm Ba em.
Con trai của Hồ Dzếnh và con dâu cùng trưởng thành ở Hà Nội, họ là hai giáo viên dạy Toán. Cả hai đều yêu thích văn chương nhưng không có sở trường sáng tác. Ở tuổi hưu trí, hàng năm hai người để thời giờ du lịch các nơi và thăm con trai đang sống và làm việc ở Đức (cháu nội duy nhất của Hồ Dzếnh.)
Một mâm cỗ cúng đơn giản được hai chị em (tôi và vợ Chính) bày ra, Đơn sơ thôi nhưng cũng đầy đủ hoa hương làm giỗ cúng cho thi sĩ, tác giả nổi tiếng của những bài thơ, bài văn thời tiền chiến.
Không có ảnh mang theo, chúng tôi mang những tập sách của tác giả đặt chồng lên nhau, và trên cùng mở ra một trang có hình tác giả. Với tất cả lòng thành kính chúng tôi mở băng nhạc có bài thơ “Chiều” đã được phổ nhạc lên: tiếng thơ được hát quyện với khói nhang và lòng thành, tưởng niệm một thi sĩ mang hai dòng máu Việt Hoa đã được sinh ra và thành danh trên đất Việt.
Chúng tôi một thời ở quê nhà, trên đất nước VNCH đã lớn lên, mơ mộng với những bài thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh, (một thi sĩ sau năm 1954 đã vào gia đình họ Trần của chúng tôi (*)
Dưới đây là bài thơ Màu cây trong khói còn có tên là Chiều, đã được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc thành bài hát Chiều.
Màu cây trong khói
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây…
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…
***
Một bài thơ khác, Ngập ngừng, đã được Trần Thiện Thanh phổ nhạc thành bài hát Chuyện hẹn hò, nhạc sĩ Anh Bằng thành bài hát Anh cứ hẹn, và nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm thành bài hát cùng tên.
Ngập ngừng
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần…
Tôi nói khẽ: Gớm, làm sao nhớ thế?
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi! tình có nghĩa gì đâu?
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mong manh như nắng lụa
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi!
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách – cố nhiên! – nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau… lơ lửng… với nghìn xưa…
Trong không gian êm đềm của mùa Hè Seattle, một bàn thờ đơn sơ nhưng trang nghiêm và ấm áp tưởng niệm một thi sĩ tài hoa, một trong những “người muôn năm cũ”.
Trần Mộng Tú
9-8-2024
(*) Năm 1954 Hồ Dzếnh tục huyền với Bà Hồng Nhật (Bà Hồng Nhật là vợ góa của thi sĩ Trần Trung Phương-chú ruột của Trần Mộng Tú)
Và nhân dịp Tưởng Niệm ngày mất của ông: 13/8/1991, xin mời quý độc giả đọc lại bài viết cũ của tôi để hiểu câu chuyện ông trở thành người trong gia đình họ Trần của chúng tôi như thế nào.
Một Mảnh Đời Hồ Dzếnh
Vào năm 1954, gia đình tôi mới di cư vào Nam được vài tháng, nhận được một lá thư của Hồ Dzếnh (thời gian đầu của năm 1954-1955 Bắc-Nam còn nhận được thư). Lúc đó tôi còn bé chưa biết ông là một thi sĩ, Ba tôi nói: Có người đàn ông Trung Hoa muốn lấy thím Phương. Thím Phương của chúng tôi là vợ góa của chú Trần Trung Phương, người có tập thơ cho học trò Mấy Vần Tươi Sáng, mà từ nhỏ anh chị em chúng tôi đã thuộc lòng nhiều bài trong đó. Khi học ở Tiểu Học được học lại ở trong lớp như những bài học thuộc lòng.
Chiều qua trăng ngã xuống hồ
Bầy sao nghịch ngợm đổ xô xuống tìm
Trên không có mấy con chim
Vội vàng đâm bổ đi tìm bóng trăng.
(Vội Vàng– Trần Trung Phương)
Lá thư của chú Dzếnh, tôi không được đọc, chỉ nghe Ba nói là một lá thư với lời lẽ hết sức lễ phép, xin phép anh chị cho em được thay anh Phương vào làm em anh chị trong gia đình. Ba tôi vốn sẵn hiền lành, nên đọc thư cảm động đến ngồi ngây người ra, không biết trả lời sao cho xứng với lá thư đó.
Chú Trần Trung Phương của tôi khi còn sống viết văn, làm báo cho thiếu nhi, hoạt động chống Pháp, bị bắt, tra tấn trong tù. Khi được thả ra thì ho lao chết ngày 7/6/1945. Lúc đó con trai mới 6 tháng tuổi. Thím Hồng Nhật, một người đàn bà có học, có nhan sắc, yêu văn chương, được tất cả các bạn văn của chồng kính nể. Mỗi năm làm giỗ chồng, thím mặc khăn áo đại tang làm giỗ, mời các bạn Văn/ Họa Sĩ của chồng như: Mạnh Quỳnh, Hữu Thanh, Tống Ngọc, Tam Lang, Khái Hưng v.v… đến dự. Ai cũng kính phục.
Thím ở vậy nuôi con, cho tới khi gặp Hồ Dzếnh. Cũng nên nhắc lại, thím Hồng Nhật cũng viết văn, làm thơ, lúc trẻ Hồng Nhật có gửi bài cho Phong Hóa và Ngày Nay, là thời điểm Trần Trung Phương đang phụ trách trang Thiếu Nhi của hai tờ báo này. Duyên văn nghệ đưa đến cuộc hôn nhân đẹp nhưng quá ngắn (không đầy 2 năm).
Khi chú mất, tôi cũng chỉ hơn em Cường một tuổi nên không biết gì cả.
Lớn lên mới biết thím là một phụ nữ đảm đang, qua bao nghịch cảnh, góa chồng, ly loạn vẫn gây dựng lại được những gì đã mất. Hiệu Sách Bình Minh 200 A, Phố Huế, nức tiếng ở Hà Nội một thời.
Vào năm 1951 thím Hồng Nhật muốn tái bản tập thơ Mấy Vần Tươi Sáng, nên có vào Nam nhờ Hồ Dzếnh đỡ đầu. Hồ Dzếnh cũng đang trong cảnh gà trống nuôi con rất vất vả. Hai người cảm thông nhau cùng hoàn cảnh góa bụa, cùng có hai đứa con trai nhỏ, cùng yêu văn chương nên nhanh chóng yêu nhau. Đầu năm 1954 Hồ Dzếnh trở về Hà Nội, cuối năm đó lập lại gia đình với thím Hồng Nhật.
Giai Thoại kể lại: Hôm đám cưới, các bạn văn cũ của chú Phương đến dự đông đủ, có một người ra câu đối: “Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ.” Không ai đối được.
Cũng có thêm giai thoại nữa về cái tên Hồ Dzếnh, bạn hữu hay gọi đùa là Hồ Dính và có ra câu đối: Hồ Dính, dính hồ, hồ chẳng dính, có người đối là Ngọc Giao, giao ngọc, ngọc không giao.
Sau năm 1975 chú Dzếnh và Thím Hồng Nhật có vào Nam tìm gia đình anh chị, thì cha mẹ và chúng tôi đã sang Mỹ. Khi tôi liên lạc được với chú thím bằng thư thì cha mẹ tôi đã qua đời. Lá thư cuối tôi nhận được, chú nhờ tôi lấy tiền nhuận bút của những nhà sách bên Mỹ đã tái bản và phát hành những tác phẩm của chú nhưng không nhà xuất bản nào trả một đồng (Các nhà xuất bản hồi đó đều nghĩ việc họ tái xuất bản sách Việt ở hải ngoại là một đặc ân họ ban phát cho tác giả.)
Năm 1998 lần đầu tiên tôi về Việt Nam thì chú Dzếnh đã mất được 7 năm (1991). Buổi tối, nằm ngủ chung với thím trên chiếc giường của hai người, nghe thím kể lại: lúc biết mình sắp mất, chú đòi về nhà, mất trên cái giường của vợ chồng. Câu cuối cùng của chú là lời gọi: Mình ơi! trước khi nhắm mắt.
Mình vừa là chị là em
Tấm lòng người mẹ, trái tim bạn đời
Mai này tới phút chia đôi
Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau?
Xót mình đã lắm thương đau
Tôi xin làm kẻ đi sau đỡ mình
Cuộc đời đâu phải phù sinh
Nước non chan chứa nghĩa tình, mình ơi!
(Bài Thơ Tặng Vợ – Hồ Dzếnh)
Chú Dzếnh muốn đi sau để tránh cảnh thương đau cho thím, nhưng chú lại là người đi trước. Trên chiếc giường gỗ ở ngôi nhà 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, trong bóng tối mờ mờ của ngọn đèn đêm ngoài phố hắt vào, tôi nằm cạnh thím, nắm chặt bàn tay già nua của thím, nhìn lên đình màn, hình dung ra khuôn mặt thanh nhã với nụ cười hiền lành ở bức ảnh trên bàn thờ của một thi sĩ Trung Hoa mang trái tim Việt Nam trong lồng ngực, tôi nói thầm trong lòng: Cám ơn thi sĩ đã vào trong gia đình họ Trần Trung.
Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những bài thơ học trò ngây thơ trong Mấy Vần Tươi Sáng của thi sĩ Trần Trung Phương và tôi nghĩ đó chính là những hạt giống văn chương đã gieo vào mảnh đất hồn tôi để sau này mọc lên hoa trái. Rồi tiếp theo đó là thơ và văn chương trong sáng, giản dị của Hồ Dzếnh ảnh hưởng tới văn chương và cách viết của tôi.
Tôi cám ơn Thượng Đế đã cho tôi cả hai ông chú tuyệt vời.
Trần Mộng Tú
25-7-2017