Trương Nhân Tuấn: Nhìn lại chiến lược của Trung Quốc trên biển Đông

Trung Quốc chưa bao giờ là một cường quốc về biển

Các cuộc thủy chiến cận đại của Trung Quốc đối đầu với một quốc gia khác, ta có thể kể tới là trận hải chiến trên sông Mân và phong tỏa Đài Loan với hải quân Pháp năm 1885 và trận Áp lục năm 1895 với Nhật. Cả hai trận hải quân Trung Quốc, lúc đó là nhà Thanh, đều thua tơi tả. Toàn bộ lực lượng hải quân của Trung Quốc bị tiêu diệt. Ta cũng không thể không nhắc đến các cuộc xâm lăng Việt Nam của các triều đại người Hán. Trong tất cả các cuộc thủy chiến với Việt Nam, hải quân người Hán đều thua Việt Nam.

Suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc, cho tới năm 1945 Trung Quốc chưa hề có tham vọng về biển, như kiểm soát các hải lộ quốc tế cũng như tham vọng chinh phục hay thống trị không gian biển. Hầu hết các hoạt động của Trung Quốc về biển chỉ tựu trung ở các ngư dân đánh cá ven bờ. Ngoài ra những sinh hoạt về biển khác của Trung Quốc đều thuộc về hải tặc.

Tức là, trên phương diện lịch sử, Trung Quốc không hề có bất kỳ bằng chứng nào gọi là thuyết phục để có thể chứng minh được rằng họ có chủ quyền “bất khả tranh biện” ở hai vùng lãnh thổ là các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, những đảo không có người ở thường trực. Trung Quốc cũng không có bằng chứng nào để chứng minh “quyền lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông thông qua tấm bản đồ 9 đoạn hình chữ U mà Việt Nam gọi là “đường lưỡi bò”.

Vậy mà từ chỗ không có “mảnh đất cắm dùi” trên khu vực biển Đông đến nay Trung Quốc đã kiểm soát trên thực tế hơn một vùng rộng lớn hải phận Biển Đông, cũng như một số lãnh thổ trên biển, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và một số căn cứ quân sự rải rác ở vùng biển Trường Sa.

Trung Quốc vẫn không hài lòng với những gì đã chiếm được của Việt Nam năm 1956, 1974 và 1988, Trung Quốc còn đòi chủ quyền toàn bộ các đảo thuộc Trường Sa, yêu sách chủ quyền ở các đảo, các bãi ngầm cận bờ biển các quốc gia khác.

Đối với Mã lai, Trung Quốc cho rằng Trung Quốc có chủ quyền ở bãi san hô ngầm, tên quốc tế là James, tên Trung Quốc là bãi Tăng mẫu. Bãi này cách bờ biển Mã lai 80 km nhưng cách đảo Hải nam đến 1800 km. Hiển nhiên bãi James thuộc về thềm lục địa pháp lý của Mã lai.

Đối với Việt Nam, ta cũng thấy điều tương tự là Trung Quốc yêu sách bãi Tư chính và Vũng mây cũng như những bãi cạn thuộc thềm lục địa phía nam của Việt Nam, ngoài khơi Vũng Tàu. Các bãi này hiển nhiên ở thuộc thềm lục địa tự nhiên của Việt Nam và các bãi này cách Trung Quốc trên ngàn cây số.

Các yêu sách của Trung Quốc ở Tư chính hay ở bãi Tăng mẫu rõ ràng là phi lý, đi ngược lại tập quán quốc tế về các thủ tục chiếm hữu và tuyên bố chủ quyền lãnh thổ. Bãi Tư chính cũng như bãi Tăng mẫu là các bãi ngầm, không phải là lãnh thổ để quốc gia có thể chiếm hữu.

Đối với Phi, Trung Quốc yêu sách và chiếm bãi Scarborough, bãi này cách đảo Luzon của Phi khoảng 215 cây số, cách bờ biển Trung Quốc khoảng 800 cây số. Trung Quốc cũng chiếm đá Vành khăn, đá này cách đảo Palawan của Phi khoảng 135 hải lý (khoảng 239 cây số) và cách đảo Hải nam 1100 cây số.

Trung Quốc cũng yêu sách các bãi ngầm của Phi như bãi Cỏ rong, việc này tương tự trường hợp bãi Tư chính của Việt Nam hay bãi Tăng mẫu của Mã lai. Thái độ của Trung Quốc rõ ràng là ngang ngược, bất chấp luật pháp cũng như tập quán quốc tế.

Trung Quốc cũng tranh chấp với Indonesia về chủ quyền đảo Natuna, qua việc mập mờ vẽ đường chữ U có bao gồm đảo Natuna.

Ngoài ra Trung Quốc còn dựa trên cái gọi là “quyền lịch sử” để yêu sách khoảng 80% hải phận Biển Đông, thể hiện qua tấm bản đồ chữ U chín đoạn.

Đó là ta chưa nói tới những tranh chấp giữa Trung Quốc và Nhật về chủ quyền quần đảo Điếu Ngư cũng như tranh chấp vùng biển do chồng lấn vùng kinh tế độc quyền giữa các đảo của Nhật và bờ biển Trung Quốc.

Ta cũng có thể liệt kê vô đây tranh chấp giữa Ấn độ và Trung Quốc về các vùng lãnh thổ, như ở vùng Cachemir, hay các tranh chấp dọc theo đường biên giới gọi là đường MacMahon.

Ngoài ra Trung Quốc còn lăm le “thống nhứt” Đài loan, bằng phương tiện hòa bình hay bằng chiến tranh, buộc thế giới chấp nhận một hiện trạng mới.

Câu hỏi đặt ra là Trung Quốc đã sử dụng những chiến thuật, chiến lược nào để thành công chiếm hữu các đảo ở Biển Đông cũng như yêu sách vùng biển rộng lớn đến 80% Biển Đông?

Những chiến lược, thủ đoạn của Trung Quốc trên biển Đông

Theo tôi, nhiều vô số, thủ đoạn của Trung Quốc có rất nhiều. Theo thời kỳ, tùy theo đối tượng quốc gia mà Trung Quốc có những thủ đoạn khác nhau.

Trước hết ta có thể nhắc tới các thủ thuật phổ thông, báo chí thường nói nhiều, như chiến thuật “xắt lát xa la mi”, còn gọi là “chiến thuật lột bắp cải”, Việt Nam gọi là chiến thuật tầm ăn dâu. Sau đó là chiến thuật “vùng xám”. Kế đến là “tam chủng chiến pháp”.

Chiến thuật “xắt lát xa la mi”, hay “lột bắp cải” mà Việt Nam gọi là “tầm ăn dâu”. Trung Quốc  bước từng bước thay đổi hiện trạng, đưa các quốc gia vào sự “việc đã rồi”, cuối cùng phải chấp nhận một hiện trạng mới.

Thí dụ điển hình cho chiến thuật “xắt lát xa la mi”, vụ xây dựng các đảo nhân tạo trên các bãi đá chiếm của Việt Nam năm 1988.

Bước thứ nhứt Trung Quốc chiếm đảo năm 1988. Ta nên biết 7 bãi đá chiếm của Việt Nam năm 1988, có cái là đá nổi thường trực, có bãi chìm, có bãi lúc nổi lúc chìm tùy theo mực nước thủy triều. Theo luật quốc tế thì một quốc gia chỉ có thể chiếm hữu và tuyên bố chủ quyền ở một lãnh thổ. Các bãi chìm hay các bãi lúc nổi lúc chìm không phải là lãnh thổ. Trung Quốc  chiếm các bãi đá như Subi, đá Vành khăn, đá Tư nghĩa… vốn là những bãi chìm, không phải là lãnh thổ, trên nguyên tắc là vi phạm luật quốc tế.

Bước thứ hai xây dựng đảo vào các năm 2013, 2014. Trung Quốc đã biến một thực thể địa lý không phải là đảo trở thành một “đảo nhân tạo”.

Hiện trạng pháp lý của thực thể địa lý, nếu là đá thì nó chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Nếu thực thể chìm hay lúc chìm lúc nổi thì đá này không có hải phận.

Trung Quốc xây dựng các thực thể thành “đảo”, Trung Quốc thay đổi hiện trạng pháp lý các đá thành các đảo sau đó yêu sách lãnh hải, vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa 200 hải lý như qui định của luật biển.

Bước thứ ba Trung Quốc quân sự hóa các đảo năm 2017. Từng bước một, bắp cải lột từng lá, tầm ăn dâu từ từ, hay cắt lát xúc xích, Trung Quốc đặt các quốc gia “việc đã rồi”. Bây giờ các quốc gia trên thế giới phải nhìn nhận hiện trạng mới: đó là 7 căn cứ quân sự của Trung Quốc rải rác ở khu vực biển Trường Sa.

Trung Quốc cũng tuần tự làm thay đổi hiện trạng và quân sự hóa các đảo ở Hoàng Sa. Trung Quốc xây dựng đảo Phú lâm thành một trung tâm quân sự quan trọng. Trung Quốc cũng bồi đắp và quân sự hóa các đảo thuộc nhóm Nguyệt thiềm chiếm của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 như đảo Tri tôn. Việc này quan trọng vì đảo Tri tôn gần Việt Nam, việc quân sự hóa đảo này đe dọa các tỉnh miền trung như Đà nẵng, Quảng ngãi v.v.. Có lẽ vì vậy mà mới đây Việt Nam có chủ trương cho xây phi trường trên đảo Lý sơn để đối phó. Ngoài ra Trung Quốc cũng bồi đắp và xây dựng thành các căn cứ quân sự ở đảo Quang hòa cũng như ở các bãi đá như bãi Xa cừ, đá Hải sâm, đá Ốc hoa v.v… các bãi đá nhỏ xíu này trở thành các căn cứ quân sự mang tính chiến lược, bao gồm hệ thống ra đa phòng không và sân bay. Dĩ nhiên các căn cứ quân sự ở các đảo Hoàng Sa chí có mục đích duy nhứt là đe dọa Việt Nam.

Qua các thủ thuật gây ra “chuyện đã rồi”, buộc thế giới chấp nhận hiện trạng

 mới. Hải quân Trung Quốc bây giờ dựa lên các căn cứ quân sự có thể áp chế tất cả các quốc gia trong khu vực như Việt Nam, Phi, Mã lai, Indonesia v.v…

Nhắc lại là cho tới năm 1945, hải quân Trung Quốc không đi xa hơn vùng biển lân cận đảo Hải nam. Ngay cả vụ chiến đảo Ba bình thuộc Trường Sa của Việt Nam, hải quân Trung Quốc  thời đó phải mượn tàu hải quân Mỹ.

Thuật ngữ “Vùng xám” để chỉ một tình trạng tranh tối tranh sáng, không phải chiến tranh cũng không thực sự hòa bình.

Ở Biển Đông thuật từ “vùng xám” được sử dụng để chỉ một tình trạng pháp lý mập mờ, không có luật hay luật lệ chưa rõ rệt vì chưa được một định chế pháp lý có thẩm quyền cắt nghĩa hay qui định một cách cụ thể.

Tại Biển Đông Trung Quốc lợi dụng những điểm mờ trong bộ luật Quốc tế về Biển để giải thích luật lệ theo chiều lợi ích của Trung Quốc. Nhứt là ở điều 121 định nghĩa về đảo của bộ Luật quốc tế về Biển. Sự mơ hồ ở điều 121 là không phân biệt giữa “đảo” và “đá”. Các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa, nếu thực sự là đảo thì đảo này có hiệu lực hải phận kinh tế độc quyền và thềm lục địa 200 hải lý. Nếu không phải đảo mà chỉ là “đá”, các đảo này chỉ có lãnh hải 12 hải lý.

Trung Quốc cho rằng tất cả các đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc yêu sách chủ quyền, tất cả đều là “đảo”, được hưởng qui chế như là đảo thật sự. Việt Nam cũng có yêu sách về hiệu lực các đảo tương tự như Trung Quốc. Vì vậy Việt Nam cũng sẽ rất kẹt nếu bây giờ nói rằng các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực tế chỉ là đá, không có đảo nào có hiệu lực của đảo.

Ngay cả các bãi đá chìm đá nổi mà Trung Quốc chiếm của Việt Nam năm 1988, sau đó xây dựng thành các đảo nhân tạo và Trung Quốc củng cố thành các căn cứ không quân, hải quân. Trung Quốc cũng yêu sách vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa 200 hải lý ở các đảo nhân tạo này.

Do sự mập mờ của Luật, yêu sách này của Trung Quốc tạo ra sự chồng lấn vùng biển và thềm lục địa đối với tất cả các quốc gia chung quanh Biển Đông.

Trung Quốc còn dựa lên sự mập mờ của bộ luật Biển để áp đặt các yêu sách như “vùng biển lịch sử”, “vùng biển quần đảo”…

Cái gọi là “quyền lịch sử” của Trung Quốc rõ ràng thể hiện tính mập mờ của luật pháp quốc tế. Để biện hộ « quyền lịch sử » của Trung Quốc trên biển Đông, các học giả Trung Quốc  thường nhắc đến các yếu tố : 1/ quan hệ thuợng quốc – chư hầu giữa Việt Nam và Trung Quốc. 2/ từ ngàn năm nay, ngư dân người Hoa vẫn đánh cá ở khu vực biển Đông. 3/ đường 9 đoạn chữ U, kế thừa từ chính phủ Trung Hoa Dân quốc. 4/ Trung Quốc có chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa do nội dung của hòa ước tháng 4-1952 ký kết với Nhật. Các học giả Trung Quốc  cho rằng những sự kiện này chứng minh Trung Quốc có « quyền lịch sử » ở vùng biển này.

Nhưng khi phía Trung Quốc vịn vào yếu tố “thượng quốc – chư hầu” thì Trung Quốc đã mặc nhiên nhìn nhận Biển Đông đã từng là của Việt Nam. Vì Việt Nam là chư hầu của Trung Quốc do đó biển này thuộc Trung Quốc. Vấn đề là quan hệ “thượng quốc – chư hầu” giữa Trung Quốc và Việt Nam đã chấm dứt qua Hiệp ước hòa bình và hữu nghị giữa Pháp và nhà Thanh năm 1885. Thanh triều nhìn nhận Việt Nam không còn là chư hầu của nữa.

Còn việc cho rằng ngàn năm nay ngư dân Trung Quốc đánh cá ở đó thì cũng

 ngàn năm qua dân Việt Nam và nhiều dân tộc khác cũng đánh cá ở đó. Trong khi việc đánh cá của ngư dân không nói lên được điều gì.

Còn việc kế thừa Đài Loan, thì trước 1945, Nhật sát nhập Trường Sa vào Đài loan và cho một số lính gốc Đài loan canh giữ một số đảo. Nhưng người ta không thể kế thừa cái gì mà nhà nước tiền nhiệm đã từ bỏ. Nhật đã từ bỏ các đảo này theo tinh thần hòa ước San Francisco 1951. Trung Quốc không thế kế thừa cái mà Đài loan không có.

Trong khi luật quốc tế không nhìn nhận cái gọi là “quyền lịch sử”.

Thuật ngữ « quyền lịch sử » có lẽ lần đầu sử dụng tại một số nước Châu Phi. Nguyên nhân bắt nguồn từ các cuộc phân định biên giới tự tiện nhằm phân chia vùng ảnh hưởng giữa các đế quốc thực dân như Anh, Pháp. Hậu quả việc này làm cho nhiều bộ tộc bị phân chia làm hai, làm ba… Nhiều bộ tộc lớn lại không có lãnh thổ, hay nhiều bộ tộc khác nhau, thậm chí thù nghịch với nhau, bị gộp lại chung sống trong một quốc gia.

Sau khi các nước Châu Phi được trả độc lập, đường biên giới do các cường quốc thực dân thành lập trước kia lại được « luật quốc tế » công nhận. Các cường quốc trên thế giới e ngại việc đặt lại đường biên giới sẽ làm bùng nổ một cuộc chiến khác : cuộc chiến giữa các chủng tộc, hay giữa hai nước thuộc địa cũ, nhằm tranh dành lãnh thổ. Nguyên tắc « uti possidetis » trở thành tập quán quốc tế. Ý nghĩa nguyên tắc này là « trước (khi độc lập) anh làm chủ nó thì bây giờ anh tiếp tục làm chủ nó ».

Nhưng, trong vài trường hợp, một dân tộc đã sinh sống, đã chăn nuôi trên đồng cỏ, uống nước ở nguồn nước, trên một vùng đất từ bao ngàn năm nay. Bây giờ họ bị ngăn cấm không được đến nơi đó, với lý do khó có thể chấp nhận, là đất đó nay thuộc về một quốc gia khác. Những xung đột như thế đưa đến đổ máu. Các bộ tộc đó lên tiếng đòi lại « quyền » của họ: « quyền lịch sử ».

Thuật ngữ « quyền lịch sử – droit historique » từ đó ra đời.

Nhưng ở một số vụ kiện về tranh chấp lãnh thổ được Tòa án Công lý Quốc tế (CIJ) phân xử, hai nguyên tắc « Uti possidetis » và “effectivité” luôn được áp dụng. « Quyền lịch sử » không được tập quán quốc tế công nhận.

Vì vậy ta thấy hiện nay Trung Quốc cố gắng củng cố cái gọi là “quyền lịch sử” của họ bằng các biện pháp mang tính pháp lý khác, đó là “effectivité”. Ta có thể kể ra các việc như “lịnh cấm đánh cá”, việc tái tổ chức hành chánh bằng cách đặt ra khu Tam sa để kiểm soát Hoàng Sa và Trường Sa… là các hành vi hành sử chủ quyền (effectivité).

Tuy nhiên, nhờ phản ứng của Phi sau khi bị Trung Quốc chiếm đá Scarborough, năm 2013 Phi đơn phương kiện Trung Quốc theo thủ tục đã qui định ở mục VII của Luật quốc tế về Biển. Mục đích vụ kiện, phần chính là yêu cầu Tòa “giải thích và hướng dẫn cách áp dụng luật Biển”. Tòa Trọng tài thường trực ở La Haye, Hòa lan đã được chỉ định phân xử. Đến 12 tháng Bảy 2016, Tòa Trọng tài thường trực (PCA) ở La Haye đã ra phán quyết rằng các đảo ở Trường Sa không có cái nào hội đủ tiêu chuẩn là đảo. Ngay cả đảo Ba bình, đảo lớn nhứt Trường Sa cũng bị Tòa liệt vào “đá”. Tức là các đảo ở Trường Sa không có cái nào là đảo để các quốc gia có thể yêu sách vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa 200 hải lý. Tòa cũng phán rằng yêu sách “vùng biển lịch sử” theo bản đồ chữ U chín đoạn của Trung Quốc không phù hợp với luật biển hiện thời. Tòa cũng phán rằng yêu sách “vùng nước quần đảo” của Trung Quốc  chỉ áp dụng cho “quốc gia quần đảo” mà thôi. Trung Quốc không phải là quốc gia quần đảo. Luật biển không có khoản nào nói về “vùng biển quần đảo”.

Tức là, nhờ phán quyết của Tòa, khái niệm mù mờ về “quyền lịch sử trên biển” đã được sáng tỏ. Đồng thời tư cách pháp thân các thực thể ở Trường Sa cũng được xác định rõ ràng. Tòa phán rằng không có đảo nào thuộc Trường Sa được xem là đảo. Tất cả đều là “đá”.

Vùng biển Trường Sa không còn là “vùng xám” nữa. Tuyên bố của các quốc gia như Mỹ và các quốc gia Châu Âu về việc “bảo vệ trật tự quốc tế trên nền tảng luật lệ” nhờ phán quyết này nên có thể áp dụng được ở Biển Đông. Đối với các quốc gia như Mỹ và các chung quanh Biển Đông, phán quyết của tòa PCA vì có mục đích “giải thích và hướng dẫn cách áp dụng luật”, do đó phán quyết cũng là “luật”.

Vấn đề là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của tòa, không hầu tòa và do đó không tuân thủ phán quyết.

Tam chủng chiến pháp của Trung Quốc bao gồm ba mặt trận với ba phương thức chiến tranh, gồm chiến tranh tâm lý, chiến tranh truyền thông và chiến tranh pháp lý. Chiến pháp này đã được Trung Quốc sử dụng từ rất lâu, vài trăm năm trước đây. Bây giờ đem ra sử dụng ở Biển Đông vào các năm 2000.

Về chiến tranh tâm lý, bằng nhiều biện pháp như răn đe, gây sợ hãi, mục đích

 nhằm làm rối loạn khả năng đối phó của đối thủ, khiến đối phương phải thoái lui hay nhượng bộ.

Ta thấy các vụ tập trận của hải quân, không quân Trung Quốc trên Biển Đông hay các vùng biển lân cận Đài loan, tập đánh trận giả chiếm đảo Điếu ngư… mục đích làm cho lãnh đạo các quốc gia đối thủ khủng hoảng tinh thần, nghĩ rằng không thể chống được sức mạnh của Trung Quốc, do đó phải nhượng bộ các yêu sách của Trung Quốc.

Trung Quốc cũng thường khoe khả năng của các phi đạn chống hạm, chống

 tiếp cận… mục đích răn đe hải quân Mỹ. Trung Quốc cũng khoe các tiến bộ về khoa học kỹ thuật về quốc phòng. Trung Quốc cũng sử dụng sức mạnh kinh tế để gây ảnh hưởng lên lãnh đạo cũng như các nhà đầu tư của quốc gia đối phương. Hệ quả của chiến tranh tâm lý có thể khiến cho lãnh đạo các quốc gia có tranh chấp với với Trung Quốc phải thay đổi sách lược đối với Trung Quốc. Hoặc các quốc gia này phải xa Mỹ và thân cận với Trung Quốc. Ta thấy trường hợp đã xảy ra ở một số quốc gia ASEAN như Việt Nam, Phi, Mã lai, Singapour v.v… Các quốc gia này hoặc là thân Trung Quốc hoặc là chọn thái độ “không theo phe” để tránh làm phật lòng Trung Quốc.

Thứ hai là “chiến tranh truyền thông”. Tổng thống Thiệu hồi đó có nói câu chân lý để đời rằng: đừng nghe những gì cộng sản nói. Thật là như vậy. Cộng sản nói mười điều thì hết 9 điều rưỡi là nói láo.

Trong vụ bằng chứng chủ quyền các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, rõ ràng Trung Quốc chỉ có “phịa sử”. Vấn đề là học giả Trung Quốc nói láo đến lức độ siêu quần, họ tuyên truyền hay đến đổi cả thế giới đều tin rằng Trung Quốc  có bằng chứng về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc từ không có gì ở Biển Đông Trung Quốc tìm cách biến không có tranh chấp trở thành có tranh chấp. Rồi từ việc có tranh chấp Trung Quốc sử dụng vũ lực để cưỡng đoạt lãnh thổ của Việt Nam. Thủ đoạn này Trung Quốc lập đi lặp lại nhiều lần trong lịch sử để chiếm đoạt lãnh thổ của Việt Nam.

Dĩ nhiên việc này Trung Quốc sẽ không thể, hay khó có thể thành công nếu lãnh đạo Việt Nam không quá dại dột. Vấn đề là phịa sử của Trung Quốc, hay thủ đoạn biến không có thành có của Trung Quốc, thế giới điều tin vì các hành vi này được củng cố, bằng các hành vi, hay thái độ của Việt Nam. Công hàm 1958 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thí dụ điển hình.

Thứ ba là chiến tranh pháp lý. Thực tế và lịch sử cho ta thấy rằng ảnh hưởng Trung Quốc chưa bao giờ vượt xa hơn đảo Hải nam. Chỉ trong vài mươi năm Trung Quốc đã xây dựng được một đội ngũ chuyên gia về luật pháp. Họ viết ra đủ thứ các bộ luật về biển. Năm 1992 Trung Quốc ra luật về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp. Năm 1998 ra Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngày 3/7/2007, Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam để trực tiếp quản lý ba quần đảo: Hoàng Sa, Trung Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa). Mới đây Trung Quốc ra luật về Hải cảnh, theo đó Trung Quốc cho phép lực lượng này có quyền sử dụng các loại vũ khí nặng để chế ngự các đối tác xâm phạm vùng biển của Trung Quốc.

Dựa trên các bộ luật 1998 về thềm lục địa Trung Quốc ra sức ép buộc các công ty quốc tế phải rút lui, từ bỏ quyền được khai thác dầu khí ở những lô dầu mà địa điểm có chồng lấn với đường lưỡi bò. Việt Nam có rất nhiều kinh nghiệm với luật này của Trung Quốc. Vụ Repsol rút lui dự án Cá rồng đỏ, hay vụ Vạn an bắc từ thập niên 90 thế kỷ trước. Bây giờ với luật mới về hải cảnh, ta có thể tiên đoán rằng từ nay sắp tới các quốc gia như Việt Nam, Phi, Mã lai, Indonesia… sẽ gặp phiền phức với đội hải cảnh của Trung Quốc.

Trung Quốc còn ra luật cấm đánh cá hàng năm ở Biển Đông. Ngư dân quốc gia nào không tuân thủ thì sẽ bị tàu hải giám của Trung Quốc chận bắt, tịch thâu máy móc, lưới, các dụng cụ cần thiết để đánh cá. Đôi lúc tàu Trung Quốc  đâm chìm, đôi lúc bắt chủ tàu đóng tiền phạt.

Các thủ thuật này tập quán quốc tế gọi là “effectivité”, Trung Quốc hành xử chủ quyền quốc gia để bảo vệ tài nguyên cá. Ngư dân Việt Nam hay ngư dân các nước nếu tuân thủ theo thì Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận thuộc thẩm quyền của Trung Quốc  những vùng biển mà Trung Quốc ra luật cấm.

Ta cũng không thể không nhắc đến việc sử dụng đạo quân gọi là “dân quân biển”. Đây là tập thể nhân sự cùng tàu bè hàng chục ngàn chiếc tàu, quân không ra quân, dân không ra dân. Khi cần thì họ là quân, lúc không cần họ là ngư dân.

Nhắc lại là Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 trước tiên là nhờ vào tập thể dân quân biển. Các vụ lùm xùm hiện nay tại đá Ba đầu, thuộc cụm đảo Sinh tồn hay tại đá Sandy Cay, tức là đá Hoài Ân gần đảo Thị tứ. Trong năm 1921 một thời gian dài Trung Quốc đã cho vài trăm chiếc tàu của lực lượng ngư dân biển để bao vây hai thực thể địa lý này. Việc này gây ra sự phản đối kịch liệt của Phi.

Ta cũng không thể không xếp kế hoạch “vành đai, con đường” cùng với Ngân hàng xây dựng hạ tầng cơ sở của Trung Quốc vào diện thủ đoạn của Trung Quốc để đạt mục tiêu. Qua kế hoạch này Trung Quốc đã gài một số các quốc gia Á, Phi, hay một vài quốc gia Châu Âu lọt vô bẫy nợ của Trung Quốc. Thủ đoạn này Trung Quốc cho đối tượng dễ dàng vay tiền để xây hạ tầng cơ sở như cảng biển, đường xá, cầu cống v.v… Khi khi mắc nợ nhiều, và lúc gặp khủng hoảng, quốc gia không thể trả nợ. Trung Quốc ép các quốc gia này phải nhượng có thời hạn, thông thường là 100 năm, các hải cảng cho Trung Quốc. Một số các quốc gia như Madagasca, Kenya, Mozambique, Hy lạp, Macédoine… phải nhượng quyền sử dụng lãnh thổ cho Trung Quốc.

Ngoài ra Trung Quốc còn sử dụng nhiều thủ thuật khác, như các việc như mua chuộc các quan chức của các quốc gia khác bằng tiền bạc vật chất, cho tới việc dùng miếng mồi kinh tế để chiêu dụ các quôc gia đồng thuận các yêu sách của Trung Quốc. Ta nên biết nền tảng của công pháp quốc tế là sự đồng thuận giữa các quốc gia. Ta thấy Trung Quốc chi phối nhiều quốc gia trong khối ASEAN, từ Phi, Mã lai, Campuchia, Lào, Miến điện, Thái lan… Ngay cả Việt Nam cũng bị Trung Quốc chi phối, qua các sợi dây vô hình là ý thức hệ và mô hình chính trị. Vì vậy trong khối ASEAN, ảnh hưởng của Trung Quốc  rất lớn mà việc này có thể làm cho bộ Qui tắc ứng xử (COC) nếu có ra đời thì nội dung của nó sẽ nghiên về lợi ích của Trung Quốc.

Tuy nhiên, các thủ đoạn của Trung Quốc sẽ thay đổi tùy theo đối tượng quốc gia. Mềm nắn rắn buông. Trung Quốc đối xứ với Việt Nam khác với Phi và Mã lai. Phản ứng của Việt Nam, tức đối sách của Việt Nam đối với Trung Quốc cũng khác với thái độ của Phi hay Mã lai hoặc Indonesia.

Mỗi quốc gia là một trường hợp riêng biệt, không thể gộp chung hết được.

Thủ đoạn của Trung Quốc đối với Việt Nam ta có thể kể nhiều kỳ, viết bằng nhiều cuốn sách. Từ trên biên giới trên đất liền, Trung Quốc đã từng giở những thủ đoạn vô sỉ, những âm mưu thâm độc để chiếm đoạt lãnh thổ Việt Nam.

Thủ đoạn thường thấy sử dụng, lặp đi lặp lại nhiều lần, đó là lấy tên một địa danh của Trung Quốc để đặt cho một vùng lãnh thổ của Việt Nam. Sau đó hô hoán rằng đất đó của Trung Quốc. Ta thấy Trung Quốc đã sử dụng chiến thuật “không có tranh chấp biến thành có tranh chấp” đã từ rất lâu.

Một số thí dụ về thủ đoạn của Trung Quốc đã thấy trong cuộc phân định biên giới với Pháp mà các việc này xem ra không khác với các thủ đoạn mà Trung Quốc bày ra nhằm chiếm trọn Biển Đông.

Thí dụ Việt Nam mất vùng đất Tụ long cho Trung Quốc, một vùng đất có rất nhiều quặng mỏ quí giá. Có hai lý do. Mọi người có đọc lịch sử thì biết biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc ở khu vực này là sông Đổ chú. Khi phân định biên giới, vì không rành địa giới của Việt Nam, các viên chức Pháp đã bị gạt vì các viên quan Trung Quốc đã chỉ định sông Lô (Pháp gọi là Rivière Claire), cách xa về phía nam, là sông Đổ chú. Đến khi viên chức Pháp biết được, vì người Pháp không ngu, họ hỏi dân bản xứ để biết biên giới thật ở đâu. Thì các viên quan Trung Quốc nói rằng sông Đổ chú thật là “tiểu Đổ chú hà”, còn sông Lô là “đại Đổ chú hà”. Rốt cục Việt Nam mất vùng đất này cho Trung Quốc vì phía Trung Quốc  hối lộ viên chức Pháp, đổi đất đai lấy lợi ích kinh tế.

Thí dụ khác về Phân mao lĩnh. Biên bản phân định biên giới « Từ Trúc Sơn đến Chí Mã » đính kèm công ước phân định biên giới ký ngày 29-3-1887 có ghi là đường biên giới đi qua núi Phân mao. Điều này phù hợp với biên giới lịch sử giữa hai nước. Vấn đề là núi Phân mao ở gần Khâm châu, cách đường biên giới hiện nay hàng trăm cây số. Khi ra phân giới trên thực địa, các quan chức Trung Hoa bèn chỉ định một ngọn núi vô danh khác ở xa về phía nam rồi nói với viên chức Pháp rằng núi đó là núi Phân mao. Phía Trung Quốc còn xây miếu Phục ba tướng quân gần đó để thêm phần tin tưởng. Vấn đề là quan chức Pháp họ tham khảo địa chí Trung Hoa, nên gian kế của phía Trung Hoa bị bại lộ. Lúc đó họ mới nói rằng núi Phân mao thật là “tiểu Phân mao”, núi ở đây là đại Phân mao. Rốt cục quan chức Trung Hoa giở thủ đoạn mua chuộc quan chức Pháp, đổi đất đai lấy lợi ích kinh tế khiến Việt Nam mất hàng ngàn cây số vuông đất.

Trở lại vụ Hoàng Sa. Hoàng Sa có tên Hoa là Thất Châu Dương. Tên Thất Châu Dương là có thật, nhưng theo thư tịch của Trung Quốc thì nó là tên của các đảo gần Văn Xương, đảo Hải Nam.

Trung Quốc  lấy tên này đặt cho Hoàng Sa của Việt Nam, lập lại thủ thuật mà họ đã dành đất của Việt Nam như ở Tụ Long, Kiến Duyên, Bát Tràng mà tôi vừa trình bày.

Tức là lấy tên một địa danh của Trung Quốc đặt cho các vùng lãnh thổ của Việt Nam rồi hô hoán lên nói là đất của Trung Quốc.

Tài liệu chứng minh của hồ sơ Bộ Ngoại giao Trung Quốc là hai tác phẩm Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn và Phù Nam Truyện của Khang Thái từ thời Tam Quốc (220-265) đồng thời một danh sách 6 tác phẩm từ đời Tống đến đời Thanh (thế kỷ 11 đến thế kỷ thứ 19) : Mộng Lương Lục, Ðảo Di Chí Lược, Ðông Tây Dương Khảo, Thuận Phong Tương Tống, Chỉ Nam Chinh Pháp), và Hải Quốc Văn Kiến Lục. Hồ sơ này xác nhận rằng những tác phẩm trên đây « kể lại những cuộc hành trình của người Hoa đi đến Tây Sa và Nam Sa và những hoạt động sản xuất mà họ đã thực hiện từ hơn ngàn năm » và « đã đặt tên lần lượt cho hai quần đảo nầy với những tên sau đây : Cửu Nhũ Loa Châu, Thạnh Ðường, Thiên Lý Thạnh Ðường, Vạn Lý Thạnh Ðường, Trường Sa, Thiên Lý Trường-Sa, Vạn Lý Trường Sa v.v…

Theo các nghiên cứu của các học giả Việt Nam như Phạm Quang Ngọc thì các địa danh Vạn Lý Trường Sa, Thạch Đường, Thiên Lý Thạch Đường, Cữu Nhũ Loa Châu… chỉ là những địa danh phiếm, chỉ các vùng biển, đảo nguy hiểm, không thuộc Trung Quốc. Còn ông Phạm hoàng Quân thì nói rằng các dịa danh Thiên Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường (tức Tây Sa và Nam Sa theo cách nghĩ và gọi của Trung Quốc ngày nay) ở kế cận đảo Hải nam, về phía Đông.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc vì vậy đã ngụy tạo hồ sơ, cắt một đoạn từ sách này để dán vào đó một đoạn khác, nhằm ngụy tạo bằng chứng để giành lấy Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Nhưng thủ đoạn chính của Trung Quốc là tạo sự tranh chấp ở một vùng không có tranh chấp. Bằng cách lấy tên địa danh nơi nào đó của Trung Quốc  để đặt cho Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, vì bịa ra, do đó tài liệu của Trung Quốc có nhiều mâu thuẫn không chấp nhận được.

Trương Nhân Tuấn