Vương Thanh: Dòng thơ diễm tình của Lý Thương Ẩn

Paradise Flycatchers and Wisteria, Ren Yi  (1840–1896)

Trong vườn thơ Ðường Thi, nhà thơ Lý Thương Ẩn, sinh thời mạt Ðường, đứng riêng một phương trời thơ với dòng diễm tình thi. Thơ của ông, từ điệu du dương, nhiều điển tích, hình ảnh đẹp, xử dụng triệt để nghĩa bóng, nên lời thơ rất cô đọng và gợi ý. Sáu bài thơ vô đề của ông là những thi tình phẩm tuyệt vời. Tương truyền thuở trẻ ông học đạo trên núi, theo phép tu tiên, và yêu một nàng đạo sĩ nhưng mối tình gặp nhiều trắc trở, rồi sau đó ông lại quen và thương hai chị em tên Phi Loan, Khinh Phụng, chỉ hận là hai nàng lại bị tuyển vào cung đình. Những cuộc tình dang dở này là nguồn gốc của những bài thơ vô đề. Với những vần thơ tuyệt đẹp, tình ý tha thiết, đượm nét ảo huyền, thơ của ông trở thành bất hủ, và được chuyển dịch qua nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Ðức, Ý, v.v.

Có một câu thơ rất hay “Con tằm dẫu thác hãy còn vương tơ” mà người viết đã nhập tâm không biết tự thuở nào. Nghe như một câu ca dao và không chừng cũng đã là ca dao. Câu thơ ấy vốn xuất xứ từ một vần thơ trong một bài “Vô đề” của Lý Thương Ẩn. Bài ấy như sau:

Vô đề (tương kiến thì nan…)

Tương kiến thì nan biệt diệc nan

Đông phong vô lực bách hoa tàn

Xuân tàm đáo tử, ti phương tận

Lạp chúc thành hôi, lệ thủy can

Hiểu kính, đãn sầu vân mấn cải

Dạ ngâm, ưng giác nguyệt quang hàn

Bồng Lai thử khứ vô đa lộ

Thanh điểu ân cần vị thám khan

Dịch nghĩa:

1. Gặp nhau khó, xa nhau cũng khó

2. Gió xuân (gió hướng đông) không đủ sức để trăm hoa úa tàn

3. Tằm xuân đến chết, tơ mới hết

4. Ngọn nến thành tro, lệ mới khô

5. Sáng sớm soi gương, buồn cho tóc mây thay đổi

6. Ðêm ngâm thơ, chợt nhận thấy ánh trăng là lạnh lẽo

7. Bồng Lai tìm đến nhưng không nhiều lối. (Chỉ thấy một hai lối vô, mà bị các bậc trưởng bối của nàng chặn cửa mất rồi).

8. Chim xanh hãy vì ta mà ân cần thăm dò

Bản dịch của Vương Thanh:

Khó được gặp nhau, cũng khó xa

Gió Đông chi để úa ngàn hoa

Con tằm đến chết, tơ chưa dứt

Ngọn nến thành tro, lệ hết nhòa

Sáng ngắm gương soi buồn tóc bạc

Đêm ngâm thơ lạnh bóng trăng tà

Bồng Lai đường đến đâu bao nẻo

Nhờ cánh chim xanh hỏi giúp ta

Lý Thương Ẩn sở trường về luật thi. Ða số những bài thơ của ông là đường luật, phần còn lại theo thể tứ tuyệt và ngũ ngôn. Sau đây là một bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng của ông:

Thường Nga

Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm

Trường hà tiệm lạc, hiểu tinh trầm

Thường Nga ưng hối thâu linh dược

Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm

Người viết rất thích câu cuối trong bài này. Câu “Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm” đọc lên, nghe âm điệu vừa mạnh mẽ, tình ý lại triền miên. Sau đây, xin giới thiệu bài Vô Ðề (Lai thị không ngôn…) 

Vô đề (Lai thị không ngôn…)

Lai thị không ngôn khứ tuyệt tung

Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung

Mộng vi viễn biệt đề nan hoán

Thư bị thôi thành mặc vị nùng

Lạp chiếu bán lung kim phỉ thuý

Xạ huân vi độ tú phù dung

Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn

Cánh cách Bồng sơn nhất vạn trùng

Dịch nghĩa:

1. Ðến thì chỉ nói vu vơ, đi thì biệt tích

2. Trên lầu, trăng xế, chuông điểm canh năm

3. Trong mộng xa cách nhau, kêu khó thành tiếng

4. Thư giục mau xong, mực còn chưa đậm.

5. Ánh nến mờ soi con chim trả bằng đồng

6. Mùi xạ hương thoang thoảng trên (vải, màn, lụa,…) được thêu hoa sen

7. Chàng Lưu hận non Bồng xa xôi

8. Nay ta lại cách non Bồng một vạn tầng

Bản dịch của Vuơng Thanh:

Gặp nhau, chỉ nói vu vơ

Ra đi biền biệt, mịt mù tăm hơi

Trăng tà, gác vắng chờ Người

Canh năm đã điểm, ôi lời hứa suông !

Trong mơ, xa cách nghìn trùng

Mộng khôn thành tiếng, lòng buồn không thôi

Thư tình ai vội đôi lời

Chữ chưa ráo mực, bóng người phương nao

Nến soi cánh phụng nghiêng chào

Mùi hương còn thoảng lụa đào thêu sen

Chàng Lưu thương tiếc non tiên

Bồng sơn nay lại vạn triền núi xa…

Bây giờ xin giới thiệu một bài thơ được coi là bí ẩn vào bậc nhất trong vườn thơ Ðường Thi mà thi hào Nguyễn Du đã dịch mấy câu trong truyện Kiều như sau:

Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh

Khúc đâu êm ái xuân tình

Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên

Trong như ngọc dỏ duềnh quyên

Ấm như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông…

Những câu thơ trên tả tiếng đàn của Thúy Kiều trong ngày sum họp với Kim Trọng sau mười sáu năm xa cách. Tình ý vui vẻ không giống như nguyên tác đượm nét u hoài. Có lẽ Nguyễn Du muốn nói lên cái ý “tẻ vui cũng tại lòng này”. Vì cùng một bản nhạc ấy, mà trước kia khi nghe Kiều dạo đàn, Kim Trọng đã phải than rằng : “Rằng hay thì thật là hay, nghe vô ngậm đắng nuốt cay thế nào”. Sau đây là nguyên tác của khúc đàn đó:

Cẩm Sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền

Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên

Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp

Vọng đế xuân tâm ký đỗ quyên

Thương hải, nguyệt minh châu hữu lệ

Lam Ðiền, nhật noãn ngọc sinh yên

Thử tình khả đãi thành truy ức

Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên

Dịch nghĩa :

1. Ðàn gấm cớ sao lại năm mươi dây

2. Mỗi dây mỗi trục nhớ thời tuổi trẻ

3. Trang sinh trong giấc mộng sớm, hóa thành cánh bướm

4. Tấm lòng xuân của vua Thục đế sống lại trong tiếng hót của chim quyên

5. Biển rộng, trăng sáng, hạt châu long lanh nước mắt

6. Lam Ðiền, ngày nắng ấm, ngọc bốc khói

7. Mối tình này có thể trở thành một kỷ niệm đẹp (để ta thường hoài niệm)

8. Chỉ tiếc là thuở ấy lòng ta đầy nỗi buồn rầu, chán nản

Vương Thanh phỏng dịch :

Ðàn gấm, năm mươi sợi ảo huyền

Từng dây, từng trục gọi hoa niên

Trang sinh, mộng sớm mơ hồn bướm

Thục đế, lòng xuân gửi tiếng quyên

Trăng sáng, lệ châu nhòa Bích Hải

Nắng hanh, khói ngọc tỏa Lam Ðiền

Tình này ôn lại còn thương cảm

Một thuở đau lòng chữ nợ duyên

Ðàn thuở ấy chỉ có hai mươi lăm dây, năm mươi năm tuổi xuân thì lại là quá dài, cho nên chỉ hai câu đầu đã là đề tài bàn luận khó mà đưa đến một giải nghĩa thỏa mãn mọi người. Câu thứ năm “châu hữu lệ” dùng điển tích thần thoại những nàng người cá ở Nam Hải, khi khóc, những giọt nước mắt kết đọng thành hạt châu. Câu thứ sáu là một đề tài để bàn luận, suy gẫm. Lam điền nên hiểu theo nghĩa “ruộng xanh” hay nên hiểu theo nghĩa một địa danh? Lam Ðiền cũng là tên một nơi chuyên sản xuất ngọc. Còn ngọc bốc khói lại là như thế nào.

Nếu hiểu theo nghĩa “ruộng xanh” thì câu sáu có thể giải thích như sau. Nắng ấm buổi sớm, những giọt sương lóng lánh như ngọc trên ruộng xanh bốc lên thành khói. Tuy nhiên trong thơ, hạt châu đã có thể kết đọng từ nước mắt, thì ngọc bốc khói cũng có thể là từ một điển tích nào đó mà thôi.

Theo thiển ý người viết, tác giả mượn tiếng đàn để tả về mối tình với một thiếu nữ. Chàng thì đa tình như Thục Ðế còn nàng thì mơ mộng như một Lâm Ðại Ngọc khóc hoa rơi, với đôi mắt sâu thăm thẳm như biển cả, long lanh những giọt châu lệ của những nàng tiên người cá khi xa cách người yêu. Tiếc là mối tình tuy đẹp như huyền thoại, nhưng lại mong manh như khói ngọc Lam Ðiền, để cho thi nhân ôm một mối hận lòng, và để lại cho ngàn sau những vần thơ diễm tuyệt.

Vương Thanh 

Bamboo under Spring Rain, Xia Chang  (1388–1470)

Xem thêm:

  1. youtube video:  Tương Kiến Thì Nan… phổ nhạc với tiếng hát của danh ca Đồng Lệ, và chuyển ngữ của Vương Thanh:https://www.youtube.com/watch?v=pCPA3lw9nmg2.

youtube video:  nhạc phổ áng thơ Cẩm Sắt của Lý Thương Ẩn, Trần Gia trình bày, VT chuyển ngữ qua tiếng Việt: https://www.youtube.com/watch?v=_0TsEQdD774