Ngự Thuyết: Biệt Ly (Đôi bạn)
Biệt ly! Hai chữ ngắn ngủi này xuất hiện rất nhiều trong văn, thơ, nhạc. Và dĩ nhiên trong tiếng nói hàng ngày. Đông, Tây, Kim, Cổ đều có nó. Nó là nỗi ám ảnh dai dẳng của con người, khi ẩn khi hiện, nhưng không bao giờ dứt. Nó đan quyện, chằng chịt, đổ vỡ, đứt lìa, nối tiếp. Biệt ly tuổi thơ …, biệt ly tình yêu …, biệt ly quê hương …, biệt ly thời gian, không gian. Cuối cùng biệt ly cuộc sống để đi vào một cõi vĩnh hằng, hay một chốn vô định nào đó.
Cần gì phải đến sân ga, bến xe, bến đò, sân bay mới gặp biệt ly. Biệt ly vẫn diễn ra ngay trên con đường, trên dòng sông, trong đám bèo nổi mây trôi, trong chiếc lá rụng, trong tiếng chim kêu. Ngay cả trong cơn gió, đám khói, đợt sóng. Có chuyển động là có biệt ly.
Gặp biệt ly? Một lối nói nghịch lý? Không, không phải thế. Khoảng 80 năm về trước, trong thơ của Xuân Diệu, một nhà thơ nhiều sáng tạo, đã có những câu:
Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt
(người viết tô đậm)
Hay rõ hơn:
Tôi dạo tìm thơ gặp biệt ly
(người viết tô đậm)
Người viết bài này đã có lần đề cập đến biệt ly trong thơ cổ, trong Chinh Phụ Ngâm, Đoạn Trường Tân Thanh, và trong Thơ Mới tiền chiến. Nay xin mạo muội nói thêm.
Trước hết, xin đề cập đến Tản Đà với biệt ly giữa người tiên và kẻ tục.
Biệt ly diễn ra ở cõi tiên khá lạ lùng.
Có lẽ vì thẹn thùng, hay muốn làm ra vẻ cao đạo, hay phong tục có khác, cung cách có khác, khi biệt ly, những nàng tiên không đích thân tiễn đưa, không một giọt nước mắt, không bịn rịn chia tay. Tuy thế cũng kín đáo rắc lá đào xuống lối đi làm dấu cho hai chàng Lưu Nguyễn có nhớ cảnh tiên mà trở lại thì sẽ dễ tìm đường. Rồi sai dòng suối trôi theo tiễn, chim oanh bay theo đưa. Và cho “Cái hạc bay lên vút tận trời” để có thể nhìn xa theo dõi hình bóng hai chàng đang lầm lũi quay về một cõi tục nào đó. Ngàn năm sau có buồn nhớ mối tình xưa thì đã có ánh trăng suông sánh vai làm bạn:
Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai
Suối tiễn, oanh đưa, những ngậm ngùi
Nửa năm tiên cảnh
Một bước trần ai
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt
Nước chảy, huê trôi
Cái hạc bay lên vút tận trời
Trời đất từ đây xa cách mãi
Cửa động
Đầu non
Đường lối cũ
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
(Tống Biệt – Tản Đà)
Biệt ly nơi cõi tục gần gũi với ta hơn. Nỗi đau rất thầm lặng, kín đáo trong thời chiến của hai vợ chồng yêu nhau mà không được gặp nhau, chỉ có ngôi Vườn Xưa làm chứng nhân – những chiếc lá như môi thầm gọi, nước giếng sâu như gương soi lẻ bóng – nhưng lại lan tỏa ra khắp không gian, tạo nên mối cảm xúc lai láng, bồi hồi như không bao giờ dứt. Lời thơ tuồng như thản nhiên, lạnh lùng, mà lại vô cùng xót xa, hiu hắt:
một ngày xuân em trở lại nhà
nghe mẹ nói anh có về anh hái ổi
em nhìn lên vòm cây gió thổi
lá như môi thầm thĩ gọi anh về
lần sau anh trở lại một ngày hè
nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
nước như gương soi lẻ bóng hình anh
…
(Vườn Xưa – Tế Hanh)
Nhưng không phải chỉ trong tình yêu đôi lứa mới có biệt ly. Mẹ xa con, tiễn con đi lấy chồng, “Đưa con ra đến cửa buồng thôi”, đó cũng là biệt ly. Khuyên con đừng khóc, nhưng mẹ?
Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không!
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi! Các chị trông!
…
Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi.
(Lòng Mẹ – Nguyễn Bính)
Nhìn vào lịch sử nước nhà, cũng gặp nhiều biệt ly, những biệt ly không kém phần bi thiết. Trường hợp Công Chúa Huyền Trân là một. Hơn 700 năm về trước (1306) công chúa xa lìa cung khuyết ngàn dặm ra đi đem thân đổi lấy Châu Ô, Châu Ri của Chiêm Thành. Câu chuyện đó đã được hậu thế từ đời này qua đời khác nhắc nhở, biết ơn, thương cảm. Trong một bài ca Huế, không biết ai là tác giả, theo điệu Nam Ai ra đời cách đây trên dưới một thế kỷ, lời ca và điệu nhạc quyện vào nhau thành tiếng than vãn não nùng:
Nước non ngàn dặm
Ra đi
Cái tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Ly
Đắng cay vì đương độ xuân thì …
…
Má hồng da tuyết
Quyết liều như hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn theo chì
Khúc ly ca
Sao còn mường tượng nghe gì
Thấy chim hồng nhạn bay đi …
Trên đây là biệt ly trong quá khứ, trong những bài thơ vốn mang sẵn cái điệu buồn muôn thuở quen thuộc. Nay trong thơ tự do, thơ không vần, thơ tân hình v.v … biệt ly vẫn là đề tài thường được nhắc đến. Nhưng, như có luồng gió lạ thổi vào, ngôn ngữ của biệt ly nay khác hẳn xưa. Nó mới mẻ, sinh động, sắc bén, đa dạng.
Thơ Thanh Tâm Tuyền chẳng hạn. Trên một quê hương thống khổ, điêu linh, tan tác, trước một cuộc sống bấp bênh, vô vọng, bế tắc, biệt ly và chia lìa, tan vỡ trở thành một ám ảnh không rời. Đang quấn quýt bên nhau, đã sợ xa nhau:
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hy vọng
Nên anh dìu em đi xa
Đi đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắt thương đau
….
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới. [1]
(Dạ Khúc – Thanh Tâm Tuyền)
Nguyên Sa thì biệt ly trong hụt hẫng, ngơ ngác, băn khoăn. Bỗng nhớ nhan đề một bài thơ, rất tiếc không nhớ ai là tác giả: Anh đi giời xưa đổ. Vâng, người đi mang theo tất cả, mang cả tôi theo, và cả một trời xưa cũng không còn. Tiễn người, tôi biệt ly tôi:
Người về đêm nay hay đêm mai
Người sắp đi chưa hay đi rồi
Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi
…
Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ:
Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?
(Tiễn Biệt – Nguyên Sa)

Và dưới đây là biệt ly trong một bài thơ tân hình thức. Trong cái hỗn loạn, náo nhiệt của đô thị, những dòng xe chen chúc, xe nào anh trong đó, trên những xa lộ dài dằng dặc, dưới ánh mặt trời nung nấu, nỗi cô đơn càng hiện lên rõ rệt. Vâng, không phải chỉ sống nơi vắng vẻ mới cảm thấy lẻ loi. Lắm khi càng đông, càng cô đơn, nếu thiếu một người. Dường như nhà thơ lãng mạn Pháp Lamartine đã nói gần như vậy. Những câu thơ ngập ngừng, đứt quãng, gián đoạn, nghe như những tiếng nấc thổn thức cố nén mà không được. Những thanh âm nghẹn ngào ấy đã được diễn tả rất linh động bằng thủ pháp chấm câu đột ngột, và lối vắt dòng [2]. Dưới đây là toàn bài thơ đặc biệt này:
Buổi sáng, trên xa lộ
dài và rộng, không còn
anh bên cạnh, những dòng
xe tấp nập, những con
đường đi về đâu mà
thênh thang nỗi nhớ. Phía
trước mặt, màu đỏ của
mặt trời đốt cháy nỗi
cô đơn cực nóng, những
đam mê một thời khao
khát, anh ở đâu? Có
hay một người đang tìm
anh, tìm lại hạnh phúc
của đời mình đã để
vụt bay. Xa lộ, đoàn
xe nối nhau bất tận,
những màu xe vượt qua
mặt, xe nào anh trong
đó, vùng nào anh đang
đi sao nỡ vội xa
nhau …?
(Mai Phương – Đi Tìm Nơi Mặt Trời Mọc)
Đấy là biệt ly trong một số thơ, và một thoáng nhạc trong một bài ca Huế. Rất nhiều ca khúc tân nhạc cũng lấy biệt ly làm đề tài.
*
Thế trong văn xuôi?
Cùng với thế hệ của người viết bài này, và cả mấy thế hệ trước và sau, có lẽ không ai không nhớ một bài văn xuôi lớp Sơ Đẳng, tức lớp Ba bây giờ, trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư ra đời cách đây gần một thế kỷ (Hầu hết các bài học trong bộ Giáo Khoa Thư giá trị ấy đều để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng chúng ta). Đó là bài “Kẻ ở người đi”.
Hồi còn học lớp ba, bé bỏng, có biết biệt ly là gì đâu. Đọc bài văn đó cảm thấy buồn buồn, hay hay, và cũng thích thú khi ngắm nghía bức hình minh họa: Con đường đất trong làng nằm ven sông, phía trái là lũy tre, phía phải là hai chiếc thuyền nhỏ đang cắm sào, và ở giữa là một gia đình đông đảo gồm cả “kẻ ăn người ở trong nhà”, tất cả nhìn theo chiếc thuyền xa xa đã giương buồm. Và những cánh tay vẫy, đặc biệt có cánh tay tí hon của em bé đang được mẹ “bồng nách” cũng vẫy theo.
Dưới đây là đoạn kết:
“Thuyền nhổ sào, ai nấy đều chúc cho tôi được thuận buồm xuôi gió, bình yên khỏe mạnh. Thuyền đã đi xa, mà tôi còn đứng nhìn trở lại, nhìn cho mãi đến lúc không trông thấy nhà nữa mới thôi. Ôi! Cái cảnh biệt ly sao mà buồn vậy!”
Những năm lên trung học, bắt đầu làm quen với Tự Lực Văn Đoàn, những Văn Đoàn khác, và một số tiểu thuyết tiếng Pháp, tiếng Anh, tầm nhìn được mở rộng thêm. Thì gặp Đôi Bạn. Trong Tự Lực Văn Đoàn có hai truyện dài, nhưng đều khá mỏng, có thể xem như những áng thơ xuôi trường thiên, hồn thơ man mác, bàng bạc từ đầu truyện đến cuối truyện. Đó là Hồn Bướm Mơ Tiên chỉ hơn 100 trang của Khái Hưng, và Đôi Bạn chưa tới 200 trang của Nhất Linh.
Đôi Bạn là cuốn sách mà tôi đã hơn một lần quay trở lại tìm đọc. Mỗi lần quay lại, thấy nó khác trước. Nó buồn hơn, hoang mang hơn. Nhất là cái nhan đề “Đôi Bạn”. Đôi bạn thông thường là chỉ dấu của sự gần gũi, khăng khít, gắn bó, của hai người. Nhưng ở đây “Đôi Bạn” lại là biệt ly. Hầu như đoạn nào trong cuốn sách đó cũng đều nói lên nỗi biệt ly. Hầu như nhân vật chính là Dũng luôn luôn có dáng dấp của một người sắp lên đường.
Nhưng Đôi Bạn là ai? Là hai người yêu nhau, là Dũng và Loan. Loan, người yêu của mối tình đầu, của quê hương, của tuổi thơ mộng, của Dũng.
Dũng không thể nào quên Loan. Khi biệt ly, vì thế, nỗi buồn đau càng tăng thêm gấp bội. Bởi vì Dũng đã yêu Loan như yêu quê hương:
Chàng mỉm cười nói đùa:
–Phải đi về vì hai hôm đã nhớ nhà rồi.
Câu nói đùa nhưng cũng là câu nói thật. Dũng nghiệm ra rằng lần nào cũng vậy, hễ đi đâu một vài ngày là chàng đã thấy nẩy ra cái ý muốn về nhà để được gần cạnh Loan. Gia đình, quê hương chàng yêu mến chính vì nơi đó là nơi chàng với Loan trong bao lâu đã cùng thở một bầu không khí, đã cùng ngắm những cảnh sắc thay đổi hết mùa này sang mùa khác, năm này sang năm khác.
Quê hương và tuổi thơ là chất keo buộc chặt tình yêu đôi lứa. Điều đó được nhiều lần nhắc đi nhắc lại trong cuốn truyện. Làm nhớ Hàn Mạc Tử với “Tình Quê” trong đó ngay cả đối với những ai đã vì một lý do gì phải cách nhau ngàn vạn dặm, dù muốn quên tất cả lời thề ước dưới trăng, quên những lúc bên nhau trên bờ liễu, dưới cành lê, dù cố quên tình phu thê, nhưng trong đáy lòng cũng cảm thấy đau đớn não nề khi quê hương lên tiếng gọi lặng lẽ, thì thầm mà sâu lắng, như tiếng buồn trong sương đục, tiếng hờn trong lũy tre. Dưới đây là trọn bài “Tình Quê” của Hàn Mạc Tử:
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên ngừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê
Cách nhau ngàn vạn dặm
Nhớ chi đến trăng thề
Dù ai không mong đợi
Dù ai không lắng nghe
Tiếng buồn trong sương đục
Tiếng hờn trong lũy tre
Dưới trời thu man mác
Bàng bạc khắp sơn khê
Dù ai trên bờ liễu
Dù ai dưới cành lê
Với ngày xanh hờ hững
Cố quên tình phu thê
Trong khi nhìn mây nước
Lòng xuân cũng não nề
Huống chi là đối với Đôi Bạn yêu nhau tha thiết, mà phải xa nhau, thương nhớ nhau. Chàng vì nước ra đi không biết sẽ phiêu bạt tới chân trời góc bể nào, sống chết sẽ ra sao, và nàng phải sống mỏi mòn nơi quê cũ. Xin mở dấu ngoặc. Đôi Bạn ra đời dưới thời Pháp thuộc với guồng máy cai trị vô cùng khắc nghiệt. Đôi Bạn đã được in thành sách, như thế có nghĩa rằng tác giả của nó có thể bị chánh quyền cai trị kết tội là kẻ “phản động” để tống giam. Cho nên Nhất Linh đã buộc lòng không nói rõ ràng lý do Dũng phải lên đường. Và có lẽ vì e ngại cái nội dung “phản động” ấy, Vũ Ngọc Phan cũng không đề cập gì đến Đôi Bạn, và cả Đoạn Tuyệt, trong Nhà Văn Hiện Đại xuất bản năm 1942. Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh cũng xuất bản năm 1942 có đăng bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng khá dài của Thế Lữ, nhưng có lẽ vì e ngại nên không viết một lời bình luận nào cả. Bài thơ đó lấy cảm hứng từ hai nhân vật Dũng và Loan trong Đoạn Tuyệt và Đôi Bạn.

Hãy trở lại với Biệt ly trong Đôi Bạn.
Ngay lúc vào truyện, hình bóng của Biệt Ly đã xuất hiện thấp thoáng. Và cả âm thanh nữa. Cái đĩa hát “ngày xửa ngày xưa” về nàng công chúa Huyền Trân, như đã được đề cập ở phần trên, nghe vang dội như khúc nhạc dạo đầu cho bản trường ca Biệt Ly sắp diễn ra:
Dũng đã thoáng nhận thấy vẻ nghi ngại trên nét mặt của cụ chánh, nên vội đùa với Loan:
–Có mỗi việc quay cái máy hát cho anh em nghe mà các anh ấy bàn mãi chưa biết cử ai.
Loan vui mừng:
–Phải đấy. Cử tôi cho.
Cận nói:
–Nhưng chỉ có một cái đĩa.
Loan nói:
–Chắc lại vẫn cái đĩa Nam Bằng ngày xửa ngày xưa chứ gì?
Nàng vừa quay máy vừa hát khe khẽ:
–Nước non ngàn dặm ra đi …
Một lúc tiếng hát nổi lên; trừ Dũng ra, còn người nào cũng chú ý lắng nghe .
Loan nói:
–Em thích cái đĩa hát này lạ.
…
Dũng ngâm theo đĩa hát:
–Thấy chim hồng nhạn … bay đi.
Loan không nói gì, vin một cành khế đầy hoa hồng và lấm tấm những quả khế xanh non, ngước mắt nhìn ra vẻ tìm xem có quả nào to ăn được chưa. Mùi hoa khế đưa thoảng qua thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không phải là hương thơm của một thứ hoa nữa. Đó là thứ hương lạ để đánh dấu một khoảng thời khắc qua trong đời: Dũng thấy trước rằng độ mười năm sau, thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến phút chàng đương đứng với Loan ở đây. Cái phút không có gì lạ ấy, chàng thấy nó sẽ ghi mãi ở trong lòng chàng cũng như hoa khế hết mùa này sang mùa khác thơm mãi trong vườn cũ.
Cho nên khi chưa xa nhau, Dũng rất mong có những giây phút sống cạnh Loan, Loan mà Dũng xem như là nàng tiên đến với chàng trong chốc lát rồi đi:
Trong đời chàng, chàng ước ao có nhiều lúc như lúc này, đương mong Loan lại được Loan đến với chàng, đến như một nàng tiên ở nơi xa xăm về an ủi chàng trong chốc lát rồi lại bay đi …
Dũng vào ngồi bên cạnh Loan. Bà hàng mở vung múc nước chè, một làn hơi nóng thoảng qua mặt Dũng. Dũng không nghĩ đến Thái nữa, những người bạn ngồi quanh chàng, người nào lúc đó nét mặt cũng lộ vẻ bình tĩnh. Dũng có cảm giác êm ả lạ lùng và cái quán hàng trong đó có Loan ngồi chàng tưởng như một chốn ấm áp để chàng được cách biệt hẳn cuộc đời mà chàng thấy nhiều phiền muộn, buồn bã như buổi chiều mờ sương thu ngoài kia.
Đôi bạn từng sống gần nhau từ thuở nhỏ, cho nên kỷ niệm êm đềm của thời thơ ấu thường xuyên trở lại trong trí nhớ của hai người:
Dũng nhìn lên mặt trăng cao mà tròn khuất sau lá cây. Ở thành phố nên Dũng thấy mặt trăng có vẻ buồn bã hình như đương nhớ những quãng rộng rãi ở các vùng quê xa xôi, nhớ những con đường vắng gió thổi cát bay lên trắng mờ mờ như làn sương, nhớ những con đom đóm bay qua ao bèo, lúc tắt lúc sáng như những ngôi sao lạc biết thổn thức … Chàng dịu dàng nói với Loan:
–Thế mà mới độ nào, cô còn nhớ không, những đêm trăng sáng chúng mình còn ngồi ở sân đợi có đom đóm bay qua rồi đứng lên reo đom đóm xuống đây ăn cơm với cá.
Loan nói:
–Hình như nó biết chúng mình đánh lừa hay sao nên nó lại bay cao. Lạ thật, đến khi lớn lên thì mình không biết là có đom đóm nữa.
Tình yêu trai gái nồng nàn, và thèm muốn nhục dục cũng có khi xẩy đến với Dũng. Tuổi trẻ mà. Nhưng Dũng cố kiềm chế. Sự ức chế càng khiến cho tình yêu ấy thêm tha thiết, ray rứt, mãnh liệt:
Ánh trăng đương mờ bỗng sáng hẳn lên. Gió đưa tà áo Loan khẽ chạm vào tay khiến Dũng sực nghĩ mình đi sát gần bên Loan quá. Chàng nhớ đến hôm lễ thọ và cái mơ ước được đi chơi với Loan trong vườn cỏ thơm, gió đưa tà áo nàng phơ phất chạm vào tay êm như một cánh bướm … Dũng không dám quay mặt nhìn Loan; chàng chỉ thấy bên chàng có một bóng trắng hoạt động nhẹ và thơm, lúc sáng hẳn lên dưới ánh trăng, lúc mờ đi trong bóng cây lưa thưa. Dũng nghe rõ tiếng chân bước của Loan nhịp nhàng xen với tiếng chân chàng bước. Quả tim chàng đập mạnh … Chàng trông thấy trước mặt bàn tay hơi run run của Loan, hôm nào, cời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa hồng, bao nhiêu thèm muốn ngấm ngầm bấy lâu trong một phút rạo rực nổi dậy. Bốn bàn chân vẫn bước đều đều … Chàng nghĩ nếu lúc đó ngừng lại; chàng sẽ đưa cánh tay đỡ lấy Loan và miệng chàng sẽ nói câu mà chàng vẫn thầm nhủ với Loan đã bao lần trong giấc mơ:
–Anh sẽ yêu em trọn đời.
Phong cảnh bến đò nơi “Loan đã nhiều lần đi qua” chắc hẳn là hình ảnh yêu dấu đã nằm sâu trong lòng Dũng. Vâng, Loan đã nhiều lần đi qua đó, câu nói thật kín đáo và đầy âu yếm. Chẳng khác gì trong ca dao: “Thương ai thương cả đường đi …” Nhưng, như Dũng đã trả lời bạn, cảnh bến đò cũng là hình ảnh của biệt ly:
Dũng nhìn ra phong cảnh bến đò nơi mà Loan đã nhiều lần đi qua. Chàng định khi về sẽ mua ít bánh gai biếu bà Hai.
–Chắc Loan vui lòng lắm.
Tiếng hát sẩm và tiếng nhị trên mặt sông vẳng đến tai Dũng. Trúc chạy ra, tay cầm chiếc bánh gai bóc dở. Chàng cắn một miếng to, gật đầu khen:
–Ngon lạ … Phải mua chục chiếc làm quà cho anh Thái … Cảnh bến đò bao giờ cũng buồn, không hiểu tại sao?
Dũng đáp:
–Có lẽ nó gợi ý nghĩ đến sự biệt ly.
Biệt ly đối với Dũng đã biến thành nghiệp dĩ. Yêu mến cuộc sống bên cạnh Loan nơi quê hương, tuy nhiên, “ Phải đi! Phải đi!” Hai tiếng đó là hai nốt nhạc buồn được lặp đi lặp lại nhiều lần trong một bản nhạc sầu muộn kéo dài. Không nói ra cho Loan biết quyết định ra đi, nhưng thái độ của Dũng đã vô tình tố cáo. Những câu, “Có lẽ phải xa nhau rồi mới gần được”, “Có buồn đi xa rồi mới có mừng được về, gần nhau mãi không biết rằng những lúc ở gần là quý” thật ra Dũng nói để tự đánh lừa, tự trấn an, hơn là nói cho Loan nghe:
Dũng nói:
–Bây giờ nghĩ đến nhà quê thật là xa lắc. Giá cứ thế này đi không về nữa thì hay đến đâu.
–Sao lúc nào em cũng thấy anh nói đến đi.
Dũng mỉm cười:
–Ở nhà tôi có nói đến đi bao giờ đâu?
Loan nói:
–Anh không nói đến đi, nhưng trông nét mặt anh lúc nào em cũng thấy anh khó chịu, hình như chỉ có đi là thoát.
–Sao cô lại tưởng thế?
…
Ngẫm nghĩ một lúc rồi Dũng nói tiếp:
–Có lẽ phải xa nhau rồi mới gần được.
…
Nàng chép miệng nói tiếp theo, mắt vẫn nhìn Dũng:
–Đi bao giờ cũng buồn. Nhưng người đi không buồn lắm, buồn nhất là người ở nhà.
Dũng hiểu ý Loan, chàng nói:
–Nhưng ở đời tránh thế nào được những sự biệt ly. Có buồn đi xa rồi mới có mừng được về, gần nhau mãi không biết rằng những lúc ở gần là quý …
Loan tiếp theo:
–Miễn là đừng đi xa mãi mãi cả đời.
Có khi mềm lòng, ai mà chẳng có lúc như thế, nghĩ đến cuộc sống êm đềm cạnh Loan, rồi liên tưởng đến những người bạn cùng chí hướng đã ra đi vĩnh viễn — tận cùng của biệt ly — Dũng không khỏi hình dung đến cái kết thúc của chính cuộc đời mình. Khi ấy, bên mộ chàng, hình ảnh nàng sẽ xuất hiển, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió. Khiến chàng đau đớn hay đó là một niềm an ủi? Đấy chỉ là sản phẩm của lãng mạn mà thôi, hay còn mang ngụ ý nào khác? Chẳng hạn đấy là số kiếp không tránh khỏi được của người làm cách mạng.
Chàng thốt nghĩ đến Loan và tự nhiên nhớ đến một hôm, đã lâu lắm, nhìn Loan mặc áo trắng đi qua vườn trong ánh nắng thu, lần đầu chàng cảm thấy cái vui thấy mình sống. Chàng không dám nghĩ đến một đời ở xa Loan, nay đây mai đó như Tạo, rồi một ngày kia cũng như Tạo chết một nơi xa lạ nào, nằm trong áo quan tối, trong khi Loan đứng bên mồ, dưới ánh nắng, tà áo trắng của nàng phấp phới trước gió.
Trúc ngửng nhìn Trúc và lấy làm ngạc nhiên thấy Dũng mắt có ngấn lệ.
Tuy nhiên, Dũng không hề cho Loan biết quyết định ra đi. Tại sao? Dũng vẫn đang còn phân vân giữa ra đi và ở lại? Hay chưa muốn “bạch hóa” một quyết định vô cùng quan trọng đối với đời của mình? Càng quan trọng, càng khó giải bày rạch ròi cho Loan hiểu và thông cảm. Hay Dũng vẫn có thói quen bỏ lửng câu chuyện khó nói ra? Nói ra sợ Loan buồn? Nhưng Loan, với linh tính bén nhạy của phái nữ , nhất là khi đang yêu, đã đoán già đoán non:
Đột nhiên Loan hỏi Dũng:
–Anh định sắp đi đâu?
Cả hai người cùng ngửng lên một lúc. Dũng ngạc nhiên vì câu hỏi bất ngờ, nhìn Loan dò xét. Loan cúi xuống tìm nhặt những bông hoa cỏ may vướng trên vạt áo; nàng nói tiếp:
–Hình như anh sắp đi đâu xa, xa lắm.
Nàng vẫn cúi người, nghiêng đầu nhìn Dũng. Dũng nói:
–Có lẽ. Nhưng … sao cô biết.
Loan mỉm cười:
–Thế ra thật à?
Dũng cũng cười:
–Thế ra cô bắt nọn tôi?
Loan nói trạnh ra ý khác …
Tuổi trẻ và ái tình vẫn gắn liền với đam mê, lãng mạn. Ngay cả khi nếu chẳng may phải từ giã cõi đời, Dũng vẫn mong có người yêu đến bên mồ như đã được nói đến ở đoạn trên. Sống thì dù phiêu bạt tới phương trời nào Dũng cũng không thể nào quên được người yêu ở quê xa. Càng tốt nếu lỡ bước ngủ trong quán trọ nằm nghe mưa rơi để tha hồ thương nhớ. Tình yêu của Dũng quả thật bền vững và sâu xa, và Loan đã từ lâu nằm sâu trong trái tim của Dũng. :
Dũng khẽ nói với Loan:
–Mưa thế này thì cô về sao được?
Dũng lấy làm lạ rằng khi hỏi câu hỏi rất thường, giọng chàng đổi khác hẳn đi. Loan áp hai bàn tay vào má, hai ngón tay út khẽ đập trên thái dương, thẫn thờ nói:
–Thì cứ ngồi đây suốt đêm.
Một lúc sau, nàng mỉm cười tiếp theo:
–Ngồi nghe mưa rơi.
Tiếng nói của Loan nghe trong căn phòng ấm áp, thốt nhiên gợi Dũng nghĩ đến cảnh một người phiêu lưu ngủ trọ trong quán hàng nước ở một bến đò xa vắng, đêm khuya lạnh, sực thức dậy nghe tiếng mưa rơi trên sông và nhớ tới người yêu ở quê cũ.
Vì vậy Dũng không thể nào sống trong hồn nhiên, yên vui, như những người anh em ruột thịt hay những ai quen biết quanh mình. Lo nghĩ, băn khoăn, sầu muộn luôn luôn đeo đẳng:
Tay nàng lùa vào trong giàn đậu nhanh nhẹn như con chim non tìm mồi nhưng qua lá cây Dũng thấy hai con mắt nàng đương long lanh nhìn chàng dò xét. Loan hạ thấp giọng để bà Hai nghe không rõ, bảo Dũng:
–Lúc nào em cũng thấy anh buồn.
Rồi nàng vờ như không để ý đến câu nói của mình, kiễng chân với một cành cao, vui vẻ nói:
–Cành này vô số là quả nhưng cao quá anh Dũng ạ.
Dũng hiểu, nói:
–Ý cô muốn tôi giúp cô.
Người làm cách mạng sẵn sàng chấp nhận tù đày và cái chết. Trong một xã hội bế tắc, khốn quẫn như xã hội ta thời nô lệ Pháp, chết là thoát ly, là biệt ly vĩnh viễn. Một số bạn của Dũng đã chết, nghĩa là đã được thoát ly, Dũng từng nghĩ như thế. Hơn nữa, Dũng còn cảm thấy như chính mình được thoát ly, nghĩa là mình cũng chết theo, hay chí ít nơm nớp đợi đến lượt mình từ giã cõi đời. Không phải chỉ biệt ly, mà biệt ly tang tóc, vĩnh biệt:
Đính nói:
–Cái anh Thái ấy hình như bắn xoàng. Bắn ông phủ hai phát không trúng, bắn mình một phát lại trúng ngay…
Dũng đứng lên, bước vội ra sân. Chàng lấy làm lạ rằng mình chỉ bàng hoàng ngây ngất như người mới nhận một tin đột ngột quá, chứ không thấy đau khổ, không thấy thương xót người bạn mới khuất. Sau một hồi khích động mãnh liệt, Dũng thấy dần dần thấm vào trong lòng một nỗi êm ả xưa nay chưa từng thấy. Chàng có cái cảm tưởng rằng mình sắp thoát một nơi u ám, nặng nề và một sự gì mới mẻ sắp nẩy nở ra trong tâm hồn. Cái chết của Thái đối với Dũng chỉ là một sự thoát ly nhưng Dũng thấy rằng người được thoát ly là chàng chứ không phải Thái. Nhiều ý nghĩ trái ngược hỗn độn hiện ra một lúc khiến Dũng không biết rõ hẳn lòng mình ra sao: chàng cũng không muốn nhân cái chết của một người bạn để suy nghĩ về mình và tìm tòi cho mình…
Các bạn chàng đối với nhau chỉ có mỗi một dây liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngả đường, sống theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạc. Thỉnh thoảng lại nghe tin một người trong bọn chết đi hay bị tù tội, rồi ai nấy, trước số mệnh, chỉ việc cúi đầu, yên lặng, nơm nớp đợi đến lượt mình.
Tuy vậy, trải qua nhiều quãng thời gian sống gần gũi bên Loan, Dũng vẫn không chịu thổ lộ tình yêu bằng lời nói hoặc bằng hành động. Tại sao? Phải chăng tại vì Dũng biết trước rằng tình yêu đó sẽ không đi đến đâu, vì chàng phải xa nàng, không có ngày về, nên không muốn tạo nên những ràng buộc làm khổ nàng về sau? Hay cũng có thể theo kiểu cổ điển phương Đông, không để tình yêu xác thịt chen vào khi chưa là vợ chồng? Hay Dũng muốn người yêu của mình luôn luôn đẹp như đoá hoa hàm tiếu đang ngậm sương, hay như một chiếc bình quý giá đừng làm cho nó bị rạn nứt, hay như một mối tình lý tưởng, phải gìn giữ nó cho được luôn luôn nguyên vẹn, tươi thắm, để nâng niu, để tôn thờ. Dù gì đi nữa, Dũng vẫn tỏ ra là một con người khá lạ lùng.
Cuối cùng, do một tình cờ, đôi bạn lặng lẽ bày tỏ tình yêu cho nhau biết. Không bằng lời nói hay một cử chỉ nào khác, mà bằng cặp mắt – hai người yên lặng nhin nhau:
Dũng vòng hai tay ra phía sau làm gối ngửa mặt nhìn lên. Ánh nắng trên lá thông lóe ra thành những ngôi sao; tiếng thông reo nghe như tiếng vọng xa, đều đều không ngớt; Dũng có cái cảm tưởng rằng cái tiếng ấy đã có từ đời kiếp nào rồi nhưng đến nay còn vương lại âm thầm trong lá thông.
Không nghe tiếng Loan và Thảo nói chuyện nữa, Dũng nghiêng mặt về phía hai người. Chàng thấp thoáng thấy hai con mắt đen của Loan. Thấy Dũng bắt gặp mình đang nhìn trộm, Loan vội nhắm mắt lại làm như ngủ; song biết là Dũng đã trông thấy rồi, nàng lại vôi mở mắt ra, rồi qua những ngọn lá cỏ rung động trước gió, hai người yên lặng nhìn nhau.
Loan chắc Dũng có ý nghĩ gì đổi khác hẳn trước nên mới nhìn nàng như nhìn một tình nhân mà không tỏ ý ngượng; Loan sinh liều, âu yếm nhìn lại Dũng. Giây phút thần tiên của đôi bạn vẫn yêu nhau từ lâu nhưng lần đầu dám lặng lẽ tỏ ra cho nhau biết.
Khi vừa vượt qua khỏi biên giới đến được vùng an toàn là đất Tàu, khi mọi cạm bẫy, hiểm nghèo không còn là mối bận tâm nữa, khi những lo âu không còn dấy động, khi lòng lắng xuống, bình thản, thì hồi ức trổi dậy. Lần này càng tha thiết. Dũng nghĩ ngay đến “người của quê hương cũ, người của tuổi thơ”, và tưởng nhớ “cái vui sướng đầu tiên khi biết mình yêu Loan”, thế mà bây giờ đã “Cách nhau ngàn vạn dặm”:
Dũng thốt nhiên thấy quả tim đập mạnh: chàng nghĩ đến cái vui sướng một ngày kia, một ngày xa xôi lắm và không chắc còn có không, lại được gặp mặt lại Loan, người của quê hương cũ, người của tuổi thơ mà chàng biết không bao giờ có thể quên. Dũng nhớ lại cái vui sướng đầu tiên khi biết mình yêu Loan bốn năm trước đây. Một buổi sáng đi chơi về nhìn qua vườn, chàng thấy sân bên kia có tấm lụa trắng còn mới nguyên phơi trên dây thép, gió đưa bay tha thướt trong nắng. Chàng lấy làm lạ nhìn tấm áo một lúc lâu rồi sực nghĩ ra:
“Loan ở tỉnh đã nghỉ học về.”
Tìm ra được điều ấy, chàng lấy làm ngạc nhiên sao mình có thể vui sướng đến như thế, chàng đứng lặng người đi ít lâu và từ lúc đó chàng biết rằng trong đời chàng đã có một người yêu.
Kể từ giây phút đặt chân lên trên một đất nước xa lạ ngoài quê hương của mình, cuộc sống của Dũng rẽ qua một bước ngoặt mới. Chưa biết sẽ làm gì, đi về đâu, mọi hoạt động đều chứa đầy phiêu lưu, hiểm nghèo. Mà cũng đầy thương tiếc, nhớ nhung. Dũng muốn trốn thoát, thoát khỏi những gì, Trúc, người bạn thân của Dũng, đã đoán biết. Vâng, nói như Trúc, trốn thoát chưa đủ, còn phải thoát khỏi những ràng buộc cũ:
Dũng và Trúc không bảo nhau, cùng đi rẽ sang con đường leo lên đỉnh đồi. Tới một khoảng rộng hai anh em ngừng lại nhìn bốn phía. Trúc giơ tay bảo Dũng:
–Mai chúng mình đi về phía kia.
Dũng nói:
–Sao anh biết là phía ấy?
–Đoán thế, vì phía ấy nhiều núi, có vẻ nguy hiểm tợn.
Những quả núi đá màu lam thẩm, chen nhau hỗn độn ở chân trời hình như không bao giờ hết.
Trúc nói tiếp:
–Rồi chúng ta cứ đi, đi mãi không quay đầu nhìn lại phía sau.
…
Dũng cau mày lấy ngón tay đập mạnh điếu thuốc lá cho rơi tàn và nói:
–Miễn là thoát được.
Trúc đoán được những ý nghĩ của Dũng ngụ trong câu nói vắn tắt. Trốn đi thoát không đủ, còn phải thoát được hết những dây ràng buộc mình với đời cũ.
*
Hãy trở lại với dòng đầu tiên rất ngắn của cuốn sách. Chỉ bốn chữ. Và kết thúc là một câu khá dài buồn mênh mang.
Đôi Bạn bắt đầu bằng bốn chữ:
Trời muốn trở rét.
Bốn tiếng ngắn ngủi, Trúc, người bạn thân nhất của Dũng, nói một mình — mình nói mình nghe — như vô tình buột miệng khi thấy một mùa đang về. Mùa thu. Nhưng đúng ra những tiếng tưởng là vô tình ấy quả đã báo trước những gì sắp xẩy ra trên con đường dài của cuộc đời lạnh lùng, rét mướt, quạnh quẽ, của bạn mình. Thông thường những tác phẩm lớn bắt đầu bằng câu đầu tiên như muốn nói gần hết ý nghĩa của những gì sẽ xẩy ra trong suốt chiều dài của cuốn truyện. Vài dẫn chứng: Truyện Kiều của Nguyễn Du, “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”; Anna Karenina của Leo Tolstoy, “Tất cả những gia đinh hạnh phúc đều giống nhau; mỗi gia đình bất hạnh thì bất hạnh theo cái lối của mình” (All happy families are alike; eah unhappy family is unhappy in its own way). Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm cũng thế.
Trời muốn trở rét. Chữ thứ nhất âm bằng, nối tiếp bằng ba chữ âm trắc, vang lên réo rắt, nghe như tiếng chim báo bão cho những năm tháng sắp tới cô liêu, kéo dài thành một xâu chuỗi nối tiếp nhau mãi bằng những mảnh vỡ của chia lìa, của biệt ly, của mùa thu, của băn khoăn, của hoang mang. Để để kết thúc bằng một điệu buồn miên man bất tận như một nỗi nhớ xa xôi không bao giờ dứt, trong câu cuối cùng của Đôi Bạn:
Trước mặt hai người, về phía bên kia cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương, trông như một nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần …
Trên đây chỉ là những trích dẫn rất thiếu sót, không thể diễn tả đầy đủ mọi điều tác giả muốn nói trong một tác phẩm gần 200 trang giấy mà hầu như trang nào cũng chứa đựng không ít thì nhiều những khía cạnh khác nhau của Biệt Ly.
Nếu Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh [3] của Nguyễn Du là hiện thân của đau khổ, nước mắt, bẽ bàng [4], kể cả khi Kiều được tái ngộ với người tình cũ, thì Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh là sứ giả của Biệt Ly, Tang Tóc, Băn Khoăn. Sầu Muộn. Mặt khác, chất thơ, chất nhạc, bàng bạc khắp nơi, và xuyên suốt câu chuyện có không ít những đoạn rất đẹp mô tả mối tình im lặng, kín đáo, ngập ngừng, e ấp. Và Dũng, nhân vật chính của Đôi Bạn, dù có khi đã tỏ ra là một con người kỳ dị, có phần khó hiểu, có phần phi lý, có phần lãng mạn, vẫn không thiếu phần quyến rũ.
Ngự Thuyết
—————-
[1] Câu thơ được nhắc đến nhiều “Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới” gợi nhớ đến 2 câu thơ của Xuân Diệu của thời Thơ Mới thập niên 1930 “Chưa đi mà đã thấy xa nhau/Lúc biệt ly rồi xa đến đâu.” Ý nghĩa có chút gần gũi nhau, nhưng câu thơ của Thanh Tâm Tuyền khua động hơn, gây ấn tượng mạnh hơn.
[2] Lối vắt dòng (enjambment/enjambement) đã được sử dụng trong thơ Việt Nam từ thời Thơ Mới. Chẳng hạn Thế Lữ trong Giây Phút Chạnh Lòng:
Cát bụi tung trời – Đường vất vả
Còn dài – Nhưng hãy tạm dừng chân,
Hay Xuân Diệu trong Trăng:
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá,
Và làm dang dở nhịp trăng đang
Dịu dàng đàn những ánh thơ xanh,
[3] Từ một tiểu thuyết của Tàu, Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác phẩm bằng văn xuôi không có có giá trị đáng kể, Nguyễn Du đã viết lại thành một áng thơ tuyệt tác đầy sáng tạo, thấm đẫm tâm hồn dân tộc, và, theo Đào Duy Anh, đã phát triển, hoàn chỉnh và thống nhất hai thành phần quan trọng của Ngôn ngữ Văn học Việt Nam, yếu tố Văn học Dân gian và yếu tố văn học chữ Hán để tạo nên một ngôn ngữ Văn học mới dồi dào, uyển chuyển (Từ Điển Truyện Kiều. Đào Duy Anh. Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam. 2009 ). Áng thơ tuyệt tác đó có nhan đề mới, Đoạn Trường Tân Thanh (Tiếng Mới Đứt Ruột). Thế nhưng theo thói quen, hay muốn được ngắn gọn, hậu thế dùng nhan đề Truyện Thúy Kiều, hay Truyện Kiều. Có lẽ nên trở lại với nhan đề nguyên thuỷ của chính tác giả Nguyễn Du.
[4] Kiều trong những bước chìm nổi lưu lạc, thường nhớ đến cha mẹ, hai em, người yêu cũ, và cố hương. Do đó luôn luôn mơ tưởng đến ngày về, và “khi về”. Khi còn sa chân lỡ bước trong chốn thanh lâu, có lúc nghĩ đến cảnh ngộ người yêu cũ trở lại vườn Thúy mà không gặp được mình, Kiều cảm thấy bẽ bàng và hình dung nỗi đau đớn của Kim Trọng (Khi về hỏi Liễu Chương Đài/Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay). Cuối cùng, ngay cả “khi về” tái ngộ với Kim Trọng, theo tôi, Kiều lại càng bẽ bàng hơn. Thử tưởng tượng một nàng Kiều xinh đẹp mới trên 30 tuổi (Hoa tàn mà lại thêm tươi/Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa) phải kéo lê cuộc đời còn lại bên lề gia đình êm ấm của em gái với người yêu cũ của mình. Có lẽ Kiều sẽ trở lại với tấm áo cà sa.