Tiểu thuyết của Nguyễn Viện: Sinh ra từ trứng (Kỳ 2)

Cô ấy đã trở lại
Tôi nói với cô gái, đấu tranh chính trị phải bắt đầu từ các vấn nạn dân sinh.
Cô nói: “Trong hoàn cảnh của chúng ta, đấu tranh chính trị trước hết là vượt qua sự sợ hãi, khiếp nhược của bản thân.” Cô kể: “Tối qua, trên đường về nhà, bọn chúng chặn đường đánh em như một lũ súc vật lên cơn điên, may mà có nhiều người dân đứng lại xem, bọn chúng mới bỏ đi. Em không hiểu được tại sao lại có cách hành xử như thế.”
Cô bị gãy mấy cái răng và bầm một bên mắt.
Phải chăng đó là hệ quả của một xã hội đại nhảy vọt, từ phong kiến… đến hậu hiện đại? Một khoảng trống văn hóa và tâm linh?
Tôi nói để anh đưa em đi nha sĩ. Dù thế nào cũng phải đẹp. Dân oan và những người bị chà đạp đang chờ em.
Cô hỏi: “Còn anh, anh tiếp tục chờ ai?”
Tôi nói: “Anh chờ những người sinh ra từ trứng quay lại.”
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Bà hoàn toàn tin chắc về điều ấy. Trong tận cùng ký ức xa xăm, bà vẫn nhớ quả trứng sinh ra bà được ủ trong ổ rơm dưới căn nhà vách đất vùng trung du Bắc bộ. Bà đã dùng cả hai bàn chân nhỏ bé của mình, duỗi đạp cho đến khi vỏ trứng vỡ ra. Bà bảo đấy thực sự là một vụ nổ big-bang. Khí ém trong quả trứng đã làm cho căn nhà bị tốc mái. Và cả nhà bà gồm ông bà nội, cha mẹ đều tưởng là một cơn lốc xoáy bất chợt và họ đã nằm úp mặt xuống bám chặt lấy đất để tránh bị gió cuốn đi. Cho đến khi nghe thấy tiếng khóc, họ mới biết là có một đứa bé vừa chào đời.
Tuy mới sinh nhưng đứa bé đã đứng được và biết nói tiếng người. Câu đầu tiên nó thốt ra giống y như giọng của bà nội nó: “Giời, nằm co quắp trong quả trứng bốn ngàn năm, giờ mới đứng dậy được. Hú vía.”
Ông bà nội, cha mẹ đứa bé còn hú vía hơn. Họ chưa tin đó là con cháu mình, lồm cồm đứng dậy, khi vẫn còn trong tư thế nửa ngồi nửa quì, đứa bé nói tiếp: “Con đây mà. Con là cái Ngọ mà mẹ vẫn nằm mơ thấy đấy.”
Đó là thời điểm mà dân tộc sinh ra từ trứng bước vào cuộc chuyển hóa lớn lao nhất của lịch sử từ sự suy tàn của chế độ phong kiến đến các ý hệ tư sản và vô sản bắt đầu bùng phát. Đây là mệnh số của đứa bé: Tuổi Dương nữ, mệnh Lộ bàng thổ, cục Thủy lục cục, năm sinh Canh ngọ 1930.
Và như được thiên khải, con bé tên Ngọ còn được bố nó gọi là cái “Bản Lề”, không chỉ vì bố nó làm nghề thợ mộc, mà còn vì cô bé này giống như cái bản lề của buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới, luôn gợi ra những hoài tưởng u buồn của quá khứ cũng như tạo ra niềm phấn khích cho những ước vọng về tương lai. Trong thực tế, cái Bản Lề lúc nào cũng là hiện tại, dù nó mở ra hay đóng lại cánh cửa của một gia đình mà tất cả oan khiên của lịch sử dân tộc sinh ra từ trứng đã giáng xuống.
Trong một ngày rất dài, biết bao sự kiện đã xảy ra chỉ để giải thích vì sao cái Ngọ hay Bản Lề đã được sinh ra từ trứng như tổ tiên xưa kia, mà ngày nay huyền thoại đó vẫn còn là niềm tin cho một dân tộc khác thường đã tồn tại bên cạnh một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại là Trung Hoa. Nhưng tôi chỉ có thể viết hay kể về nó trong những chừng mực mà tôi biết được và nhớ lại trong lúc bản thân tôi cũng đã là hơi tàn của cái cơn lốc khi quả trứng vỡ. Một hậu duệ lai Tây.
Và người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ cũng đã đứng dậy
Ông bước ra khỏi bức tranh, cởi bỏ bộ đồ nỉ đỏ quẳng xuống đất. Ông ta nói: “Tôi không thể chờ đợi mãi.”
Lần lượt, tất cả đàn ông và đàn bà đều bước ra khỏi bức tranh của họ. Họ đồng thanh nói: “Chúng ta phải đi thôi.”
Những bức tranh trong căn phòng tầng áp mái đã hoàn toàn trống rỗng. Không một nhân vật nào để lại chiếc bóng của họ. Họ đã đi và mang theo linh hồn của mình.
Tôi không biết họ đi đâu. Chính lúc căn phòng trở nên vắng vẻ và lụi tàn, linh hồn ông họa sĩ trở lại. Ông nằm bên cạnh tôi. Nhưng quả thật, tôi không hề muốn đụng đến ông ta hay làm một điều gì đó tỏ ra thân mật. Có thể tôi vẫn ngửi thấy mùi hôi của đất trên người ông ta.
Ông họa sĩ nói: “Tôi hối tiếc với những nhân vật của mình. Tôi đã không vẽ họ như chính họ.”
Tôi bảo: “Ông vẫn có thể bắt đầu lại.”
Ông họa sĩ nói: “Không. Tôi đã chết rồi. Tôi cũng đã giết họ.”
Tôi ngồi bật dậy. “Chính ông đã giết họ?” Tôi hỏi.
Ông họa sĩ nói: “Vâng. Chúng ta là những kẻ giết người.”
Hồ sơ chuyên án
Vị cán bộ hội mỹ thuật đến gặp ông họa sĩ. Thân tình và không giấu niềm vinh hạnh trong trọng trách của mình, vị cán bộ hội hỏi: “Cấp trên muốn anh lên biên giới công tác một thời gian, anh thấy thế nào?”
Ông họa sĩ cười: “Chẳng thế nào cả. Trên giao thì tôi đi.”
Vị cán bộ nói: “Vậy anh chuẩn bị ngay cho. Ngày mốt sẽ có người đến đón anh.”
Ông họa sĩ hỏi: “Anh có thể cho biết nội dung công tác không?”
Vị cán bộ đắn đo nói: “Tôi không rõ lắm, nhưng sẽ là một vinh dự cho anh.”
Ông họa sĩ được bố trí ở trong một ngôi làng nhỏ, vài chục mái tranh, nhưng tấp nập dân quân. Ông được tự do đi lại và ký họa mọi chân dung hay tình huống sinh hoạt. Đất trời biên giới lúc nào cảnh tượng cũng man mác. Nhưng ông tự nhủ một tâm cảm như thế sẽ không phù hợp và phải được giấu kín. Ông cần tỏ ra bám sát quần chúng và dựng lên thành hình ảnh những con người chăm chỉ, gân guốc và lạc quan cách mạng. Và ông đã làm được như thế. Các chính ủy khen ngợi ông. Những bức tranh mô tả cảnh lao động và học tập mang đậm tính giai cấp và hiện thực được trân trọng như những tuyên ngôn về một thời đại mới. Thời của chủ nghĩa tập thể.
Rồi ông được giới thiệu cho thủ lĩnh.
Hồi ức của ông họa sĩ
Đó là một người đàn ông vào tuổi tri thiên mệnh. Khi tôi đến, ông ta đang ngồi trên một tảng đá, tay cầm ống sáo. Tóc dài búi tó củ hành. Ông cho tôi ấn tượng của một đạo sĩ hơn một con người làm cách mạng. Sau này, khi nhớ lại hình ảnh ban đầu này, tôi vẫn cho rằng cảm nhận của tôi không sai. Một đạo sĩ tuyệt đối và một con người chính trị tuyệt đối đều có những phẩm cách giống nhau. Sự lãng mạn của lý tưởng và sự quả cảm trong hành động. Đôi khi cuồng.
Ông chỉ cho tôi một thân cây đổ và bảo: “Ngồi xuống đi.”
Tôi cám ơn rồi ngồi xuống. Ông ta hỏi: “Chú có muốn uống trà không?”
Tôi thưa: “Dạ.”
Người giao liên đi vào trong bụi mây rậm rạp và đem ra một bình trà nóng.
Ông lại bảo: “Chú hút thuốc nhé.”
Tôi cũng chỉ dạ và bước tới chỗ ông ngồi. Ông đưa cả bao thuốc cho tôi. Một bao thuốc lá ngoại còn khá đầy. Ông nói: “Chú giữ lấy luôn mà hút.”
Tuyệt. Tôi nghĩ thế. Thuốc lá Mỹ là một giấc mơ trên mặt trăng.
Đợi cho tôi đốt xong điếu thuốc và tận hưởng cái hạnh phúc đặc biệt này, ông mới hỏi tôi tên tuổi, quê quán, có người yêu hay gia đình chưa.
Chưa hết ngạc nhiên về sự chiếu cố quá ân huệ này, tôi đã nhìn thấy ông đưa ống sáo trúc lên miệng và thổi, như thể đã quên sự có mặt của tôi.
Một khúc dân ca hoài hương. Tôi lặng người lắng nghe. Tại sao không phải là một khúc quân hành rộn rã như lẽ ra phải thế?
“Chú đã có ý để vẽ tôi chưa?” Ông đột ngột hỏi trong lúc tôi vẫn đang bối rối về sự ủy mị khác thường này.
Sau vài giây để sắp xếp ý tưởng, tôi nói: “Dạ, có rồi ạ.”
Ông bảo nói cho ông nghe. Tôi nói: “Thưa cụ, cháu nghĩ cái ấn tượng ban đầu thường ít nhầm lẫn, vì thế, cháu sẽ vẽ cụ theo cách cháu cảm nhận được. Đó là một vị thánh mang nỗi đau nhân thế. Tuy nhiên, cụ cho phép cháu được gặp gỡ thêm và cũng không cần phải sửa soạn gì nhiều. Cụ cứ ngồi thổi sáo. Cháu tin là sẽ bắt được cái thần của nghĩa khí cao cả.”
Ông cười, bảo: “Được, chú có một tuần để đến đây nghe nhạc.”
Mỗi ngày, giao liên đến đón tôi vào lúc mờ sáng và đưa tôi về vào lúc mờ tối. Tất nhiên không phải lúc nào ông cũng thổi sáo. Tôi sống gần ông, ký họa một số hình ảnh bất chợt nào đó, tôi thích. Một hôm, tôi nhận ra, âm nhạc không phải chỉ thoát ra từ cây sáo, nó tràn ngập không gian. Một thứ âm nhạc có màu sắc nhưng không có đường nét. Tôi đã bị kích động và tôi vẽ một bức chân dung phóng tưởng ngoài chủ ý, cũng ngoài sở trường và quan điểm nghệ thuật của tôi.
Một tuần sau, tôi trình ông bức chân dung ông ngồi trên tảng đá, mạnh mẽ niềm tin và thanh thoát đức hạnh, cây sáo trúc đã thành củi mục. Ông nhìn tranh, rồi nhìn tôi. Ông nói: “Cám ơn chú.”
Tôi không đoán được mức độ ông hài lòng đến đâu. Nhưng tôi dự cảm được trong khoảnh khắc về một con người thực. Vì thế, tôi đưa tiếp cho ông xem bức tranh phóng tưởng như một ơn tri ngộ. Ông nhìn bức tranh cũng không nói gì. Tôi tin là ông hiểu và chia sẻ được với tôi cái xuất thần nghệ thuật phi chính trị. Nhưng ông đã cầm bức tranh phóng tưởng đầy hoan lạc ấy quăng vào đống lửa mùa đông biên giới.
Ông bảo tôi về. Tôi không bao giờ gặp lại ông và cũng không bao giờ hiểu được con người và ý nghĩ thật của ông.
Đêm ấy, tôi cũng đã đốt hết mọi ký họa của tôi về ông. Tôi đủ thông minh nhận biết được ông đã cứu tôi vì sự bồng bột của tuổi trẻ.
Tôi được cho đi lao động ở một vùng quê. Hốt phân và chăn trâu hơn một năm. Thấm nhuần hiện thực xã hội và ý nghĩa con người.
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Từ ổ rơm bước ra, cô bé sinh ra từ trứng ôm chầm lấy bà mẹ đã cưu mang mình trong bốn ngàn năm. Cô nói: “Con là con gái mẹ chờ đợi.”
Bà mẹ tuy ngỡ ngàng nhưng cũng ôm chặt con vào lòng, bà bảo: “Ừ, con yêu của mẹ. Mẹ vẫn tin rằng cuối cùng thì con cũng được sinh ra. Mẹ sung sướng lắm.”
Nước mắt của người mẹ lăn xuống trên tóc con. Mái tóc đen nhánh của cô bé trở nên mượt mà, óng ánh. Rồi người mẹ nâng cằm con lên, bà nhìn sâu vào khuôn mặt con. Và bà thấy tất cả quá khứ của bà, một người đàn bà lam lũ, trôi dạt trên các cánh đồng, các dòng sông… cũng có lúc bà nhìn thấy sự cam chịu của mình bên bếp lửa, ngày này qua ngày khác, ngọn lửa nung nấu mọi thứ thành sự sống, nhưng ánh lửa không hắt sáng lên cuộc đời bà. Bà chỉ thấy bóng tối trong đôi mắt long lanh của con.
Bà bồng đứa trẻ lên và trao qua tay người chồng: “Tuy nó không phải là con giai, nhưng nó vẫn là con ông và nó sẽ mang số phận của gia đình ta.”
Ông chồng đỡ lấy đứa con và nói: “Tất nhiên nó là con tôi.” Và cũng nhìn sâu vào mắt nó, ông thấy ngọn lửa của trái tim ông. Một tình yêu bao la với gia đình nhỏ mọn, vừa ấm áp vừa bất an. Dù thế nào, ông nghĩ, con ông phải được no đủ và hạnh phúc. Nhưng ông cũng biết rằng, cơm ăn áo mặc là nỗi lo nghìn đời ở xứ sở này và thân gái thì trong nhờ đục chịu, ông có thể lo đến đâu? Thêm một miệng ăn, có nghĩa là ông sẽ phải vất vả hơn. Ông có thể làm việc mà không cần nghỉ ngơi, nhưng để có việc làm nuôi sống gia đình không phải lúc nào cũng may mắn. Ông giời có mắt nhưng mắt nhắm mắt mở mưa nắng thất thường. Con người không thể hoàn toàn trông cậy vào sức mình mà còn cần những ơn may của trời đất. Ông ôm con âu yếm mà không thoát được nỗi lo âu về phận đời phía trước của con.
Ông bố không thể tiên đoán được những tai ương của con, nhưng tôi, chút hơi tàn trong câu chuyện, biết rằng một thế kỷ u ám đang chờ đợi cô bé được sinh ra từ trứng ấy.
Đường đi của cô gái
Làn sóng đầu tư nước ngoài vào làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn cũng như số phận của các cô gái quê. Họ ra khỏi các vụ mùa và hội hè làng quê để dấn bước vào mê lộ của thành thị, họ cũng biến mất khỏi các bức tranh đương đại về hiện thực xã hội. Đấy cũng là lúc các văn nghệ sĩ đắm chìm trong các cuộc nhậu triền miên, tự cho phép mình an nghỉ trên đỉnh phù vân Yên Tử cùng với các bậc giác ngộ Phật pháp.
Cô gái cởi bỏ bộ đồ nỉ đỏ nóng nực, mặc áo hai dây đi thuê phòng trọ. Để đỡ tốn kém, cô ở chung với một số cô gái khác từ ruộng vườn ra. Căn phòng mười lăm thước vuông ấy có một gác xép to bằng cái chiếu lớn, có thể ngủ được năm người. Cũng có thể là một căn phòng quá rộng, khi các cô gái vào nhà máy.
Các cô thường xuyên tăng ca làm việc ngày mười hai tiếng, ngày thứ bảy làm tám tiếng. Cuộc sống như cái cối xay. Đôi khi bị làm nhục. Nợ lương là chuyện bình thường. Và chịu đựng đến khi kiệt sức, không còn gì để ăn, không có tiền trả nhà trọ, họ bỏ cuộc và biến thành những con thiêu thân tìm ánh sáng. Họa hoằn lắm, họ mới dám phản ứng mạnh với giới chủ.
Bản thân cô cũng không tránh khỏi bị bóc lột và đối xử bất công. Những cuộc đình công lần lượt nổ ra rộng khắp ở các công ty, nhà máy. Nhưng môi trường đầu tư cần bình ổn, chẳng có số phận con người nào đáng kể cho sự phát triển quốc gia, hay làm giàu cho các nhóm lợi ích. Họ bị đàn áp.
Một ai đó nói với cô cần phải hành động và tham gia tổ chức này nọ. Một ai đó trao đổi với cô về phương thức tập hợp lực lượng. Nhưng cô không đi xa hơn việc khuyến khích mọi người chung quanh về quyền đòi hỏi những những lợi ích thiết thân của mình một cách hợp pháp như chống trừ lương, cải thiện điều kiện làm việc, đối xử nhân đạo, chăm sóc y tế và một chế độ ăn đủ no và đủ dưỡng chất…
Cô nói: “Nếu chúng ta không đòi thì bọn chủ không bao giờ cho. Nếu chúng ta không tự cứu thì chúng ta sẽ bị làm thịt.”
Cô vận động một nhóm đứng ra đại diện cho anh chị em công nhân để sẵn sàng đối thoại với giới chủ. Cô giả định các tình huống có thể xảy ra và đưa ra các lập luận đấu tranh, cùng họ thảo luận phương cách hành động.
Cả nhà máy đình công. Ban giám đốc từ chối đàm phán. Chính quyền vừa thuyết phục vừa trấn áp, giải tán cuộc tụ tập. Một số công nhân bị an ninh bắt điều tra. Một số khác bị đuổi việc.
Cô phải chạy trốn. Và cô nhận ra sự đơn độc của mình. Vấn đề của cô bây giờ không chỉ là ý nghĩa hay phẩm giá cuộc sống mà còn là sự tồn tại. Làm thế nào để không bị bắt và sống được qua ngày? Khi cô hiểu ra sự cần thiết của một tổ chức trong các cuộc đấu tranh thì cô đã đứng trên một cái bẫy sập do chính cô tạo ra.
Trong căn phòng tầng áp mái
Ông họa sĩ bảo cô: “Em cứ ngồi nhìn ra cửa sổ như thể em đã ngồi như thế từ muôn thuở.”
Cô hỏi: “Phải chăng chúng ta chỉ có một thế giới?”
Ông họa sĩ nói: “Nếu nhìn từ ngoài, quả thật chúng ta chỉ có một thế giới gồm những người cai trị và người bị trị. Nhưng nếu nhìn từ chính bên trong chúng ta, sẽ có vô số thế giới.”
Cô hỏi: “Điều gì đang xảy ra?”
Ông họa sĩ: “Anh đang tìm cách để những thế giới khác nhau đó có thể cùng một lúc được phơi bày.”
Cô nói: “Em không sợ phải bị mất đi chính mình nhưng em không chịu đựng nổi sự sỉ nhục phải câm nín bởi nỗi sợ hãi.”
Ông họa sĩ bảo: “Thế giới được tạo nên bởi những lớp sơn. Vì thế, thế giới luôn thay đổi.”
Tuy nói thế, nhưng ông họa sĩ đã hoàn toàn mất tự chủ. Cô gái đã ngồi cố định, nhưng ông biết là mình sẽ không thể nào nắm bắt được cô. Phản ảnh thực tại không đơn giản chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế giới toát ra từ cô như một ảo tượng. Mâu thuẫn và hoang mang. Không phải cô chạy trốn mà ông mất khả năng truy cập. Cái thực tại giáo điều đang cắn lại ông như một con chó phản chủ. Ông bần thần nhìn cô. Cô xa lạ và liều lĩnh. Không phải thiếu nữ và hoa sen hay hoa huệ, cô ngồi đó trơ trụi. Ông chợt nghĩ đến những điều được gọi là sự thật. Và ông muốn khóc. Ông đã đi quá xa cái sự thật đơn giản của bản chất sự sống. Ông cảm thấy mình thất bại. Suy đồi.
Đám đông
Họ tràn ra đường từ mọi phía. Bừng bừng như những ngọn lửa, họ gào lên và khuấy động mọi âm thanh có thể. Nồi, niêu, xoong, chảo, còi, trống, chai thùng bằng thiếc hay nhựa… cứ thế họ gõ. Khi những âm thanh hỗn độn này chưa kịp lắng xuống, thì không gian lại được lấp đầy bằng những tiếng hô đả đảo và các yêu sách của họ. Chúng tôi muốn được ăn no. Chúng tôi cần tiền lương đủ sống. Chúng tôi phải được nghỉ ngơi. Chúng tôi cần được chăm sóc sức khỏe. Con chúng tôi phải được đi học và nuôi dưỡng tử tế…
Không ai nghe thấy họ ngoài chính lỗ tai và sự phẫn nộ của họ.
Khi lực lượng chống bạo động xuất hiện với roi điện, dùi cui… họ bị chia cắt và trấn áp. Rồi họ tan rã. Lần nào họ cũng tan rã trước khi các yêu sách được trả lời.
Những khoảnh khắc khi con người đứng dậy phải được ghi nhớ và lưu truyền, vì thế họ đã phân công cho một số người chụp hình. Các thẻ nhớ được gỡ ra khỏi máy chụp hay điện thoại di động và gửi cho người khác giữ sau khi có được những tấm ảnh cần thiết. Họ bao giờ cũng chuẩn bị nhiều thẻ nhớ như thế. Sức mạnh của truyền thông không có đối thủ.
Họ biết rằng khi đám đông đến ngưỡng của sự bùng nổ thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Điều quan trọng là phải bình tĩnh và làm chủ được tình thế, nắm chắc lấy cơ hội làm thành lịch sử. Họ tin tưởng chờ đợi ngày ấy.
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Trước ngày cái Ngọ hay cái Bản Lề của bố nó dậy thì một năm, một tai nạn đã sớm biến nó thành đàn bà trước khi là thiếu nữ. Có một gã đàn ông người Hoa lang thang truy tìm đồ cổ khắp đình chùa miếu mạo làng quê đã nhìn thấy cái Ngọ. Với khả năng thiên phú của kẻ biết đánh giá báu vật, gã nhìn thấy một trầm tích những huyền thoại vô tiền khoáng hậu của cái Bản Lề. Trên cánh đồng ngô đã gần đến mùa thu hoạch, những cây ngô cao ngang đầu người xanh mướt và rậm rạp, cái Ngọ ngồi tránh nắng canh chừng con trâu đang tắm bùn gần đó. Gã lái buôn đồ cổ xin con bé miếng nước. Con bé bảo không có, muốn uống nước thì vào làng. Nhưng gã không vào làng, gã thấy con bé là một giếng ngọt. Những giọt mồ hôi trên trán đứa bé giống như từ suối nguồn cõi tiên. Gã đưa ngón tay chạm vào những giọt mồ hôi, con bé gạt tay gã ra. “Ông làm gì vậy?” Gã đi tìm báu vật lắp bắp, “Nước… nước…”. Rồi gã kéo đầu đứa bé vào lòng mình. Gã vẫn lắp bắp, “Nước… nước…” Cơn khát trong người gã kêu gào từ xa thẳm… âm vang qua bao thế hệ từ Tần Thủy Hoàng đến Mao Trạch Đông… Lúc vua Thần Nông gieo những hạt thóc đầu tiên trên mặt đất cũng là lúc hắn gieo những hạt giống của mình vào lòng con bé gọi là Ngọ hay Bản Lề khi nó chưa kịp có kinh lần đầu. Hậu quả của sự hung bạo này khiến âm hộ của con bé bị rách. Vết thương không giờ lành và chảy máu suốt bốn ngàn năm. Tuy không thể thụ thai, nhưng tinh trùng của cái giống phương Bắc vẫn nằm ẩn trong tử cung cái Ngọ suốt cuộc đời của nó. Năm ấy, cái Ngọ mười một tuổi.
Ông bố xót con nhưng không biết phải làm gì. Buồn bực, ông lấy đục đánh dấu con số 1941 tai ương trên cây cột cái giữa nhà. Sau này, mỗi khi say rượu ông đều khóc và chửi: “Địt mẹ năm 1941.”
Điều tôi không ngờ là năm 1941 cũng như tất cả các năm có biến cố khác đối với gia đình tôi cũng ít nhiều tương đồng với các sự kiện của đất nước. Cho dù tôi không cho rằng cái này là nguyên nhân của cái kia, nhưng liên tưởng đó đôi khi làm tôi lo sợ, bởi vì tôi có thể bị bắt vì tội vu khống người khác hoặc các tổ chức liên quan. Vì thế, những liên tưởng này tôi sẽ không nói ra, nó sẽ mãi mãi là những bí ẩn như lời nguyền rủa của cuộc sống.
Trong lúc chờ ngày Chúa lại đến
Cô tìm cách đi học lại và cô chọn ngành luật. Cô muốn góp sức mình cho những kẻ bị áp bức được đối xử công bằng trước pháp luật. Cô muốn luật pháp phải bảo vệ được công dân lương thiện. Mặc dù nhiều người chế diễu cô, họ nói, luật pháp gì ở cái đất nước này, chuyện thua thắng ở tòa án chỉ ăn nhau chỗ chạy cò. Nhưng cô vẫn tin vào sức mạnh của lẽ phải và sự thật, nói thay cho những người không thể cất tiếng nói.
Cô đến trường buổi tối và lặng lẽ học tập như một con kiến nhỏ. Cô cũng dành thì giờ để đọc thêm sách về lịch sử và chính trị. Một ông thày nói với cô: “Nếu kết quả học tập tốt, tôi có thể giúp em cơ hội học tiếp ở nước ngoài.”
Một số người bạn khác tìm đến cô, họ muốn cô tiếp tục hoạt động. Cô cảm thấy khó. Ở đất nước này làm sao có thể vừa hoạt động chính trị vừa được chấp nhận học tập trong nhà trường. Cô chọn con đường dài, chậm và chắc của một con kiến. Vì thế cô quyết định chỉ nhắm mắt học và kiếm tiền học.
Nhưng một hôm cô được gọi lên phòng quản lý sinh viên. Cán bộ trường nói thẳng với cô, cơ quan an ninh quan tâm đến trường hợp của cô. Và họ muốn cô làm một bản cam kết sẽ không tham gia bất cứ hoạt động nào có tính chất chính trị hay xã hội ngoài các hoạt động do trường tổ chức. Cô nói cô không thể cam kết bất cứ điều gì vì cô không có bổn phận phải làm cam kết với ai. Cán bộ trường khuyên cô nên là một sinh viên ngoan ngoãn. Cô nói cô luôn là một sinh viên ngoan ngoãn nhưng không có nghĩa là cô phải vâng lời không được làm những điều cô cho rằng có ý nghĩa và hoàn toàn hợp pháp, mặc dù hiện nay cô không có ý định làm gì. Cán bộ hỏi lại, không làm gì thì tại sao không làm cam kết? Cô cũng nhắc lại, cô không có bổn phận phải làm cam kết với ai, đặc biệt lại là với bên an ninh. Cán bộ trường bảo cô ngoan cố, bất phục tùng. Cô nói cô đang học luật và tuân thủ mọi nội qui của trường cũng như pháp luật của nhà nước.
Cô được cho về và chờ đợi ngày bị đuổi học.
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Cái Ngọ lấy chồng khi vừa mười bốn tuổi. Chồng cái Ngọ là một thằng bé cũng chăn trâu như nó, điều này chẳng có vấn đề gì, ngoài việc chồng nó là một đứa khù khờ. Cái Ngọ nhắm mắt đưa chân vì vâng lời cha mẹ và hy vọng rằng, như thế cho lành.
Có một bí mật chỉ một mình cái Ngọ biết và nó giữ kín trong lòng như thể nó gìn giữ linh hồn mình cho sự trong sạch của riêng nó. Nhưng tôi là người đã đi qua cái cửa bí mật ấy và tôi biết nó là gì.
Vào trước ngày lấy chồng một tuần, cái Ngọ vẫn đi chăn trâu trên cánh đồng ngô khi mùa mưa vừa mới bắt đầu. Và cơn mưa đã làm ướt quần áo của nó. Lúc ấy, chẳng biết sự tình cờ hay bởi một duyên cớ của định mệnh khác thường nào đã trùng hợp với thời gian ông họa sĩ phải đi lao động sản xuất và hốt phân trâu bò theo chủ trương của cuộc cách mạng vô sản vĩ đại. Và họ đã gặp nhau giữa cánh đồng ngô. Ông họa sĩ với khả năng bẩm sinh đã nhìn thấy cái đẹp choáng ngợp nhưng thô sơ của cô bé chăn trâu. Bộ quần áo ướt đẫm đã bộc lộ tất cả sự giản dị và phi thường của một thân thể mới lớn. Ông xúc động sâu xa và không thể rời mắt khỏi cô bé. Cô bé cũng nhìn ông như thể nó nhận ra ông là người đàn ông đích thực của nó. Ông hỏi nó: “Em có lạnh không?” Cô bé lắc đầu. Nhưng ông không thể nào từ khước ham muốn được ôm nó vào lòng, sưởi ấm một linh hồn mong manh. Và ông đã làm như thế. Cô bé yên lặng không nói năng. Nhưng giống như con gà con tìm được đôi cánh của mẹ, nó vui sướng ẩn nấp trong cánh tay người đàn ông xa lạ. Rồi trong cơn mưa của trời đất có một cơn mưa khác ấm áp hơn và nồng nhiệt hơn đã rơi xuống trên cánh đồng ngô, rơi xuống trong tử cung của cô bé.
Đó là năm 1944. Như tôi đã nói, đây cũng là năm đất nước có nhiều sự kiện trọng đại, nhưng quả thực tôi không dám liên tưởng và nói ra sự phát hiện này. Bởi vì tôi sợ bị bắt vì tội xuyên tạc lịch sử. Trên thế giới, năm 1944 hay các năm 1941 hoặc 1930 tất nhiên cũng có những sự kiện đáng nhớ, nhưng tôi cho rằng nó chẳng ăn nhập gì đến số phận gia đình tôi, dù trên đại cục nó ít nhiều ảnh hưởng đến những bước đi lịch sử của đất nước này.
Cô gái ngồi quán
Cô ngồi một mình với chai bia. Tóc cô hất ngược ra sau bằng một cái kẹp tóc có đính những viên ngọc trai, dù vậy, tóc cô vẫn bồng lên như bờm sư tử. Cô đẹp ngược ngạo nhưng sang trọng như một công chúa. Vừa hiện đại vừa cổ điển. Vì thế, tôi vẫn gọi cô là công chúa. Và cô chấp nhận cách xưng hô ấy như thể cô vốn dĩ là thế.
Lần nào tới quán tôi cũng chỉ thấy cô ngồi một mình. Đôi khi cô mở laptop. Một người lao động tự do, tôi đoán. Cô không bận tâm đến sự chú ý của tôi đối với cô. Tôi thực sự thích cô vì dáng vẻ quí phái lạ thường ít khi còn được nhìn thấy. Tôi không muốn đường đột làm quen với cô. Nhưng thật tình cờ, tôi bắt gặp cô trên facebook và tôi add friend với cô cùng với lời nhắn: “Hãy nhìn tôi, tôi đang ngồi cách cô một bàn.”
Cô trả lời: “Tôi thấy anh rồi. Anh hơi bị rảnh nhỉ.”
Tôi viết: “Vâng, tôi rảnh để nhìn ngắm cô mỗi khi có thể.”
Cô hỏi: “Tại sao anh lại thích nhìn ngắm tôi?”
Tôi đáp: “Vì cô đẹp như một công chúa.”
Tôi viết tiếp: “Tôi không thể không nhìn ngắm cô. Tôi xin lỗi nếu điều ấy làm cô phiền lòng.”
Cô trả lời: “Không có gì. Tôi thích.”
Tôi viết: “Tôi mời cô thêm một chai nhé.”
Cô đáp: “Cám ơn, anh cũng đâu có uống bia. Cho tôi xin một ly cam vắt.”
Tôi viết: “OK.”
Khi người phục vụ mang ly nước cho cô, tôi nhìn sang cô và cúi đầu mời.
Tôi viết: “Chúc cô vui. Thưa, công chúa.”
Cô hỏi: “Anh làm gì?”
Tôi đáp: “Tôi hết hạn sử dụng rồi.”
Cô viết: “Không phải là toàn bộ chứ? Tôi hy vọng là còn một thứ gì dùng được.”
Tôi viết: “Vâng, chưa nhũn não và biết thưởng thức cái đẹp.”
Cô viết: “Tôi thích sự lịch lãm.”
Tôi đáp: “Cô quá khen, tôi chỉ làm những gì tôi cảm thấy đó là đúng thôi.”
Cô viết: “Thật may, có rất nhiều người không nhận biết được điều ấy.”
Tôi viết: “Cô có vẻ quan tâm đến những việc xã hội?”
Cô đáp: “Thật ra, tôi chỉ cảm thấy hình như người ta không phân biệt được đúng sai.”
Tôi nhại những nghị quyết của các bác cách mạng: “Xã hội không phân biệt được đúng sai và hành động của chúng ta.”
Cô viết: “Hihi… Anh là lão thành cách mạng à?”
Tôi chép một biểu tượng với khuôn mặt cười lè lưỡi: “Haha… Tôi là phản động, thế lực thù địch.”
Cô viết: “Ờ… cũng lạ, tôi luôn luôn cảm thấy mình là thù địch mặc dù không phản động.”
Tôi viết: “Tôi hiểu. Cô có thể thù địch với cả thế giới, nhưng chừa tôi ra chứ?”
Cô viết: “Cũng không chắc. Còn tùy thuộc anh thế nào?”
Tôi viết: “Tôi sống bên ngoài thế giới.”
Cô viết: “Tôi ở bên trong thế giới, vì thế tôi thù địch với nó. Đừng nói với tôi về lòng yêu nước hay nhân bản, nhân văn gì đó nhé.”
Tôi viết: “Ok. Tôi ỉa vào cái gọi là lý tưởng.”
Cô viết: “Tôi thích kiểu lỗ mãng của anh.”
Tôi viết: “Trong tất cả mọi cuộc đấu tranh, lý tưởng luôn bị lạm dụng như một phương tiện, thay vì nó là cứu cánh.”
Cô viết: “Tôi không tranh đấu với ai hay cái gì. Mọi thứ đều là rác rưởi.”
Tôi viết: “Tôi cũng tin như thế, ngoại trừ cô.”
Tôi viết tiếp: “Nhưng không phải vì thế mà không tranh đấu. Tôi đang chiến đấu với những bóng ma. Cô tin không?”
Cô viết: “Tôi tin anh.”
Tôi sợ rằng đến một lúc nào đó, cô cũng sẽ trở thành một bóng ma của tôi.
Tôi viết: “Tôi được phép gần cô không?”
Cô viết: “Không. Anh nên là một bóng ma thì hơn.”
Cánh cửa tự do
Khi kẻ thống trị, chế độ, đất nước và dân tộc bị nhào trộn thành một thực thể duy nhất thì tự do của công dân chỉ là một khẩu hiệu lừa đảo. Ông họa sĩ nói thế, nhưng ông không thể không ca tụng cái tự do của cây trái, bông hoa, miếu mạo đình chùa, cổng làng, phố xá… và những cái lu đất. Ông cho mình cái quyền tự do của người không phát biểu chính kiến và từ chối mọi trách nhiệm liên quan. Nhưng cô gái vẫn ám ảnh ông.
Trong lúc chính quyền tuyên bố không cho phép bất cứ một tổ chức xã hội nào khác ngoài khuôn khổ nhà nước được nhen nhóm thành hình, thì các tổ chức xã hội dân sự phi chính phủ vẫn cứ hiên ngang lần lượt ra đời. Nhưng ông cũng lờ mờ nhận ra, hình như đấy cũng chỉ là một kịch bản của chính những người cấm đoán nó.
Ông thấy cô thấp thoáng trong dòng người đi về phía trước. Ông muốn níu cô lại. Ông sợ hãi cho nhân vật của ông và cho chính ông. Mọi tổ chức xã hội không do chính quyền kiểm soát đều bị coi là chống phá chính quyền. Ông muốn các nhân vật của ông vô tội vạ để ông được an thân. Nhưng ông biết nếu ông không đi hết con đường khổ nạn của kiếp nhân sinh chó đẻ này thì nghệ thuật của ông cầm bằng vứt đi. Những kẻ rúc đầu xuống cát trốn tránh sự thật vẫn trịch thượng rêu rao về cái nghệ thuật vượt thời gian, vượt không gian. Ông biết điều ấy là gian lận, ngụy tín và ông chấp nhận sự gian lận, ngụy tín ấy như một điều bất khả kháng.
Hoa sen và hoa huệ, sự khuê các hay dân dã vẫn đầm đìa cải lương chi bảo và cô gái của ông đã biến thái theo những thỏa hiệp của ông với cuộc sống mà ông biết nó kinh tởm.
Ông nhìn nhận tự do sáng tạo giống như cánh cửa mở được cả về hai phía trong, ngoài. Phía nào cũng có thể là tự do, phía nào cũng có thể là ngục tù. Và ông mắc kẹt ở ngưỡng.
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Năm 1945 cái Ngọ sinh con đầu lòng. Đó là một bé gái gầy ốm, càng lớn nó càng giống con trai, nhưng đấy là chuyện về sau. Năm Ất Dậu ấy, cả miền Bắc lả đi trong nạn đói, người chết chôn không kịp. Chị Cả cũng không tránh được thiếu sữa, lúc nào cũng xanh rớt. Đó cũng là năm bà Ngọ quyết định đổi đời. Bà đi theo người chị họ xuống Hà Nội mua những thứ linh tinh thiết yếu trong đời sống hàng ngày như đường sữa, thực phẩm khô, bánh kẹo… và đặc biệt là dầu hỏa, về mở cửa hàng tạp hóa tại nhà. Khi đã quen các mối bán sỉ, thỉnh thoảng bà cũng giao việc lấy hàng cho ông chồng và mấy người làm thuê qua một bản liệt kê bà ghi trên giấy. Thường thì họ gánh hàng về bằng những cái bồ đan bằng mây. Vất vả và nguy hiểm. Có thể bị cướp bất cứ lúc nào bởi bọn vô lại cũng như đám quan quân. Bọn lính Tây lại là một mối nguy hiểm khác mà sau này, chính bà là nạn nhân.
Nhờ việc buôn bán, nhà bà Ngọ khá dần lên, chỉ năm năm sau bà xây được căn nhà ngói. Chị Cả cũng nhờ thế có cái ăn, lớn nhanh và khỏe mạnh. Người chị ngày càng thô ra. Chị thích những trò chơi của con trai và leo trèo suốt ngày trên cây sung ngả bóng xuống cái ao sau nhà.
Ông bố vốn là một anh chăn trâu, nhưng lại hoàn toàn không hài lòng với cái vạm vỡ và nghịch ngợm của con gái. Ông cảm thấy có điều gì đó tréo ngoe, nó không thuộc về ông và những mơ ước của ông. Càng lớn nó càng khác ông. Ngay cả việc nó đòi đi học, ông cũng cảm thấy đó không phải là con gái mình. Đối với bà mẹ, thật sự bà cũng không biết nó có phải là con gái ông không. Bà chỉ chắc chắn mỗi một điều, là bà sinh nó ra theo cách thức bình thường của con người. Và bà cũng chẳng tìm thấy chút liên quan nào giữa con gái bà với ông họa sĩ. Nó không thơ mộng hay lãng mạn như tình yêu của bà. Nhưng bà ý thức được rằng nó là cuộc sống, vì thế bà vẫn yêu thương nó cho dù nó không có cái đáng yêu của một đứa con gái hiền dịu như bà mong đợi.
Chúng tôi muốn sống
Cô khoác lên người chiếc áo của người dân oan với những dòng chữ: “Công lý ở đâu?”, “Trả lại ruộng đất cho dân”… và cùng họ biểu tình trên đường phố.
Một gã côn đồ lành lặn đẹp trai lì lợm đi sát bên cô, hỏi: “Mày ở đâu?”
Cô đáp: “Tôi ở nước Việt Nam.”
Hắn tiếp: “Ở nước Việt Nam mà chống phá đất nước Việt Nam à?”
Cô nói: “Tôi chống bọn phá hoại đất nước chứ không chống phá đất nước.”
Hắn vung tay đánh thẳng giữa mặt cô. Cô ngã ra phía sau. Hắn đá thốc vào bụng cô. Mọi người lao vào, đẩy gã đàn ông ra và bao quanh bảo vệ cô. Gã vội vàng lẩn trốn. Cô đứng dậy, tiếp tục đi.
Họ ăn bụi nằm bờ mang nỗi oan ức của mình đến các cơ quan trung ương, hy vọng vào sự tử tế của các quan chức cũng như công luận đúng đắn của xã hội. Nhưng quan chức thì đùn đẩy vô trách nhiệm. Còn công luận chỉ thấy mông và vú, cướp – giết – hiếp bên cạnh những hiện tượng khoe giàu hãnh tiến và những giọt nước mắt tủi hờn của lớp người được sản sinh bởi sự vội vã thời đại đối với các loại thần tượng giải trí vớ vẩn… trên các trang thông tin của nền văn minh mới.
Người đương thời
Chưa từng có lúc nào vấn đề “thoát Trung” lại trở nên cấp bách đến thế. Các bài viết, các hội thảo, dư luận vỉa hè… đều cho rằng thoát Trung là cần thiết một cách tiên quyết cho độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước và tự do của công dân. Có những người còn đi xa hơn, họ đặt vấn đề một cách toàn diện và cốt lõi hơn cho sự phát triển dân tộc là “thoát Á”.
Nhưng với cô, chỉ cần làm thế nào để có thể yêu nước mà không phải yêu chủ nghĩa xã hội cũng như làm sao chống Trung Quốc xâm lược mà không bị bắt bỏ tù?
Trong số các khẩu hiệu được tung lên mạng internet về tinh thần này, cô ấn tượng đặc biệt với slogan của một cô gái: “Bán trôn không bán nước”. Nó bày tỏ một thái độ dứt khoát, sòng phẳng và lương thiện. Cô gái ấy chỉ bán cái là sở hữu toàn quyền và riêng biệt của cô.
Cô không buồn phiền vì bị đuổi học. Cô hoàn toàn hiểu rằng, đấy chưa phải là sự trả thù ghê gớm nhất. Cô kiếm tiền bằng việc mua bán trên mạng. Và cô dành thời gian để suy nghĩ về một phong trào hành động trong giới trẻ hướng về quyền con người cũng như độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho tổ quốc. Cô tự thiết kế những biểu tượng khác nhau mô tả cách điệu cảnh làm tình với hàng chữ “Bán trôn không bán nước” bằng tiếng Anh để in lên áo. Cô cho rằng tiếng Anh sẽ ít bị phiền hà hơn tiếng Việt cho những ai mặc nó, đối với an ninh cũng như những kẻ thủ cựu.
Cô biết mọi tổ chức các loại đều cần thiết cho cuộc đấu tranh giành lấy tự do và dân chủ. Nhưng cô tự hỏi, liệu cô có thể tham gia mà không sợ bị lạm dụng cho những mục đích riêng tư của ai đó? Liệu cô có khả năng kiểm soát cái tổ chức mà cô tham gia được điều hành đúng theo một ý nguyện chung? Nếu là một thành viên, cô có thể làm gì để tổ chức của cô đi đúng hướng ngoài sự tín nhiệm? Trong khi tất cả các tổ chức đấu tranh công khai hay bí mật đều là mục tiêu hủy diệt của chính quyền, thì việc nó được điều hành theo một nguyên tắc dân chủ phổ quát nào đó cho mọi thành viên trở nên không tưởng. Cô cảm thấy bất lực trong sự dung hợp giữa ý chí tự chủ cũng như phán quyết của mình với sự tuân phục tập thể hay nhóm lãnh đạo. Đơn giản vì cô không thể đặt cược cuộc đời mình vào niềm tin cho bất cứ một người hay nhóm đại diện nào. Vì thế, cô tiếp tục đi trong bóng tối của thời cuộc và của chính cuộc đời cô.
Ông họa sĩ
Thất lạc cô, ông rơi vào sự hoang mang của cái bất định. Cô là đối tượng nhưng đồng thời cũng là cứu cánh của ông trong cuộc đời thật cũng như nghệ thuật. Ôi, ông nhớ cánh tay mơn trớn lông măng của cô. Ông nhớ cách cô ăn, cách cô cười, cách cô định hình nhân dáng. Những phác thảo mới của ông về cô không thể tập trung nổi. Cô như bị phân tán trong nỗi nhớ mong của ông. Làm thế nào ông có thể ôm được cô, trọn vẹn. Ông biết cô là người mà ông có thể đánh đổi tất cả. Nhưng điều gì đã khiến ông hụt hơi? Quá khứ và tương lai, ông sẵn sàng vứt. Hiện tại của ông không vì thế trở nên đậm màu. Khoảng cách nào không thể vượt qua? Ông thoát Trung, thoát Đảng, thoát Á, thoát cả bản thân. Cái đẹp của trời đất thì vô hạn. Cái đẹp của cô thì vô thường. Và ông không tìm được con đường vô ngại để ôm lấy cái đẹp của sự thấu cảm. Ông là sự ung thối của nỗi sợ hãi và cái câm lặng của loài cừu.
Người đàn bà sinh ra từ trứng
Cuộc kháng chiến chống Pháp càng ngày càng khốc liệt với những trận đánh quy mô hơn. Việc đi lại giữa các vùng do quân Pháp chiếm đóng và Việt Minh kiểm soát càng lúc càng khó khăn. Vì thế việc về thành lấy hàng trở nên nguy hiểm. Nhưng cũng nhờ thế, việc làm giàu của bà Ngọ lại càng dễ dàng hơn bao giờ hết, nhất là việc mua bán dầu hỏa. Một trong những chuyến đi hăm hở ấy, bà và những phụ nữ gánh thuê cho bà đã đụng bọn lính Pháp khi họ băng qua một cánh đồng trống. Họ bị nghi ngờ tiếp tế cho Việt Minh. Chúng khám xét và đổ hết hàng hóa xuống đất và dùng dầu hỏa của họ đốt sạch. Những thùng dầu còn lại chúng lần lượt đổ lên đầu từng người. Họ chờ đợi một cuộc thiêu sống.
Tôi tưởng tượng đến những cây đuốc được thắp lên bằng xác người. Nhưng không, bọn lính Pháp chỉ dọa và tra hỏi Việt Minh ở đâu. Không ai trả lời được, vì Việt Minh có thể là chính họ hoặc chồng con, anh em họ. Tất cả phụ nữ trong chuyến đi, người lớn nhất gần bốn mươi tuổi, người nhỏ nhất mười bảy tuổi, đều bị hiếp khi trên người họ còn nồng nặc mùi dầu hỏa. Riêng bà Ngọ, bà không giờ quên, gã lính Lê Dương đè bà xuống có nước da đen nhánh và mùi nhục dục hôi nồng.
Đó là năm 1953, cuộc đấu tố địa chủ, cải cách ruộng đất được phát động. Đời sống xã hội cũng như văn hóa nông thôn miền Bắc xáo trộn đến cội nguồn. Cũng năm ấy, nhằm cứu vãn tình thế sau các thất bại liên tiếp của quân đội Pháp, Tham mưu trưởng Lục quân khối Bắc Đại Tây Dương tướng Henri Navarre được điều sang Đông Dương.
(còn nữa)
Nguyễn Viện
*Tiểu thuyết của Nguyễn Viện: Sinh ra từ trứng (Kỳ 1)