Nguyên Siêu: Hiu hắt bụi đường đôi chân không mỏi
Hai người bạn chân tình đã có nhau từ thuở nhỏ. Một người theo thiên bẩm thi phú tài hoa, văn chương lỗi lạc, tư tưởng như sâu thẳm đại dương… Một người thì lục lạo, sưu tra lịch sử meo mốc, bị bỏ quên trên những bảng gỗ, chùa hoang, dân dã… Thời bình thì cũng sống chung với nhau trong từng bữa ăn, trong từng thời giờ làm việc. Trong từng buổi giảng nơi các Tự viện, Phật học viện, Tòng Lâm, Đại Tòng Lâm… Tư tưởng vị nào cũng dồi dào, hùng mạnh như thác đổ giữa rừng khuya. Rồi cho đến thời gian bị tù đày biệt xứ thì hai người bạn chân tình cũng đồng cảnh ngộ ở tù Xà Lim, hay nơi miền rừng sâu nước độc để lãnh lấy bản án tử hình, hay hai mươi năm tù ở nhưng cả hai đều chẳng sợ, vẫn ngẩng cao đầu và đối mặt với hiểm nguy.
Một người bạn là Đạo Sư trên các nẻo bụi đường hoang vu thăm thẳm, cánh rừng già, bên vệ đường chiều tà buông phủ như kẻ lữ hành đường dài hun hút… không mệt mỏi tâm nguyện kiên định bất thối: “Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng.” Còn người bạn kia là Thiền Sư. Người đã từng nói dí dỏm: “Tui chỉ thua Bồ Đề Đạt Ma bộ râu thôi.” Đạo Sư, Thiền Sư gặp nhau nơi bụi đường hiu hắt đó. Bụi đường của trần gian, hiu hắt của cuộc đời. Thiền Sư ngồi viết lịch sử trong dáng dấp chiếc quần đùi, áo thun ba lỗ mộc mạc, đơn sơ, trông chẳng là gì của nhà sử học uyên bác, mà hôm nay tất cả con người đều cúi đầu kính phục. Đạo Sư trong chiếc áo vạt hò, bạc màu thời gian, cặm cụi dịch kinh, làm thơ, đánh đàn:
“Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn.
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.”
Đạo Sư vẫn tự tại. Tự tại như bao lần thõng tay vào chợ, hào quang đồng trần để lấm bụi đường mà đôi chân không mỏi. Chưa bao giờ biết mỏi giữa quê hương nghiệt ngã, khốn cùng. Bụi đường có lấm chân nhưng Đạo Sư, Thiền Sư vẫn sống bên nhau. Sống như đôi bạn chí thân được nứt ra từ lòng Mẹ, để rồi chơi với nhau và cùng lớn như nhau. Mỗi người bạn có một cái đầu. Cái đầu của Đạo Sư đúng như tên gọi. Cái đầu của Thiền Sư cũng chẳng khác. Mái tóc phủ vầng trán thông minh. Vầng trán đó đã cho đời một gia tài sử học thời đại vượt thời gian.
Hôm nay, ngồi xem lại hình ảnh hai người bạn Đạo Sư và Thiền Sư mà rúng động cả lòng, mà đau thương tận ruột, mà nghẹn lời trong cảnh kẻ ở người đi. Hình ảnh ấy là Đạo Sư mặc Pháp phục, y hậu trang nghiêm, chắp tay lễ Phật sơ sinh, dục mộc, nhân ngày Phật Đản. Thiền Sư không khác, chỉ khác mái tóc và bộ đồ. Nhưng có sá gì ngoại hình sắc tướng, chứng đạo Thiền là “trực chỉ nhơn tâm.” Đôi bạn thân thiết quá. Thâm tình quá. Lý tưởng quá, khó ai tìm thấy được có nơi đâu trên mặt đất hoang vu, hiu hắt này.
Đạo Sư, Thiền Sư đang ở trong nhà tù thời đại. Phương tiện để ở. Thị hiện để ở, hiện thân như bao nhiêu kẻ tù. Đạo Sư, Thiền Sư ngồi bên nhau trong tù mà thấy đầy vẻ an nhiên tự tại. Vô phiền không nhiệt. Trong ba cõi đâu chẳng là nhà. Bồ Tát lấy bụi đường làm bạn, lấy hiu hắt làm thân thích nguồn sống vô tận. Ngồi tù để nhớ lại lúc còn bên nhau dưới mái Đại Học Vạn Hạnh phân Khoa Khoa Học Ứng Dụng, đường Võ Di Nguy Phú Nhuận. Một bữa cơm trưa dưới tàng cây mận, Thiền Sư nói: “mình sinh ra đời có duyên đi tu đã đành, nhưng phải học giỏi, bằng cấp có đủ để làm Thầy giáo dục, thế hệ con em”…Đạo Sư nghe, để chén cơm xuống nói nhỏ nhẹ, nhưng đầy tính khí của kẻ sĩ: “Mấy bằng tiến sĩ giấy, chỉ đốt để uống mà thôi.” Thiền Sư cười ha hả… hai người nhìn nhau rồi tiếp tục ăn cơm trong thân tình đạo bạn.
Đạo Sư là vậy. Thiền Sư là vậy, trong đường tơ kẽ tóc, phàm thánh bất phân, hữu danh vô danh như tiếng dương cầm gõ nhịp đêm khuya bên ngọn đèn dầu bạch lạp lung linh không sáng dù để thấy người và đàn đang hiện hữu nơi đó.
Tình Đạo Sư nghĩa Thiền Sư qua bức ảnh. Đạo Sư bệnh nằm trên giường trong bệnh viện. Thiền Sư vào thăm, ngồi ghế bên giường nắm tay Đạo Sư mà dường như tâm thổn thức. Nắm tay không muốn thả. Nắm tay thật chặt để nói cho nhau nghe rằng, từ hôm nay đến vô lượng kiếp mãi là Từ Bi quyến thuộc, mãi là đôi bạn chân thân như hạnh nguyện Bồ Tát:
“Hư không dù có chuyển di
Nguyện con vô tận, chẳng suy chút nào”
Ôi đôi bạn chân tình, Đạo Sư, Thiền Sư bất phân tơ hào.
Nhưng có ai ngờ, nắm tay này là lần ly biệt, lần cuối cùng theo nghĩa thế nhân. Đạo Sư nằm, Thiền Sư ngồi hai khoảng cách không xa, nhưng dường như biết trước được rằng, giờ chia tay sắp đến, ngày cách biệt chẳng xa. Đạo Sư, Thiền Sư im lặng. Im lặng như hố thẳm. Im lặng như vực sâu không đáy, như bầu thái hư vô tận. Im lặng bặt dứt vô ngôn. Vô nhãn. Vô nhĩ… thâm trầm, vô thanh, hai tâm hồn dường một.
Chiếc Thiền sàng, Đạo Sư nằm đắp chiếc Pháp y màu măng cụt truyền thống. Đạo Sư bất động, như cái bất động ngàn đời của bậc Xuất Trần Thượng Sĩ. Không động. Không chuyển. Bất động để người đưa đi, để chư Thiên tiễn đi, để thiên nữ tán hoa đâu miên, hoa mạn thù sa dâng cúng. Hương ấy, mùi hương đạo hạnh. Hoa ấy, sắc hoa giới đức, cả hai đều bay ngược gió đến khắp muôn phương, chư thiên và loài người, thành kính đảnh lễ. Thiền Sư đi trước một tay đỡ Thiền sàng như gánh vác một ân huệ muôn trùng của tình bạn. Khi sống thì có nhau, giờ một người xả bỏ báo thân nhưng trong ý nghĩa tận cùng siêu nhiên thì luôn vẫn có nhau. Có nhau như đôi bạn chân tình. Như đôi bạn tâm giao. Có nhau như Đạo Sư Thiền Sư muôn thuở. Một bàn tay Thiền Sư đỡ Thiền sàng nâng cao, muốn nói Đạo Sư hãy lên đường thanh thản, an bình trên đạo lộ giải thoát, còn một tay để nơi ngực, Thiền Sư sẽ tiếp tục những gì Đạo Sư còn để lại, một kho tàng văn hoá quý giá. Một nền văn học kỳ vĩ của Phật Giáo Việt Nam.
Thiền Sư thi thiết, thi thiết bằng tâm nguyện vô cùng. Đạo Sư nằm. Thiền Sư đi như hai nốt nhạc dương cầm, trắng đen chỏi nhịp, khế hợp, đồng thanh hòa quyện vào nhau, du dương trầm bổng. Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình[*] nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
Ngày lễ nhập kim quan và phát tang Thầy.
Nguyên Siêu
San Diego, CA
Ngày 25 tháng 11 năm 2023
————-
[*] Đôi bạn chân tình Tuệ Sỹ – Mạnh Thát.
***
Đọc lại:
Phạm Công Thiện: Lê Mạnh Thát & Thích Tuệ Sỹ – Hai vị Thiền Sư.
Tôi được may mắn quen biết Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát khi hai vị này còn rất trẻ và còn dưới hai mươi tuổi. Bây giờ hai vị đã được 45 tuổi (cả hai đều sinh năm 1943).
Lúc tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa; bây giờ thì hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc và lại cũng là Anh Hùng Dân Tộc của Lịch Sử Việt nam hiện đại. Tại sao “gọi là Anh Hùng Dân Tộc” thì rất dễ nhận thấy (mà cụ thể nhất là cái án tử hình về tội “phản cách mạng và bạo động vũ khí lật đổ chế độ”, vân vân).
Nhưng tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là “hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt nam hiện nay”? “Thiền sư” à? Chỉ nội cái danh hiệu “thiền sư” đã là mệt rồi, lại còn thêm mấy chữ mơ hồ như “lỗi lạc nhất, thông minh nhất…”? Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với tất cả thận trọng và suy nghĩ chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cái nhìn khác thường của tôi đối với nhị vị.
Tại sao là “thiền sư”? Và “thiền sư”: Là thế nào? Không cần trả lời trực tiếp về những câu hỏi bất thường này. Nơi đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh đôi điều gián tiếp và ai muốn hiểu gì thì cứ hiểu. Không ai có thể tự nhận đủ thẩm quyền tôn giáo và tâm linh để trả lời dứt khoát những câu hỏi bất thường trên. Chỉ có những kẻ bỏ cả trọn đời mình lặng lẽ sống chết với cái gọi là “Bồ Đề tâm” hay “Phát Bồ Đề Tâm” thì may ra mới trực nhận đâu đó khí phách và thần dụng bảng lảng của “nghịch hành thiền”.
Mấy chữ “thiền sư” đã bị người ta lạm dụng để tự truy tặng một cách lố bịch hay truy tặng kẻ khác với nông nổi dễ dãi tự mãn phè phỡn nông cạn, nhất là từ lúc Thiền hay Zen trở thành cái mốt trí thức đốn mạt. Bất cứ người nào tỏ vẻ “kiêu ngạo khác thường” một chút là có những hành động cử chỉ “ngược đời trái đạo” một chút thì tự gán hay bị gán là “thiền sư’.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ không bao giờ tự nhận lời “thiền sư” và cũng không bao giờ nghĩ mình là cái gì cả trên mặt đất này. Hai người này chỉ là những kẻ lễ độ khiêm tốn một cách tự nhiên và không bao giờ biết giả vờ “hạ mình” với ý đồ kín đáo chà đạp lên trên kẻ khác.
Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau, thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên và một cách “vô công dụng hạnh” từ đời sống thường nhật và tinh thần “diệu nhập” của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là “thiền sư” với tất cả đắn đo thận trọng và với tất cả ý nghĩa cao đẹp và “như thực” của một danh xưng “xung thiên chí”…
Giữa dòng thác lũ ào ạt và địa chấn thường trực của sinh mệnh, thế mệnh, và tính mệnh của quê hương, một sớm hôm nào đó, tôi đã được xô đẩy lặn hụp với Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát; tất cả ba anh em chúng tôi đều xuất thân từ Viện Phật Học miền Trung mà vị cha già của chúng tôi Hòa Thượng Trí Thủ (người đã bị Cộng sản Hà Nội thủ tiêu ngay lập tức sau khi Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát bị bắt giam vào ngày 1 tháng 4 năm 1984, vì “tội tán thành, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ Cộng sản”).
Đối với tôi, từ lúc nào cho đến lúc nào thì Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát cũng như và hơn cả “những đứa em ruột thịt” (mang vị thế “đàn anh” thì chỉ thực sự là “anh” khi mình có đủ sức mạnh và sở kiến xô đẩy cho những đứa em vượt xa hơn mình, và sự thực hiện nay là Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đã vượt xa hẳn tôi đến nghìn trùng biên tế trong việc cưu mang trọn vẹn Tính Mệnh Việt Nam mà hậu quả bi đát là cái án tử hình do Hà Nội tàn nhẫn thực hiện bao nhiêu lần đối với bao nhiêu bộ óc siêu việt và bao nhiêu Anh hùng Liệt sĩ bất khuất của Dân Tộc.)
Cả ba anh em đều lớn lên, trưởng thành và làm việc với Viện Đại Học Vạn Hạnh mà chúng tôi coi như mái nhà gia đình trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa trắng; chúng tôi đều là thành phần chính yếu nhất của Ban Biên Tập Tạp chí Tư Tưởng do tôi chủ trương thành lập, cùng với Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Trí Hải (Phùng Khánh), Chân Hạnh, Lê Mạnh Thát.
Tất cả ý thức dẫn đạo cho cả Viện Đại Học Vạn Hạnh là do chính tất cả anh em chúng tôi quyết định (vị Viện Trưởng đương thời chỉ có thế lực về mặt hành chánh quản trị đại học, còn tất cả đường hướng tư tưởng triết lý dẫn đạo đều do chúng tôi khai thông và thể hiện trong những năm từ 1966 đến 1970, sau đó, tôi xa lìa Việt Nam cho đến nay và tôi không còn biết rõ tinh thần Vạn Hạnh như thế nào từ 1970 cho đến khi bị Cộng sản đóng cửa vào khoảng sau năm 1975).
Thực sự từ những năm 1966 cho đến 1970, Lê Mạnh Thát đang còn du học tại Hoa Kỳ, học ban tiến sĩ tại Viện Đại Học Wisconsin, Madison, hình như mãi đến năm 1973 mới về Đại Học Vạn Hạnh nhưng chúng tôi vẫn liên lạc với nhau thường xuyên, nhất là qua bài vở của tạp chí Tư Tưởng.
Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sinh năm 1943 (Thát sinh quán tại Quảng Trị và Tuệ Sỹ thì nguyên quán tại Quảng Bình và ra đời ở Paksé tại Lào). Tên thực của Tuệ Sỹ là Phạm Văn Thương và pháp hiệu Tuệ Sỹ do chính mình tự đặt ra, có lẽ vì muốn theo gương của vị Đại Thiền sư đời Trần Tuệ Trung Thượng Sỹ? Cũng như Lê Mạnh Thát đã tự đặt pháp hiệu là Trí Siêu để gợi lại tên tuổi của hai vị Trưởng lão Thiền sư có tài và có đức nhất thời hiện đại?
Tuệ Sỹ và Trí Siêu đều tu ở chùa từ lúc rất bé nhỏ; cả hai đều rất giỏi chữ Hán, và rành chữ Pháp, chữ Anh, đọc hiểu chữ Đức, đọc được chữ Pali và chữ Phạn (Lê Mạnh Thát cũng biết đôi chút chữ Tây Tạng); cả hai đều có kiến thức uyên bác về những kinh luận chính yếu của Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa.
Ít có nhà Phật học nào ở Việt nam có thể am hiểu tường tận về tư tưởng Vasubandhu và cả tư tưởng Asanga cho bằng Lê Mạnh Thát; cũng như có ít người hiểu được tư tưởng Abhidharma (hệ thống phức tạp nhất của Phật giáo Nguyên Thủy) và tư tưởng Nagarjuna một cách sâu sắc cho bằng Tuệ Sỹ.
Chẳng những thế, Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đều có kiến thức sâu rộng về Triết học Tây Phương (Tuệ Sỹ đọc rất kỹ Heidegger và Michel Foucault; bài diễn thuyết đầu tiên về Michel Foucault tại Việt Nam dạo đó là do Tuệ Sỹ thuyết trình tại giảng đường Đại Học Vạn Hạnh; còn Lê Mạnh Thát rất thông thạo về Marxism, đọc cặn kẽ bộ Recherches logiques của Husserl, hiểu biết rành rọt Wittgenstein và Bertrand Russell và Merleau-Ponty.
Tuệ Sỹ thì có tâm hồn thi sĩ chơi vơi, sống trọn vẹn trong thế giới nghệ thuật và thi ca, thổi sáo, chơi dương cầm, làm thơ, say mê thi sĩ Đức Hoelderlin, đọc hết toàn tập đường thi ngay nguyên tác, viết một tác phẩm sâu sắc thơ mộng nhan đề “Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng”; còn Lê Mạnh Thát thì không biết làm thơ và chẳng hề để ý đến nghiên cứu văn chương nghệ thuật, mà chỉ say mê luận lý học, khoa học và toán học, nghiên cứu sâu rộng về kinh tế, chính trị, và quân sự nhất là lịch sử thế giới, đặc biệt nhất là lịch sử những cuộc cách mạng ở thế giới (trong thư viện của tôi ngày xưa tặng cho Phật Học Viện Nha Trang có bộ sách Révolution Russe của Trotski).
Hồi đó vào khoảng năm 1962 hay 1963, tôi thấy Lê Mạnh Thát thường mượn đi mượn lại bộ sách ấy. Lê Mạmh Thát rất nặng tính thực nghiệm duy lý khoa học. Tôi còn nhớ vào năm 1968, nhân dịp được US State Department mời qua thăm viếng một số trường đại học Hoa Kỳ, tôi có dịp gặp Lê Mạnh Thát tại Wisconsin và không ngờ đó là lần cuối cùng và mãi đến bây giờ là 20 năm rồi mà chúng tôi vẫn chưa gặp nhau lại; đêm cuối cùng ấy, chúng tôi đã thức suốt đêm nói chuyện, và Thát đã làm tôi tức cười một cách khó quên khi Thát đề nghị xử dụng computer để hệ thống hóa tư tưởng bao la của Bát Nhã Ba La Mật. Còn nói riêng về mặt lịch sử Phật giáo bộ Chân Nguyên toàn tập (2 cuốn) và bộ Sơ thảo Lịch Sử Phật giáo Việt Nam (mới in được 2 cuốn) của Lê Mạnh Thát là những sử liệu quý báu nhất chưa từng thấy xuất hiện tại Việt Nam từ cả thế kỷ nay.
Chính Thát là người đầu tiên đã phát hiện ra “Sáu Bức Thư” quan trọng ở thế kỷ thứ V ở Việt Nam giữa Đạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu. Trong Nghiên Cứu Lịch Sử năm 1981 ở Việt Nam, Trần Văn Giầu đã trích dẫn tài liệu của Lê Mạnh Thát về “bằng chứng sáng tỏ của một số sinh hoạt văn hóa của nhân dân Giao Châu hồi thế kỷ thứ V… rằng sinh hoạt văn hóa đó đã phát triển đến một trình độ đáng tự hào, mang nhiều đặc sắc dân tộc, yêu nước. “cả một kho tàng chờ đợi chúng ta khai thác.”
Lý thuyết gia cộng sản Trần Văn Giầu đã tận lực khai thác sự phát hiện của Lê Mạnh Thát để xuyên tạc một cách ngu xuẩn tất cả nội dung tư tưởng cao siêu của Việt Nam ở vào thế kỷ thứ V. Cộng sản Việt Nam cũng sử dụng và khai thác triệt để những công trình nghiên cứu độc đáo của Lê Mạnh Thát về Nguyễn Trãi, nhân dịp UNESCO tổ chức kỷ niệm lần thứ 600 ngày sinh nhật của Nguyên Trãi. Điều này ít ai biết.
Nếu không bị giam từ ngày 1 tháng 4 năm 1984 thì chắc chắn Lê Mạnh Thát còn tiếp tục phát hiện biết bao điều bí ẩn dấu kín “đã chôn vùi trong bóng tối ngàn năm” như lời của Trần Văn Giầu nói về sự phát hiện tư liệu lịch sử về thế kỷ thứ V ở Việt Nam do Lê Mạnh Thát khai quật ra từ “Hoàng Minh Tập” và sau cùng mới đây khi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ bị Hà Nội kết án tử hình thì đó chính là sự phát hiện lỗi lạc nhất của nhị vị để cho cả thế giới thấy rằng Cộng sản Việt Nam đã lạnh lùng tàn phá tiêu diệt tất cả những gì là tinh ba, là trí tuệ thượng đẳng tâm linh siêu việt của dân tộc.
Từ lúc hãy còn rất nhỏ cho tới lớn khôn trưởng thành, Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát đều sống một đời tu hành khắc khổ và trong sạch hoàn toàn, không bao giờ ham mê danh vọng thế tục, không bao giờ để ý đến địa vị xã hội và chẳng bao giờ biết đến tiền bạc lợi lộc cho chính bản thân.
Trong lòng nhị vị vẫn thường trực hừng hực thệ nguyện vô biên đến Giác ngộ vì lợi cho tất cả và giải thoát cho tất cả, mà bước đi hùng dũng đã dược thể hiện oanh liệt nhất hiện nay là dâng hiến cả sinh mệnh mình để giải phóng quê hương thoát khỏi cái chủ nghĩa ngu xuẩn nhất, tàn bạo nhất và vô minh nhất của thế kỷ XX.
Chúng ta chỉ đủ sức nhìn thấy được những Thiền sư đúng nghĩa mỗi khi nào chúng ta có đủ sức mạnh tâm linh để tự quên mình, cũng như Đại sư Đạo Cao đã dạy thống thiết trong sách “Sáu Bức Thư ở thế kỷ thứ V” mà Lê Mạnh Thát đã phát hiện cho toàn dân tộc:
“Nếu quên mình mà hết lòng thành thì tất có cảm và có cảm thì tất có thấy: không cảm thì không thấy. Thánh nhân đâu phải không thường ở với quần sinh, đâu phải là ta không thường thấy”.
Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ đã quên mình mà hết lòng thành thì tất nhiên nhị vị cảm được tất cả những đổ vỡ bi đát của quê hương và kiếp người: Hai người đã được hết tất cả tính mệnh của Việt Nam thì tất nhiên nhìn thấy được những gì vẫn giữ lại Việt tính, và họ đã lên đường trở thành những Đạo sư dẫn đường cho cả dân tộc. Lúc Hà Nội kết án tử hình Tuệ Sỹ và Lê mạnh Thát hay bất cứ kẻ nào khác vô danh đã tranh đấu cho quyền làm người Việt Nam thì chính Hà Nội đã kết án tử hình toàn thể dân tộc.
Khi mà toàn thể dân tộc Việt nam bị một chế độ tàn bạo kết án tử hình thì đó cũng là lúc chế độ ấy đang tự hủy diệt trong lòng địa chấn linh diệu của Đại mệnh Việt Nam
Phạm Công Thiện
California ngày 18.10.1988