Trương Nhân Tuấn: Nhìn lại cuộc chiến Việt – Trung 1979
Chú thích hình: từ trái qua: Ngày 17/2/1979, lính Trung Quốc tràn sang biên giới nước ta. Ảnh: VietnamNet; Các đơn vị bộ đội của VN được huy động tới những “điểm nóng” của cuộc chiến như thị xã Cao Bằng, thị xã Lạng Sơn…; Công trình hạ tầng bị phá hủy; Rất nhiều làng mạc, thị xã, thành phố… của Việt Nam phải nhanh chóng di tản. Ảnh: Phụ Nữ TP.HCM
1. Tên gọi cuộc chiến :
Thông thường người ta đặt tên một cuộc chiến bằng tên của nơi xảy ra cuộc chiến hoặc qua « mục đích » của nó. Cuộc chiến Việt-Trung 1979, xảy ra từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 và chấm dứt ngày 5 tháng 3 năm 1979. Phía Cộng sản Việt Nam gọi đó là cuộc chiến « xâm lược »: « Chiến tranh xâm lược ngày 17-2-1979 là đỉnh cao của những hành động thù địch của lãnh đạo Trung Quốc. »
Nhưng sự thật thì chỉ hơn 2 tuần sau khi cuộc chiến mở đầu thì Trung Quốc tuyên bố đã đạt được mục tiêu và đơn phương rút quân về. Một số lãnh thổ của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm và sát nhập vào Trung Quốc, một số tỉnh thành của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc đều bị lính Trung Quốc cướp sạch, phá sạch, dân lành vô tội bị giết thê thảm. Ý nghĩa của từ « xâm lược » rất nặng nề: xâm là tiến vào, lược là cướp. Một số tài liệu cho biết chỉ trong vòng 20 ngày xung đột đã làm cho hai bên bị mất từ 60 ngàn đến 100 ngàn người. Con số phía bên Trung Quốc hy sinh vào khoảng 30 đến 50 ngàn. Con số quá lớn, cái giá quá đắt để có thể bỏ ra cho phía bên gây chiến, nếu hiểu cuộc chiến theo ý nghĩa của « xâm lược ».
Các học giả nước ngoài gọi cuộc chiến này qua nhiều tên khác nhau. Một số gọi là « chiến tranh biên giới – la guerre des frontières ». Điều này không sai vì địa bàn cuộc chiến chỉ giới hạn ở các vùng biên giới. Tên này cũng được đặt cho cuộc chiến Kampuchia, vì nguyên nhân nó bắt nguồn từ các xung đột về biên giới.
Phía Trung Quốc gọi cuộc chiến đó là « bài học » của Trung Quốc dạy cho Việt Nam. Một số học giả khác gọi đó là cuộc chiến mà Trung Quốc « đưa Việt Nam trở về vị trí của mình ».
Nhưng đâu là mục tiêu thật của Trung Quốc trong cuộc chiến?
2. Tìm hiểu ý đồ của Trung Quốc qua chính sách đối ngoại từ 1949-1979:
Trong vòng 30 năm Trung Quốc đã không ngừng thay đổi chính sách đối ngoại, từ lý thuyết đến thực tế. Tuy nhiên các ưu tiên (hay mục tiêu chiến lược) của Trung Quốc, qua các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc, không hề thay đổi. Mục tiêu chiến lược này được các học giả nước ngoài nhận diện. Đó là: 1/ đưa Trung Quốc lên hàng nước lớn – 2/ dành lại ảnh hưởng của Trung Quốc ở các chư hầu cũ (se faire admettre des puissances mondiales – reconstituer le domaine impérial). Hai ưu tiên này cũng được lãnh đạo Cộng sản Việt Nam nhận diện năm 1979: Chiến lược của những người lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có một điều không thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Người ta có thể chứng minh việc trên qua lời nói và hành động của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc.
Lãnh tụ Mao Trạch Đông, nhân hội nghị Ban chấp hành Trung Ương đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, đã nói: Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp. Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số 1 của thế giới.
Tháng 9 năm 1959, tại hội nghị Quân ủy trung ương, Mao nói: chúng ta phải chinh phục trái đất, đó là mục tiêu của chúng ta.
« Domaine impériale – vùng ảnh hưởng của thiên triều » được một lãnh tụ khác, ông Tôn Dật Tiên, cha đẻ của thuyết Tam Dân và Quốc Dân Đảng, xác định một cách rõ rệt như sau: các quốc gia Việt Nam, Triều Tiên, Miến Điện, đảo Bornéo, đảo Soulou, đảo Java, Tích Lan, Népal, Bhoutan hay các đảo Đài Loan, Bành Hồ, Rukyu dều là lãnh thổ của Trung Quốc bị mất vào đầu thế kỷ.
Mao Trạch Đông xác định tương tự vùng ảnh hưởng của Trung Quốc qua cuốn « Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng sản Trung Quốc » năm 1939: « Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam… »
Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ Quốc Dân Đảng, khẳng định mạnh mẽ hơn: « le territoire chinois est délimité par les besoins de son existence et par ses bornes de sa culture – lãnh thổ của Trung Quốc được xác định do sự cần thiết để hiện hữu của Trung Quốc và do những dấu ấn văn hóa Trung Quốc ». Như thế nơi nào mà dân Hán cần để sống, nơi nào có văn hóa Hán, các nơi đó đều của Trung Quốc.
Sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc Hiện đại xuất bản năm 1954, lãnh thổ Trung Quốc bao gồm các nước chung quanh, kể cả Đông Nam Á và vùng biển Đông.
Điều này cho thấy, các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc, quốc cũng như cộng, thảy đều có cùng một sứ mạng, một mục tiêu phải thực hiện: quang phục Trung Quốc, đưa Trung Quốc lên lại vị trí hàng đầu thế giới, dành lại ảnh hưởng đã bị mất củaTrung Quốc từ hậu bán thế kỷ 19.
Do mục tiêu chiến lược đã rạch ròi, do đó quan niệm bạn – thù của các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc không nhất quán. Theo thời gian, bạn có thể trở thành thù địch, hay ngược lại, thay đổi tùy theo tư thế hay lập trường có lợi cho Trung Quốc. Họ không « trụ » vĩnh viễn vào bất kỳ một cái gì, tất cả chỉ nhằm phục vụ cho quyền lợi của đất nước Trung Quốc.
– Từ vị trí bạn bè, đồng minh của Liên Xô, cùng chia sẻ chung một ý thức hệ cộng sản chủ nghĩa, cùng đứng một bên chống lại thế giới tự do mà Mỹ đứng đầu, Trung Quốc thay đổi 180°, trở thành đối thủ của nước này (Trung Quốc chỉ có thái độ hòa hoãn với Liên Xô vào lúc mà khối này trên đà sụp đổ). Bề mặt Trung Quốc chống Liên Xô vì Liên Xô theo « chủ nghĩa xét lại », nhưng bề trong điều này tạo cho Trung Quốc tư thế kế thừa chủ nghĩa Mác-Lê chính thống trong khối Xã hội Chủ nghĩa và thế giới Thứ Ba (Tiers Monde).Trung Quốc chống Liên Xô mặt khác cũng vì lo ngại ảnh hưởng của Liên Xô bành trướng sang các vùng có truyền thốngTrung Quốc như vùng Mãn Châu, Tân Cương. Nếu đứng chung với Liên Xô, Trung Quốc muôn đời chỉ là « anh hai » chứ không là « anh cả ». Trung Quốc tìm mọi cách để hạ Liên Xô, dành vị trí lãnh đạo.
-Trung Quốc đã từng chống Mỹ và Nhật trong một thời gian liên tục hai thập niên (1952-1972), sau đó thấy không hiệu quả, Mỹ vẫn mạnh lên, Nhật Bản vẫn giàu lên, vì thế Trung Quốc phải xoay chiều. Đổi thù thành bạn, Trung Quốc nhờ vả vào tài chánh và kỹ thuật của hai nước Mỹ và Nhật để phát triển kinh tế. Trong quá trình đổi thù thành bạn, Việt Nam là “vật tế thần”, đóng vai trò “bằng chứng” để Trung Quốc thân thiện với Mỹ và cô lập Liên Xô, nổi bật là cuộc chiến 1979.
-Trung Quốc lựa chọn đứng vào « thế giới thứ ba ». Quyết định dễ hiểu vì Trung Quốc muốn nắm vai trò lãnh đạo. Nhưng Trung Quốc sử dụng các nước trong khối này để củng cố thế lực của mình. Trung Quốc chưa bao giờ chia sẻ những gì của họ cho các nước trong khối. Khi Trung Quốc mở lời muốn giúp các nước trong khối thì Trung Quốc không có phương tiện và khả năng để giúp. Nhưng đến khi có khả năng và phương tiện để giúp thì Trung Quốc chưa bao giờ lên tiếng đề nghị giúp, kể cả lúc Trung Quốc đã trở thành siêu cường kinh tế.
– Năm 1971, Trung Quốc đóng vai lãnh đạo khối Thứ Ba, luôn lên tiếng bênh vực cho các nước, các dân tộc bị áp bức. Nhưng Trung Quốc lại dùng quyền phủ quyết (droit de veto) đầu tiên của mình để chống sự gia nhập Liên Hiệp Quốc của Bangladesh, một nước thuộc thế giới Thứ Ba, tách ra từ Pakistan. Làm thế vì Trung Quốc muốn lôi kéo đồng minh là Pakistan về phía mình để tạo thế bao vây Ấn Độ.
-Trung Quốc luôn miệng chống đế quốc thực dân và chủ trương độc lập cho các dân tộc bị ách thực dân nhưng lại đồng ý cho Goa, cựu thuộc địa Bồ, sát nhập vào Ấn Độ; trong khi đó lại chống Timor sát nhập lại vào Indonésie năm 1975.Trung Quốc cũng chiếm Tây Tạng, sát nhập và đồng hóa dân xứ này. Rõ ràng đây là thái độ của một nước thực dân tồi tệ.
Người ta cũng thấy những mâu thuẫn rõ nét giũa đường lối chính trị trong nước và đường lối chính trị ngoại giao củaTrung Quốc:
– Vào những năm 1950-1953 đảng Cộng sản Trung Quốc, trong nước chủ trương đoàn kết chính trị (front uni) giữa người cộng sản và không cộng sản, nhưng đối ngoại thì từ khuớc mọi hợp tác với các quốc gia « trung lập » tại Châu Á, kể cả các nước đã được Trung Quốc công nhận.
– Năm 1956, chủ trương Trung Quốc là « chung sống hòa bình – coexistance pacifique », nhưng đối ngoại thì Trung Quốc chống Ấn Độ do tranh chấp lãnh thổ. Hoặc năm 1969, Trung Quốc áp dụng chính sách « cách mạng văn hóa » cực tả, đối ngoại lại hòa hoãn với Mỹ, một đế quốc cực hữu mà Trung Quốc lớn tiếng lên án và khinh bỉ.
– Sau khi loại trừ được « tứ môn nhân », nhóm bốn người, chủ trương cực tả của chế độ ra khỏi bộ máy nhà nước năm 1976-1977, Trung Quốc lại bắt đầu giúp đỡ cho Khmer đỏ, là những người học trò tin tưởng điên cuồng vào lý thuyết cực đoan của « nhóm bốn người » vừa bị loại.
Trung Quốc không phân biệt bạn bè trong khối « vô sản các nước đoàn kết lại », không phân biệt « tư bản – cộng sản » mà chỉ quan tâm đến quyền lợi của Trung Quốc:
-Trung Quốc chống Liên Xô gay gắt trong những năm của thập niên 60, suýt xảy ra chiến tranh, không phải để chống chủ nghĩa xét lại và bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lê mà mục đích là ngăn cản tham vọng của Liên Xô tại Viễn Đông.
– Năm 1974 Trung Quốc đưa ra lý thuyết « tam thế giới », trong đó lại góp chung Mỹ và Liên Xô, hai nước đối nghịch ý thức hệ « tư bản – cộng sản », vào thế giới thứ nhất, là nhóm của bọn « đế quốc bành trướng ».
Trung Quốc cũng đã nhiều lần dùng vũ lực hay tham gia vào các cuộc chiến xảy ra trong thế kỷ 20, làm đổ máu hàng triệu người Hoa, mục đích các cuộc chiến là mở mang lãnh thổ và khẳng định thế lực của Trung Quốc.
-Trung Quốc chiếm Tây Tạng (1950-1955), với danh nghĩa « giải phóng » dân tộc này khỏi « ách » thần quyền. Mục tiêu thực sự của Trung Quốc là mở mang lãnh thổ.
-Trung Quốc can thiệp vào Bắc Hàn, không hẳn do tinh thần « quốc tế vô sản » bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa, mà nhằm gây dựng lại ảnh hưởng của Trung Quốc tại bán đảo Triều tiên.
-Trung Quốc đánh Việt Nam năm 1979 không hẳn là bênh vực cho Khmer Đỏ, mà là dạy cho Việt Nam một bài học về ơn nghĩa và lễ độ đối với Bắc kinh.
Ta thấy chính sách đối ngoại của Trung Quốc lúc nào cũng có hai mặt: nói và làm, lý thuyết và thực hành. Hai mặt này thường xuyên mâu thuẫn nhưng nó thể hiện rõ hơn bao giờ hết đường lối thực của Trung Quốc. Hai mặt diện và điểm. Diện là cái cớ, cái hình thức bề ngoài; điểm là mục tiêu mà Trung Quốc muốn đạt đến. Mục tiêu là nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Cuộc chiến Việt Trung vì thế, cho dầu mang tên gì, chỉ là giai đoạn cần thiết mà Trung Quốc phải đi qua để khẳng định tư thế nước lớn và dành lại vùng ảnh hưởng từ Trung Quốc từ ngàn năm nay. Vị trí địa lý của Việt Nam đã làm cho Việt Nam là một đối tượng quan trọng đối với Trung Quốc. Trung Quốc cần phải khuất phục, và thôn tính Việt Nam nếu cần, để có thể đạt được mục tiêu chiến lược. Trong đoản kỳ, người ta có thể thấy những toan tính của Trung Quốc qua hai hiệp định Genève 1954 và hiệp định Paris 1973 để chi phối Việt Nam.
3. Hiệp định Genève 1954:
Cuộc chiến Triều Tiên chấm dứt qua một hiệp ước đình chiến, ngày 27-7-1953, chia tạm thời Triều Tiên thành hai vùng, ranh giới là vĩ tuyến 38. Đây chỉ là một thỏa ước tạm thời để các bên xung đột ngưng bắn, chứ không phải là một hiệp ước giải quyết các vấn đề tranh chấp của hai bên xung đột. Nhưng phương án này được các bên tham dự vào cuộc chiến Việt Nam lựa chọn như là một kiểu mẫu giải quyết cho cả ba nước Đông Dương.
Trong cuộc chiến Đông Dương, Trung Quốc là nước giúp vũ khí và nhân lực nhiều nhất cho Cộng sản Việt Nam. Đương nhiên Trung Quốc có tiếng nói và trọng lượng đáng kể lên mọi quyết định của phía Cộng sản Việt Nam trong hội nghị Genève. Trên tư thế kẻ cả, Trung Quốc đứng ra thương lượng với Pháp về một giải pháp cho Việt Nam nhưng thực ra Trung Quốc mặc cả với Pháp để có một giải pháp có lợi trước tiên cho mình.
Lập trường của Việt Nam trong hội nghị Genève: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi vói một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương
Lập trường của Trung Quốc, thể hiện qua tuyên bố của Châu Ân Lai ngày 24 tháng 8 năm 1953: đình chiến ở Triều Tiên có thể dùng làm mẫu mực cho những xung đột khác.
Mục tiêu của Trung Quốc là dùng Việt Nam để thương lượng với Pháp, lấy giải pháp Triều Tiên để tạo vùng đệm ở Đông Nam Á, ngăn chặn Mỹ vào thay thế Pháp, không muốn chiến sự mở rộng, bảo đảm an ninh về phía nam của Trung Quốc.
Tháng 4 năm 1954, trong một cuộc họp chuẩn bị cho hội nghị Genève, gồm có các đại diện của Trung Quốc, Liên Xô, Việt Nam; đại biểu Trung Quốc nói: Trung Quốc không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở đây mở rộng.
Vì là nước giúp vũ khí (nhân sự) cho Cộng sản Việt Nam thấy đâu là giới hạn của cuộc chiến. Trung Quốc muốn chấm dứt chiến tranh Đông Dương theo lối Triều Tiên, nghĩa là đình chỉ chiến sự mà không có giải pháp chính trị. Điều này đương nhiên rất có lợi choTrung Quốc: một nước Việt Nam bị chia cắt là một nước Việt Nam yếu, tồn đọng nhiều nguy cơ bất ổn chính trị dễ dàng cho Trung Quốc khuynh đảo sau này.
Mục tiêu của Pháp trong hội nghị Genève là nhằm tìm một giải pháp ngưng bắn cấp thời để cứu đội quân viễn chinh, và nếu có thể, giữ ảnh hưởng Pháp tại Đông Dương. Vì thế Pháp cũng ưu tiên cho một giải pháp tương tự ở Triều Tiên.
Như thế lập trường của Trung Quốc tương đối phù hợp với lập trường của Pháp hơn là lập trường Việt Nam, mặc dầu Trung Quốc và Việt Nam trên thực tế là một phe.
Quá trình đàm phán hội nghị Genève về các nước Đông Dương gồm hai thời kỳ, hoàn toàn do Trung Quốc chủ động đàm phán với Pháp.
– Từ ngày 8 tháng 5 đến 23 tháng 6, Trung Quốc và Pháp đàm phán trực tiếp 4 lần, hai bên đạt thỏa thuận về những nét cơ bản của một hiệp định ngưng bắn tại Đông Dương. Những nét cơ bản này được nhận diện qua cuộc họp ngày 17 tháng 6 năm 1954 giữa Chu Ân Lai và trưởng đoàn Pháp Georges Bibault: Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính quyền Bảo Đại), công nhận chính phủ vương quốc Lào và vương quốc Campuchia, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của chính phủ kháng chiến Lào và chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia hội nghị Genève và đưa ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút ra khỏi Lào và Campuchia. Cuộc họp ngày 23-6-1954 giữa Chu Ân Lai và Mandès France, thủ tướng mới của Pháp, nội dung của hiệp định thành hình rõ rệt hơn: chia cắt Việt Nam, hai miền Việt Nam cùng tồn tại hòa bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết 3 vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia. Trung Quốc sẵn sàng nhìn nhận 3 nước này trong Liên Hiệp Pháp, Trung Quốc chỉ yêu cầu không có căn cứ quân sự Mỹ tại Đông Dương.
Pháp và Trung Quốc qua các đàm phán đã đạt được một giải pháp chung về Đông Dương, đặc biệt giải pháp này trùng hợp với giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954 (tức 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Mandès France).
– Từ ngày 23 tháng 6 đến 20 tháng 7: Vì đã có đồng thuận với Pháp và các đại cường, Trung Quốc trong thời gian này đóng vai trò thúc đẩy, nếu không nói là ép Việt Nam thuận theo ý đồ của Trung Quốc. Lập trường của Việt Nam cho đến ngày ngày 10 tháng 7: giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 13; tổ chức tổng tuyển cử tự do trong thời hạn 6 tháng để thống nhất đất nước; các đại biểu của chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia được quyền tham dự như các bên đàm phán.
Thái độ Trung Quốc hối thúc Việt Nam thấy được qua điện tín Chu Ân Lai ngày 10-7 gởi phái đoàn Việt Nam như sau: « có những điều kiện công bằng và hợp lý để chính phủ Pháp có thể chấp nhận được, để đi đến hiệp định trong 10 ngày, điều kiện đưa ra nên đơn giản, rõ ràng để dễ đi đến hiệp thương, không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà, kéo dài đàm phán để cho Mỹ phá hoại ». Một điện tín trước đó, ngày 30-5, cũng của của Chu Ân Lai: « Đánh giá phương án (tức phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến) khó có thể thỏa thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự ».
Điều này cho thấy Trung Quốc đe dọa cắt Hà Nội và Hải Phòng biến thành vùng « trái độn » và cho Pháp trở lại, nếu Việt Nam không nhượng bộ.
Việt Nam cuối cùng chấp nhận giải pháp: các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia, ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên chiến trường Đông Dương, Pháp rút quân, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai miền, tiến tới tổng tuyển cử tự do trong cả nước sau hai năm để thống nhứt nước nhà.
Về hội nghị Genève, Cộng sản Việt Nam sau này phê bình Trung Quốc như sau: giải pháp mà đoàn đại biểu Trung Quốc thỏa thuận với đoàn đại biểu Pháp ở Genève không phản ánh so sánh lực lượng trên chiến trường, cũng không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu chính trị của giải pháp do đoàn đại biểu Việt Nam đề ra.
Và kết án Trung Quốc phản bội lại cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
Cuối cùng Cộng sản Việt Nam ý thức: Trung Quốc đã hy sinh lợi ích của ba nước Đông Dương để bảo đảm an ninh của họ ở phía nam.
4. Hiệp định Paris 1973.
Sau hiệp định Genève 1954, cuộc bầu cử thống nhất hai miền Nam và Bắc Việt Nam dự trù 2 năm sau đã không diễn ra như đã qui định. Hai bên miền Nam và miền Bắc Việt Nam qui lỗi cho nhau là phá hoại, không chấp nhận tổ chức bầu cử.
Miền Bắc, sau một vài đợt cải cách ruộng đất thất nhân tâm đã gây bất mãn sâu sắc trong xã hội, một cuộc tổng tuyển cử năm 1956 chưa chắc ông Hồ sẽ thắng. Năm 1954, hàng triệu người dân miền Bắc đã di cư vào Nam phần nào cho thấy dân miền Bắc không thích các chủ trương Xã hội Chủ nghĩa do ông Hồ áp dụng, đã ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí làm đảo lộn đời sống của người dân Việt Nam. Miền Bắc vì thế sẽ thất bại nếu cuộc bầu cử diễn ra.
Yếu tố quan trọng khác, miền Bắc đất ruộng chật hẹp, nghèo nàn; công kỹ nghệ, hạ tầng cơ sở rất kém, có thể nói là chưa có gì, tóm lại, miền Bắc là một vùng rất nghèo. Trong khi miền Nam ruộng đất phì nhiêu, các hạ tầng có sở do Pháp để lại đều tương đối tốt, nếu không nói là khá, vượt trội so với nhiều nước chung quanh. Miền Nam có triển vọng cất cánh nhanh chóng so với miền Bắc.
Đây là những lý do khiến ông Hồ không muốn tổ chức “tổng tuyển cử” năm 1956 và quyết định “thống nhất đất nước” bằng vũ lực và bằng mọi giá, càng sớm càng tốt.
Trong khi mục tiêu của Trung Quốc muốn là muốn duy trì tình trạng Việt Nam như qui định của hiệp định Genève. Trung Quốc thuyết phục lãnh đạo miền Bắc chủ trương « trường kỳ mai phục ».
Mao nói với lãnh đạo Việt Nam: « Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ. Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm ».
Tháng 7 năm 1955 Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Trung Quốc là Đặng Tiểu Bình nói: « Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một khả năng là thắng và một khả năng nữa là mất miền bắc ».
Tháng 7 năm 1957 Mao Trạnh Đông nói: « Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có, phải giữ vĩ tuyến 17… Thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt ».
Như thế rõ rệt: Trung Quốc muốn Việt Nam giữ nguyên trạng theo hiệp định Genève, chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17 càng lâu càng tốt.
Nhưng, vì lý do vừa nói trên, thời gian càng kéo dài thì kinh tế miền Nam càng vượt xa miền Bắc vì thiên nhiên ưu đãi, quân đội do đó mạnh hơn, việc « thống nhứt » đất nước bằng vũ lực sẽ không bao giờ thành công mà có thể mất cả miền Bắc, như lời của Đặng Tiểu Bình. Trường hợp thống nhất bằng đường lối tổng tuyển cử hòa bình thì miền Bắc không có xác suất nào để thắng.
Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam chọn giải pháp vũ lực, đánh miềm Nam càng sớm càng tốt, để hy vọng thắng và tồn tại.
Bắc Kinh không thuyết phục được Cộng sản Việt Nam « trường kỳ mai phục ». Với nhân sự đã cài lại sau 1954, Cộng sản Việt Nam mở cùng lúc nhiều mặt trận (chính trị, quân sự) đánh phá miền Nam. Trung Quốc, vì biết không thể cản, phải nương theo cái gọi là « tinh thần quốc tế vô sản », giúp đỡ vũ khí, lương thực và nhân sự để có khả năng gây ảnh hưởng lên lãnh đạo Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, cuộc chiến càng kéo dài, vũ khí đạn dược lạc hậu do Trung Quốc viện trợ trở thành không tương xứng với vũ khí tối tân của quân đội miền Nam và quân Mỹ. Vì thế lãnh đạo Cộng sản Việt Nam ngày càng hướng về phía Liên Xô. Từ 1965 đến 1969 viện trợ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc lên tới khoảng 4 hoặc 5 tỉ đô la, trong khi viện trợ của Trung Quốc chỉ còn 10% con số viện trợ của Liên Xô. Miền Bắc tách dần khỏi quĩ đạo Trung Quốc, trở thành vệ tinh của Liên Xô, lệ thuộc từ tư tưởng cho đến hành động. Liên minh Việt-Xô làm Trung Quốc lo ngại, không khác đe dọa áp lực quân sự của Mỹ ở phía Nam. Trong khi đó Lào và Campuchia trung lập, Trung Quốc tưởng chừng không còn điểm nắm tại Đông Dương.
Từ tháng 5 năm 1968 hội nghị Paris được mở; Trung Quốc cho đây là « một sự gian trá về đàm phán về hòa bình ». Trong thâm tâm Trung Quốc lo ngại Washington và Moscou ép Hà Nội về một giải pháp mà Trung Quốc đứng ngoài.
Trung Quốc thường xuyên tố cáo « bọn xét lại » Liên Xô « âm mưu » liên kết với Mỹ để « ly gián » tình hữu nghị Trung-Việt và phá hoại khối liên kết chống Mỹ của hai dân tộc Việt-Hoa. Trung Quốc tố cáo sự trợ giúp của Liên Xô cho Việt Nam là giả tạo, bề ngoài, mục đích của nó là làm cho hai nước Trung-Việt chống đối lẫn nhau.
Trung Quốc nói với lãnh đạo Cộng sản Việt Nam rằng Việt Nam đàm phán với Mỹ là « nghe theo lời Liên Xô ». Trung Quốc cho rằng Việt Nam dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ để nhằm mục tiêu đàm phán với Mỹ thì viện trợ của Trung Quốc không có ý nghĩa.
Ngày 17 tháng 10 năm 1968, Trần Nghị, bộ trưởng bộ ngoại giao, đến gặp đại diện Việt Nam đe dọa chấm dứt ngoại giao nếu Việt Nam « chấp nhận 4 bên đàm phán ». Trung Quốc cho rằng như thế là giúp Johnson thắng cử, làm kéo dài sự « đô hộ của dân miền Nam dưới gót giầy đế quốc Mỹ ! ».
Năm 1969 Trung Quốc hỏi Cộng sản Việt Nam: Thế Việt Nam muốn đánh hay hòa để Trung Quốc tính việc viện trợ? Viện trợ của Trung Quốc năm 1969 sụt 20% co với năm 1968.
Đứng trước đe dọa đàm phán của ba nước Việt-Xô-Mỹ có thể gây bất lợi, Trung Quốc thúc đẩy Hà Nội lên thang chiến tranh nhằm phá hoại. Mục tiêu của Trung Quốc là không cho Mỹ thực hiện kế hoạch « Việt Nam hóa chiến tranh ». Mục đích của Trung Quốc buộc Mỹ phải quan tâm đến quyền lợi của Bắc Kinh.
Từ năm 1970 vấn đề Việt Nam lại gắn thên vấn đề Campuchia. Ông hoàng Sihanouk bị tướng Lon Nol đảo chánh, phải tị nạn tại Bắc Kinh. Trung Quốc đầu tư vào con bài Sihanouk. (Sau đó là Khmer Đỏ, mặc dầu Đặng Tiểu Bình rất ghét Pol Pot vì lý do cá nhân, nhưng vì nhu cầu phải cầm chân Việt Nam nên Trung Quốc phải giúp bọn phạm tội ác diệt chủng).
Phía Mỹ ý thực được vai trò của Trung Quốc, nhận thấy không thể thực hiện kế hoạch « Việt Nam hóa chiến tranh » nếu không có sự đồng thuận của Trung Quốc. Vì thế con đường « Việt Nam hóa chiến tranh » bắt buộc phải đi qua Bắc Kinh.
Tuy nhiên bề mặt đối với Việt Nam thì Trung Quốc luôn biểu lộ sự ủng hộ tích cực Cộng sản Việt Nam và chống đối Mỹ mạnh mẽ. Trung Quốc vẫn muốn lôi kéo Việt Nam trở lại nhưng cũng lo ngại để lộ bộ mặt thân Mỹ, Việt Nam sẽ ngã hẳn về phía Moscou.
Trung Quốc giả vờ bày tỏ lập trường cứng rắn ủng hộ Việt Nam trong hai dịp: tháng 9 năm 1971 lúc thủ tướng Lý Tiên Niệm sang Hà Nội và tháng 11 năm 1971 lúc Phạm Văn Đồng tại Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1972 Chu Ân Lai sang Hà Nội xác định lại lời hứa của Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam đến khi chiến thắng.
Qua các cuộc đi đêm và ngoại giao « bóng bàn » với Washington, Bắc Kinh lập lại cầu nối với Mỹ. Bắc Kinh làm áp lực lên Hà nội để Mỹ rút quân khỏi Việt Nam bình an. Đổi lại, Mỹ nhìn nhận Bắc Kinh là đại diện chính thức của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, thay vì nhà nước Quốc Dân đảng ở Đài Bắc, đồng thời hứa giúp Trung Quốc phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Năm 1979, sau cuộc chiến Việt-Trung, Cộng sản Việt Nam tố cáo Trung Quốc vào khoảng thời gian này đã sử dụng Việt Nam như là con bài để thuơng lượng với Mỹ về vấn đề Đài Loan. Nhưng thực ra phía Trung Quốc có giải thích chủ trương của Trung Quốc là giải quyết Việt Nam trước, Đài Loan sau. Điều này cho thấy đúng.
Hiệp định Paris 27-1-1973 đưa Việt Nam trở lại tình trạng năm 1954: trong nhất thời hiện hữu hai quốc gia Việt Nam và việc thống nhất sẽ bằng một phương pháp hòa bình mà điều này sẽ chỉ thực hiện trong một thời gian rất xa. Mỹ không mong muốn gì hơn là rút chân một cách an toàn ra khỏi miền Nam. Riêng Lào và Campuchia trở lại giải pháp theo hiệp định Genève 1954 và 1962, xác định lại sự trung lập của hai nước này. Phía Trung Quốc đón nhận hiệp định với sự hài lòng, vì Trung Quốc được trở lại sân khấu với vai trò quyết định số phận ba nước Đông Dương qua thỏa ước cuối cùng ký ngày 2 tháng 3 năm 1973. Trung Quốc cũng đã thiết lập trước đó một mối giao hảo khá thân mật với Mặt trận Giải phóng Miền Nam, sẽ là một thành phần trong chính phủ mới tại miền Nam (nếu hiệp định Paris được tôn trọng).
Quan hệ Bắc Kinh và Hà Nội chỉ bắt đầu tồi tệ từ khi hiệp định Paris không được các bên tôn trọng.
Phía Hà Nội không có lý do tôn trọng vì hiệp định không giải quyết được quyết tâm « thống nhất đất nước ». Phía Sài Gòn cũng không có lý do tôn trọng vì hiệp ước dự trù một chính phủ liên hiệp ba thành phần, trong đó Sài Gòn một thành phần, trung lập một thành phần và Mặt trận Giải phóng Miền Nam là một thành phần khác. Trong khi đó, cũng như thời gian sau hiệp định Genève 1954, Trung Quốc khuyên nhủ Hà Nội kiên nhẫn chờ đợi.
Tháng 6 năm 1973 Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng: “Ở miền Nam cần ngưng chiến nửa năm, một năm, một năm rưởi, hai năm càng tốt… Cách mạng miền Nam nên chia làm hai bước… ». Chu Ân Lai thì nói: « trong một thời gian chưa thể dứt khoát là 5 năm hay 10 năm, Việt Nam và Đông Dương nghỉ ngơi được thì tốt… ». Trung Quốc hứa hẹn sẽ viện trợ 5 năm với mức kim ngạch như năm 1973.
Nhưng Trung Quốc không đủ khả năng tạo sức ép lên Hà Nội và các bên để yêu cầu tôn trọng hiệp định Paris. Viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Nam bị cắt (viện trợ kinh tế thì vẫn còn) nhưng không ngăn được chiến cuộc leo thang mà phần thắng ngày càng nghiêng về phía miền Bắc, do sự viện trợ quân sự ào ạt của Liên Xô, trong lúc miền Nam đã không còn chỗ dựa.
Mỹ đã dứt khoát với miền Nam, mặc dầu Mỹ được sự khuyến khích của Trung Quốc trở lại giúp quân đội Sài Gòn. Trung Quốc không muốn cho Hà Nội thắng, nhưng sự ủng hộ của quần chúng Mỹ cho cuộc chiến đã không còn, số phận miền Nam đã định.
Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản Việt Nam tuyên bố năm 1979: Việc giải phóng và thống nhứt miền Nam không chỉ là một thất bại của đế quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền ở Bắc Kinh trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đồ bành trướng bá quyền của họ….
Học giả François Joyaux, tác giả cuốn « La Tentation Impériale – politique extérieure de la Chine depuis 1949 », cho rằng cuộc chiến Việt Trung 1979 bắt nguồn từ việc Hà Nội không tôn trọng hiệp định Paris. Việc này xét ra không sai: nó là nguyên nhân xa đưa đến sự khủng hoảng trầm trọng giữa hai nước Việt-Trung. Nó cũng là nguyên nhân khiến cho Trung Quốc quyết định chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng giêng năm 1974.
5/ Nguyên nhân cuộc chiến 1979
5.1 Vấn đề người Hoa hay « nạn kiều »:
Vào năm 1975 người Hoa ở miền Nam Việt Nam khoảng 1.200.000 người, phần lớn ở Chợ Lớn (800.000), nắm phần lớn huyết mạch kinh tế miền Nam. Con số này cộng thêm 200.000 là số dân Hoa sống tại Campuchia, sau 1975 chạy sang Việt Nam tị nạn. Vấn đề quốc tịch người Hoa được Bắc Kinh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt ra sau khi ký kết hiệp định Genève. Việc thuơng thuyết gặp khó khăn, nhưng cuối cùng kết quả là người Hoa tại Việt Nam (miền Bắc) được có những quyền lợi tương tự như người bản xứ nhưng những người này phải lần hồi lấy quốc tịch Việt.
Ở miền Nam, thời Ngô Đình Diệm đã có những chính sách hạn chế sinh hoạt kinh tế của ngoại kiều. Người nước ngoài không được làm một số ngành nghề, việc cấp Visa cũng khó khăn, hạn chế. Điều này cũng áp dụng cho Hoa Kiều, vì thế lớp người này hầu hết nhập tịch Việt Nam.
Sau 1975, Cộng sản Việt Nam áp dụng chính sách « đánh tư sản mại bản », một số tài phiệt người Việt gốc Hoa tại miền Nam bị bắt cải tạo hay đày đi kinh tế mới. Các bang, hội đồng hương, tương tế của người Hoa bị cấm hoạt động. Hai đợt đổi tiền (1975, 1978), bề mặt là kiểm soát lượng tiền tệ, nhưng mục tiêu lột sạch của cải dân miền Nam, trong đó người Việt gốc Hoa là nạn nhân chính. Song song đó là chính sách « cải tạo công thuơng nghiệp », toàn bộ tài sản của dân miền Nam, trong đó có người Việt gốc Hoa, ruộng đất, vườn tược hoàn toàn bị tước đoạt.
Năm 1976, nhân việc tổ chức bầu cử toàn quốc, những người Việt gốc Hoa ở miền Nam bị bắt buộc khai quốc tịch, việc này quan hệ đến đại đa số dân Hoa sống tại đây vì từ thập niên 50 họ đã có quốc tịch Việt Nam, một phần ít nhiều do chính sách ép buộc của Việt Nam Cộng Hòa đã nói trên. Như thế người Hoa bị hai mất mát lớn: vừa mất quốc tịch vừa mất tài sản. Tương tự như tại Indonésia năm 1965, họ phải tị nạn, một số về lại mẫu quốc, một số khác sang sinh sống các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó chính phủ Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã có cam kết với Bắc Kinh về tình trạng của người Hoa sau chiến tranh. Ngày 24 tháng 5 năm 1965, mặc dầu còn đang chiến tranh, Mặt trận Giải phóng Miền Nam công bố một lá thư nhằm gởi đến Hoa kiều đang ở miền Nam, nội dung cho biết những người này có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của mình. Năm 1968 việc này được Chính phủ Mặt trận Giải phóng Miền Nam nhắc lại và Bắc Kinh tiếp nhận sự việc này. Như thế đây là một lời cam kết giữa hai chính phủ. Nhưng Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã bị âm thầm « xóa sổ », không kèn không trống, một số nhân vật của tổ chức này vượt biên ra sống ở hải ngoại, một số rất nhỏ được Cộng sản Việt Nam sử dụng, nhưng số rất lớn khác vẫn còn ngậm đắng nuốt cay cho đến ngày hôm nay.
Người Việt gốc Hoa từ năm 1977 bắt đầu chạy trốn Việt Nam, đỉnh cao là tháng 3 năm 1978 sau khi nhà nước Cộng sản Việt Nam áp dụng chính sách cải tạo công thuơng nghiệp, quốc hữu hóa toàn bộ, việc này gây một làn sóng « boat people », không riêng gì người Việt gốc Hoa mà người Việt chính gốc cũng bỏ nước ra đi. Thảm cảnh thuyền nhân kéo dài nhiều năm, con số lên đến hàng triệu người, tình trạng chết chóc do bão tố, nạn nhân hải tặc v.v… làm chấn động cả thế giới. Phong trào vượt biên kéo dài cho đến thập niên 90.
Ngày 12 tháng 5 năm 1978, Bắc Kinh quyết định ngưng một phần viện trợ cho Việt Nam để giúp cho số người Hoa hồi hương về lục địa. Theo Bắc Kinh, con số này lên tới 40.000 người. Cuối tháng 5, Bắc Kinh đề nghị gởi thuyền bè sang Việt Nam để cho những người Hoa, những người muốn hồi hương. Hà Nội chính thức hóa, ngày 20 tháng 6, việc hồi hương người Hoa. Cùng lúc, Bắc Kinh tuyên bố bãi bỏ thêm một phần viện trợ cho Việt Nam để dành cho việc tái định cư những người hồi hương. Cũng trong tháng 6 Trung Quốc đóng cửa các tòa lãnh sự của Việt Nam tại Quảng Châu, Côn Minh và Nam Ninh. Ngày 3-7-1978 Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút toàn bộ chuyên gia đang giúp Việt Nam về nước.
Theo hồi ký công bố gần đây, (nguồn BBC 17-2-2006) của Zhou Deli (Châu Đức Lập), tham mưu trưởng của Quân khu Quảng Châu, vào tháng Chín 1978, có nói về một cuộc họp tại văn phòng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Trung Quốc, nội dung tìm phương pháp “giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng”.
Ông này viết rằng:
« Sự tập trung ban đầu là nhắm vào cuộc xung đột biên giới, và đề xuất đầu tiên muốn có một cuộc tấn công nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam ở Trùng Khánh, giáp ranh Quảng Tây.
Sau khi nhận được tin tình báo cho biết Việt Nam sẽ tấn công Campuchia, đa số người dự họp cho rằng một cuộc tấn công cần có tác động lớn đến Hà Nội và tình hình Đông Nam Á.
Họ đề nghị tấn công vào một đơn vị quân chính quy Việt Nam ở một khu vực địa lý rộng hơn.
Cuộc họp kết thúc mà không đưa ra quyết định nào, nhưng nó tạo tiền đề cho kế hoạch chiến tranh sau đó »
Vấn đề « lãnh thổ » của Trung Quốc bị Việt Nam chiếm đóng cần phải xét lại khi các dữ kiện liên quan được các bên công bố. Cuốn « Bị vong lục » của Việt Nam công bố năm 1979, tố cáo Trung Quốc xâm chiếm đất của Việt Nam, (nếu so sánh với hồ sơ biên giới 1885-1897) cho thấy có một số điểm sai. Lãnh thổ (trên vùng biên giới) mà Châu Đức Lập đề cập là « lãnh thổ » nào? Tuy nhiên, lời nói của viên chức này rõ ràng cũng ám chỉ các đảo thuộc Trường Sa của Việt Nam.
Nhưng có lẽ vấn đề « nạn kiều » là một lý do để có buổi họp quân sự từ tháng 9 năm 1978.
Điều này có nghĩa là quyết định đánh Việt Nam đã có trước khi Việt Nam mở cuộc chiến toàn diện với Campuchia vào cuối năm 1978.
5.2 Vấn đề Campuchia:
Quan hệ Việt-Trung sau vấn đề « nạn kiều » 1978 đã trở nên trầm trọng, có thể gọi là hết thuốc chữa. Sự việc bắt đầu từ khi hiệp định Paris 1973 không được tôn trọng, đến 30 tháng 4 năm 1975 giao hảo Việt-Trung không còn tình hữu nghị, mà chuyển sang đối đầu, vì Việt Nam đã lệ thuộc hẳn vào Liên Xô. Vì cùng lo ngại sự hiện diện của Liên Xô tại Đông Nam Á, Trung Quốc đã thành công ký kết ngoại giao với các nước có truyền thống chống Trung Quốc tại Đông Nam Á như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương v.v…
Mực độ căng thẳng Việt-Trung thấy được qua việc Cộng sản Việt Nam tố cáo Trung Quốc gây chiến trên biên giới Việt-Trung: năm 1975 là 234 vụ, năm 1978 là 2175 vụ, tăng 9 lần. Việc gia tăng hiềm khích là phản ảnh của quan hệ căng thẳng Việt-Trung trong thời gian đó.
Về quan hệ giữa Trung Quốc và Campuchia, Cộng sản Việt Nam tố cáo Pol Pot và Ieng Sary, sau 1973, theo lệnh của Bắc Kinh thi hành chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa dựa vào Việt Nam vừa chống Việt Nam.
Theo hiệp định ký kết với Mỹ, Trung Quốc không được viện trợ quân sự trực tiếp cho ba nước Đông Dương. Nhưng bề trong Trung Quốc viện trợ cho nhóm Pol Pot – Ieng Sary qua ngả Việt Nam; Việt Nam viện trợ cho nhóm này, sau đó Trung Quốc sẽ hoàn trả lại cho Việt Nam. Như thế hai mặt Trung Quốc không thất hứa với Mỹ mà vẫn giúp vũ khí cho phe kháng chiến Campuchia.
Ngày 17 tháng 4 năm 1975 chính quyền Lon Nol bị sụp đổ, phe Pol Pot và Ieng Sary lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia lên nắm quyền ở Nam Vang. Đây là những người đệ tử cuồng tín của chủ nghĩa Mao-ít. Ông Hoàng Sihanouk, lá bài chủ của Trung Quốc, bị lu mờ phải ra sau hậu trường chờ thời. Đặng Tiểu Bình cho dầu không ưa bọn Pol Pot, nhưng cũng sử dụng vì bọn này lại tỏ ra rất hữu hiệu để chống phá Việt Nam.
Theo tài liệu Cộng sản Việt Nam, Trung Quốc viện trợ cho Campuchia tiền bạc, vũ khí cùng hàng vạn chuyên gia cố vấn để huấn luyện và vũ trang hàng chục sư đoàn bộ binh, thiết giáp, pháo binh, xây dựng và mở rộng nhiều căn cứ hải quân, không quân và hệ thống nhà kho hậu cần, giúp Pol Pot chuẩn bị chiến tranh với Việt Nam.
Thực ra hiềm khích giữa hai dân tộc Việt và Miên đã có từ lâu đời, nguyên nhân là các vấn đề tranh chấp lãnh thổ và biên giới. Phía bên Campuchia không chấp nhận nguyên tắc « uti possidetis » của quốc tế công pháp, có dịp là lên tiếng chống Việt Nam Cộng Hòa, đòi hỏi phi lý các vùng đất đã thuộc về Việt Nam do các quyết định hành chánh hay các hậu quả pháp lý của các hiệp ước về biên giới ký kết dưới thời Pháp. Họ phủ nhận đường biên giới qui ước Pháp thiết lập trong quá khứ. Thực ra Việt Nam cũng là nạn nhân của di sản nhà nước thực dân: công ước phân định biên giới giữa nhà Thanh (Trung Quốc) và Pháp năm 1887 đã làm cho miền Bắc Việt Nam mất nhiều vùng đất quan trọng về kinh tế và chiến lược; nhưng Việt Nam đã không có thể hủy bỏ các hiệp ước « bất bình đẳng » này mà phải tôn trọng nó, vì nó vẫn còn hiệu lực pháp lý cho đến ngày hôm nay (theo tinh thần công ước Vienne 1969).
Trong khi, do nhu cầu cầu mở đường trên đất Campuchia (đường mòn Hồ Chí Minh) để tiếp viện cho cuộc chiến, ngày 8-6-1967 nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ra tuyên bố « nhìn nhận đường biên giới hiện trạng » của Campuchia. Phía Campuchia xem tuyên bố này như là một hứa hẹn (ngoài các hứa hẹn khác của Mặt trận Giải phóng Miền Nam với Sihanouk) Việt Nam trả lại đất, trong đó bao gồm các đảo trong vịnh Thái Lan (gồm Phú Quốc, Thổ Chu…) và một số vùng đất khác. Sau khi thống nhứt lãnh thổ, Cộng sản Việt Nam « quên » các hứa hẹn này. Đó là nguyên nhân khiến Khmer đỏ đánh Việt Nam, mở đầu cho việc Việt Nam chiếm Campuchia, sau đó là cuộc chiến Việt-Trung 17-2-1979.
Về phía Hoa Kỳ, quan hệ Washington và Bắc Kinh bình thường hóa đầu năm dương lịch 1979, sau khi Việt Nam xua quân vào Campuchia vài ngày. Trước đó hai bên có thông cáo chung về quan điểm « chống bành trướng » ngày 15 tháng 12-1978, điều này ám chỉ liên minh Việt Nam và Liên Xô và và các manh động của Việt Nam tại Campuchia và Liên Xô tại Afghanistan. Tháng giêng 1979 họ Đặng thăm viếng Mỹ, ký kết một số thỏa hiệp với Mỹ về văn hóa, kinh tế và kỹ thuật đồng thời trình bày một kịch bản chung với Mỹ để chống Liên Xô, nhưng thực chất bề trong là thông báo cho Mỹ kế hoạch « dạy cho Việt Nam một bài học ».
Trước đó, tháng 11, họ Đặng đã đi các nước Thái Lan, Mã Lai, Singapore… có tuyên bố các nơi đây rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia. Như thế, Trung Quốcđã lo « bao sân » trước khi đánh Việt Nam 17 tháng 2 năm 1979. Tất cả các nước đều không phản đối việc dọa đánh Việt Nam của Đặng Tiểu Bình. Điều này dễ hiểu, sau 30-4-1975, Việt Nam bị cô lập hoàn toàn ở Đông Nam Á. Nguyên nhân do thái độ hung hăng hiếu chiến của Việt Nam, sau khi ký kết hiệp ước an ninh với Liên Xô cuối năm 1978 và tham gia khối COMECON. Cộng sản Việt Nam đòi đánh sang đến cả Thái Lan. Khối ASEAN vì thế hợp tác với Trung Quốc để chống sự bành trướng của Liên Xô, qua mũi nhọn xung kích là Việt Nam.
Lý ra cuộc chiến đánh bọn đồ tể diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary của Việt Nam là một cuộc chiến có chính nghĩa, nhưng vì tham vọng quá lớn của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, muốn biến Campuchia thành một chư hầu, dự định đóng quân lâu dài, khiến thế giới lên án buộc Việt Nam phải rút quân về.
Nhưng đó cũng là kế hoạch của Trung Quốc, làm cho Việt Nam sa lầy tại Campuchia, làm Việt Nam chẩy máu đến chết.
Đối với Liên Xô, từ năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường, việc hòa hoãn có khuynh hướng tích cực. Liên Xô do lo ngại trục Bắc Kinh – Tokyo – Washington thiết lập từ năm 1978 nên cũng tỏ ra niềm nở hơn với Bắc Kinh. Việt Nam gia nhập khối Comecon ngày 29 tháng 6, ký hiệp ước hợp tác và hữu nghị với Liên Xô ngày 3 tháng 11 năm 1978. Việc Việt Nam ký kết với Liên Xô hiệp ước hợp tác và hữu nghị đối với Trung Quốc có ý nghĩa chấp dứt mọi quan hệ gữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 25 tháng 12 năm 1978 quân Việt Nam tiến vào Campuchia, đến ngày 11 tháng 1 năm 1979 đánh quân Pol Pot ra khỏi Nam Vang và các tỉnh lớn, Heng Samring tuyên bố nền cộng hòa nhân dân Campuchia được thiết lập.
Việc quân Việt Nam nhanh chóng quét sạch quân Pol Pot ra khỏi Nam Vang và các tỉnh lớn ở Campuchia đã làm cho phía Trung Quốc bị bất ngờ.
Ngày 17-2 Trung Quốc xua quân sang đánh Việt Nam. Kế hoạch đánh Việt Nam hiện nay có nhiều tài liệu, Việt Nam và Trung Quốc, đã được công bố. Tài liệu Châu Đức Lập (nguồn BBC ghi trên) kể lại như sau :
« Ngày 7-12, Ủy ban quân ủy trung ương có cuộc họp và quyết định mở một cuộc chiến hạn chế ở vùng biên giới phía nam của Trung Quốc… Chỉ thị nói rằng cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi 50 cây số từ biên giới và kéo dài hai tuần… Đặng Tiểu Bình bổ nhiệm Xu Shiyou lãnh đạo quân từ Quảng Tây, Yang Dezhi lãnh đạo quân từ Vân Nam…. Cuộc xâm lấn phải nhanh, và toàn bộ quân phải rút về sau khi hoàn tất mục tiêu chiến thuật.
Ngày 23-1, Bộ Tổng tham mưu Trung Quốc họp và quyết định quân đội phải sẵn sàng hành động trước ngày 15-2. Hai ngày sau khi ông Đặng trở về sau chuyến thăm Mỹ và Nhật, hôm 11-2-1979, ông ra quyết định sẽ tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. »
Mặc dầu Việt Nam đã có ký kết hiệp ước hỗ tương với Liên Xô, nhưng Liên Xô đã không có phản ứng đúng với mức độ cần có như cam kết. Liên Xô cũng có thái độ tương tự lúc Trung Quốc chiếm các đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988.
6. Bài học nào qua cuộc chiến này?
Cuộc chiến này đã là một bài học sâu sắc cho cả hai bên lâm chiến.
Cuộc chiến không hề đem một lợi lộc nào cho Việt Nam, ngoài việc cướp đi sinh mạng hàng chục ngàn (có thể tới 50.000) thanh niên, hàng chục ngàn dân lành vô tội và tạo ra biết bao thuơng binh, cô nhi, quả phụ. Cuộc chiến cũng tàn phá các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn… khi quân Trung Quốc rút đi, các tỉnh này trở thành bình địa.
Cuộc chiến đáng lẽ đã tránh được, nếu Việt Nam không phạm sai lầm và hiểu chiến lược của Trung Quốc.
Sai lầm trọng đại nhứt của Cộng sản Việt Nam là tỏ thái độ vô ơn trắng trợn đối với Trung Quốc. Có vấn đề Campuchia hay không, Trung Quốc cũng sẽ cho Việt Nam « một bài học », không vào năm 1979 thì sẽ vào lúc khác. Sự trở mặt của Việt Nam năm 1978, gia nhập COMECON và ký hiệp ước an ninh với Liên Xô, không chỉ đe dọa Trung Quốc mà còn trực tiếp đe dọa toàn vùng Đông Nam Á. Các nước trong vùng lo ngại hệ quả Domino. Việc này khiến các nước trong vùng thân thiện và thiết lập ngoại giao với Trung Quốc. Sự trở mặt của Việt Nam cũng là chất xúc tác để Trung Quốc và Hoa Kỳ thân thiện với nhau, tất cả nhằm mục tiêu cô lập Liên Xô (và Việt Nam).
Trong khi, sau 1975, giả sử Việt Nam « khai thông ngoại giao » với Trung Quốc bằng cách chấp nhận ảnh hưởng của Trung Quốc qua thực thể chính trị Mặt trận Giải phóng Miền Nam với một mực độ nào đó, (trong một thời gian chấp nhận được), chắc chắn sẽ không có cuộc chiến 1979.
Đối với dân Khmer, Cộng sản Việt Nam đã có những hứa hẹn không thể giữ lời: Việt Nam không thể trả lại cho nước này các vùng đất đã trở thành của Việt Nam (theo các nguyên tắc của quốc tế công pháp: Công ước Vienne 1969 và nguyên tắc « uti possidetis »).
Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã có những lựa chọn tệ nhất, lấy giải pháp xấu nhất, điên rồ nhất, có hại nhất cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Sau 1975, nếu Việt Nam không mù quáng áp dụng các chính sách kinh tế Xã hội Chù nghĩa, không có các chính sách học tập cải tạo, không trả thù người dân miền Nam, không đánh người Việt gốc Hoa v.v… thì vị trí của Việt Nam hôm nay đã khá hơn rất nhiều rồi!
Hơn ba thập niên dư âm cuộc chiến vẫn còn, linh hồn hàng chục ngàn chiến sĩ hi sinh bảo vệ đất nước vẫn còn đang vất vưởng, hương tàn, khói lạnh.
Lãnh đạo Việt Nam đã cố gắng che đậy, không cho làm lễ tưởng niệm, vì họ muốn làm hài lòng Trung Quốc. Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đang chạy trốn quá khứ, đang trốn cả sự thật, không dám nhận lãnh trách nhiệm về đổ vỡ của mình gây ra. Lãnh đạo Cộng sản Việt Nam hiện đang trong gọng kềm của Trung Quốc. Hôm nay họ mới thấy thấm thía cái vị thất bại chua cay của cuộc chiến 1979 mà họ tuyên truyền là người chiến thắng! Việt Nam hơn 4 thập niên sau vẫn không khá hơn Việt Nam 4 thập niên trước, vẫn là một nước nghèo, vẫn ngửa tay xin trợ giúp từ các tổ chức thế giới; mâu thuẫn dân tộc vẫn sâu sắc, không giải tỏa vì chính sách hòa giải dân tộc vẫn chưa thực hiện.
Bài học cuộc chiến 1979 lãnh đạo Việt Nam chỉ hiểu lờ mờ!
Về phía Trung Quốc, bài học cuộc chiến 1979 có thể xem là cơn sốt vỡ da để lớn. Trung Quốc đã thành công phát triển thế và lực hiện nay là do từ những thất bại chiến lược của Cộng sản Việt Nam. Trung Quốc hiện nay là người khổng lồ so với Trung Quốc năm 1979. Trung Quốc đã phát triển vượt mức về mọi mặt, nhất là quân sự. Trung Quốc đã hiểu rất rõ cuộc chiến 1979, vì tất cả đều rạch ròi trong chiến lược của Trung Quốc.
Trương Nhân Tuấn
*Sách tham khảo: La Tentation Impériale – politique extérieure de la Chine depuis 1949, tác giả François Joyaux, Paris 1994, ISBN 2-11-081331-8; Sự Thật Về Quan Hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, tháng 10 năm 1979.
Tài liệu: Nguồn BBC.
*Lời tác giả: Bài viết từ năm 2009, có bổ túc, đăng lại để suy ngẫm thêm về tình bạn 16 chữ vàng của hai nước Việt-Trung.