Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 1)

Tạp Luận viết về Cố Alexandre de Rhodes và thời kỳ phôi thai chữ La mã hoá Quốc ngữ với các giáo sĩ thừa sai Bồ Đào Nha, đặc biệt với Cố Francisco de Pina, người nay được chứng minh là cha đẻ Quốc ngữ. Cố Đắc Lộ với từ điển Việt Bồ La và Phép Giảng Tám ngày, ấn bản năm 1651, là Godfather Cha, Bọ đỡ đầu.

Chân dung Alexandre de Rhodes (phiên âm tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ, A-lếc-xăng Đơ-rốt; 15/3/1591 – 5/11/1660)

Tạp Luận cũng đề cập đến Cố Đỗ Hưng Viễn, ngoại tông gia đình chúng tôi, quê quán Làng Bồng Trung, tỉnh Thanh hoá, là người Việt Nam đầu tiên được rửa tội theo đạo Hoa Lang Ki Tô thế kỷ 16, trước khi các thừa sai Bồ đến truyền giáo vào đầu thế kỷ 17. Cứ liệu Lịch sử chứng nhận việc tòng giáo của công tử Đỗ Hưng Viễn, con quan đại thần triều Lê trung Hưng, vào khoảng những năm 1560-1570, dưới thời Lê Anh Tông (1556-1573). Đỗ phổ ghi năm 1572. Tên Cố nay được đặt cho một con đường tại phường 12, quận Tân Bình, Sài Gòn. 

Và Ngoại tộc Đỗ tiếp tục có duyên với Ki Tô giáo. Cố Đỗ Viên Mãn năm 1627, theo Đỗ tộc phổ, như Niên giám Hội Đồng Giám mục Việt nam đã khẳng định, cũng đã là người đầu tiên tiếp xúc với Linh mục de Rhodes khi Ngài cặp bến, đổ bộ lên Cửa Bạng, xã Ba Làng tỉnh Thanh Hoá. Cố Mãn đã được Cố Đắc Lộ rửa tội, sau ngày 19/03/1627. Cố Mãn cất hai nhà thờ đầu tiên ở Ba Làng, cho điểm khởi đầu của Truyền giáo Dòng Tên Đàng ngoài.

Thân phụ và thân mẫu tôi hay nhắc đến thánh tử vì đạo Giacôbê Đỗ Mai năm sinh năm 1781 tại Đông Biện Thanh hóa, linh mục thuộc hội Thừa sai Paris, xử trảm ngày 12 tháng 8 năm 1838 tại Bẩy mẫu Nam định dưới đời vua Minh Mạng, được phong chân phước ngày 27 tháng 5, 1900 do Đức Lêô XIII, lễ kính mỗi năm vào ngày 12 tháng 8. Ngày 19 tháng 6 năm 1988 Đức Gioan Phaolô II suy tôn Ngài nên bậc Hiển Thánh.

Tạp Luận theo chân Léonard Aurousseau, năm 1924 đưa ra giả thuyết từ nguyên Cochinchina, có nguồn gốc Ả Rập. Tác giả Trần Đức Anh Sơn có soạn một văn bản đóng góp về chủ đề này.

Có rất nhiều tác giả đã đề cập đến Đề mục Cố Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ, trong và ngoài nước. Và vẫn còn bút chiến quốc nội quốc ngoại. Vào đầu thập niên 2000, chúng tôi biết đến các nghiên cứu từ những tài liệu phía Bồ Đào Nha của Roland Jacques, Le Portugal et la romanisation de la langue Vietnamienne. Faut-il réécrire l’histoire? (1998, article). Persée © 2005- 2024, đặt lại một cách khoa học nguồn gốc cội rễ của Latinh-hoá Việt ngữ nói; và thêm Bài viết Portuguese Pioneers ò Vietnamese Linguistics Prior to 1650/ / L’oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Roland Jacques, Bangkok, Orchid Press, 2002.

Cùng với:

  • Pierre-Yves Manguin – Les Portuguais sur les côtes du Viet nam et du Campa. École Francaise d’extrême-Orient. Paris 1972;
  • Alain Guillemin, Alexandre de Rhodes a-t-il inventé le quốc ngữ ? Moussons No23, 2014-1, 141-157;
  • Léonard Aurousseau, Về tên Cochinchine năm 1924, Sur le nom de Cochinchine [article], Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient Année 1924 24 pp. 563-579. Giáo sư Hoa ngữ tại Trường Viễn Đông Pháp.
  • Nguyễn Cung Thông, Tiếng Việt thời Linh mục de Rhodes. Kinh Lạy Cha.

Cũng gom góp các tài liệu Internet khác trong khuôn khổ bài này, đặc biệt các nghiên cứu của George Bryan Souza, và vô số ấn phẩm của Manuel Teixeira. Tiểu luận ở đây dựa trên các bài viết của Jacques, Guillemin, Aurousseau, Manguin, và Nguyễn Cung Thông; gom góp thêm các tư liệu; không có tổng kết hay kết luận vì không có đủ hiểu biết để có thẩm quyền.

Cụm Cha hay Cố Đắc Lộ để phiên âm qua tiếng Việt tên de Rhodes, có từ bao giờ và và duyên cớ? Trong khi Hán âm viết Le Jésuite Alexandre de Rhodes là da tô hội sĩ 耶穌會士 á lịch san亞歷山 yà lì shān, hay luólìshān 羅歷山 la lịch san; phiên âm khác nhau ở hai từ á 亞 và la 羅 (còn đọc là luó, luō, luo).

Thiết nghĩ tên dịch A-lịch-sơn Đắc-lộ ra đời ngày 29/5/1941 trên Bia đá kỷ niệm và trên Trung Hoà nhật báo. Thuật ngữ ở đây có lẽ do Hội Trí Tri và Hội truyền bá chữ Quốc ngữ mà Nguyễn Văn Tố là Hội trưởng, dẫn xướng. Duyên cớ tại sao thì đành không biết, vẫn tìm chưa ra. Và năm 1960 tôi trú tại Cư xá Sinh viên Đắc Lộ, Foyer d’Alexandre de Rhodes, ở Sài Gòn. Các bản Việt ngữ trên truyền thông và Võng lạc, ít hay nhiều, tránh tên dịch này, cho là đã lỗi thời; và giữ nguyên âm Alexandre de Rhodes hay Rhodes.

A lịch sơn dựa trên Hán âm, Đắc Lộ thì không biết từ đâu. Nguyễn văn Tố trong bài diễn văn khánh thành Bia đá, chua: Alexandre de Rhodes thường dịch là A-lịch-sơn Đắc-lộ.

Trên Trung Hòa nhật báo, Số 2547, ngày 7 Tháng Sáu 1941[1], đăng:

Đài kỷ niệm cha A-lịch-sơn Đắc-lộ đã được khánh thành tại Hà Nội, vào lúc 5 giờ chiều ngày 29/5/1941. Bên đền Bà Kiệu, xế cửa đền Ngọc Sơn, tấm bia kỷ niệm ông Alexandre de Rhodes đã cao xây dưới bốn mái, chiếc phương đình theo lối kiến trúc Đông phương… ông Alexandre de Rhodes đã sống lại với dân Hà thành giữa bầu không khí ngưỡng mộ truy tư đầy vẻ trang nghiêm cảm động trong lễ khánh thành đài kỷ niệm ở Phố bờ Hồ Hoàn Kiếm; có quan toàn quyền Decoux và hầu khắp thân hào thành phố đến dự. Trong buổi lễ, ông Bernard de Feyssal đã tóm tắt quá trình lập quỹ xây dựng đài kỷ niệm, bắt đầu từ khoảng năm 1923-1924 với thiếu tá Bonifacy, một người yêu mến sử Việt, và ông Henri Cucherousset, chủ nhiệm báo Éveil Économique de l’Indochine. Trong buổi lễ có các bài diễn thuyết của Đức cha Nguyễn Bá Tòng, ông Ngô Tử Hạ là chủ nhà in và ông Nguyễn Văn Tố là Hội trưởng Hội Trí Tri và Hội truyền bá chữ Quốc ngữ, tất cả đều nói lên công lao của cha Alexandre de Rhodes hay A-lịch-sơn Đắc-lộ trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ

Tấm bia đá trong đài, cao 1,7m, rộng 1,1m và dày 0,2m, trên có khắc chữ quốc ngữ, bằng tiếng Trung và tiếng Pháp, công đức của tu sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes. Báo Tân Tri ngày 13-6-1941 thông báo với độc giả như sau:

Ông Alexandre de Rhodes đã được sống lại giữa người dân Hà Nội trong lễ khánh thành đài tưởng niệm ông; Buổi lễ diễn ra trong không khí trang trọng và cảm động […] Ngày nay, quốc ngữ được coi là nền tảng của ngôn ngữ dân tộc, chính vì thế, chúng ta không thể không gửi lời cảm ơn chân thành đến người đã phát minh ra nó. (Le courrier du Viêt Nam, 4 juillet 2004 : 6.)

Người đầu tiên khởi xướng xây dựng Đài Kỉ niệm chữ Quốc ngữ là trung tá Bonifacy [2]. Năm 1927, Bonifacy đã có ý tưởng quyên góp để xây dựng một công trình kỉ niệm ghi nhớ công lao cha cố Alexande De Rhodes. Một hội đồng khắp Đông Dương, được Toàn quyền Đông dương ủng hộ. Bonifacy đã tổ chức quyên góp tiền để dựng Đài Kỉ niệm Ông tổ chữ Quốc ngữ bằng tài khoản số 9711 tại Ngân hàng Đông Dương. Tháng 4 năm 1931, Bonifacy qua đời. Số tiền quyên góp đã được 5.814,61 đồng bạc. Trong đó có sự đóng góp của nhiều người Việt làm việc trong các công sở Pháp.

Đến cuối năm 1931, Hội đồng họp và cử ông Cucherousset, chủ nhiệm của Đông Pháp Kinh tế Tạp chí thay Bonifacy làm Chủ tịch Hội đồng. Số tiền quyên góp được chuyển sang tài khoản số 52186, chủ tài khoản là ông Cucherousset.

Trung Hòa nhật báo, Số 2547, 7 Tháng Sáu 1941 đăng Bài diễn thuyết của ông Nguyễn Văn Tố:

Không bao giờ tôi được cái hân hạnh thay mặt Hội truyền bá Quốc ngữ và Hội Trí Tri Bắc kỳ đến dự một buổi lễ khánh thành có ý nghĩa cao quý như buổi hôm nay.

Thực thế: buổi hôm nay là buổi kỷ niệm một nhà trước thuật đã có cái công lớn đem truyền bá chữ Quốc ngữ, là chữ viết tiếng nước nhà, là chữ mà chỉ phải học có hai ba tháng là đọc được viết được, tức là cái lợi khí vô song cho nền học phổ thông của cả quốc dân.

Nhà trước thuật ấy là một vị cố người Pháp tên là Alexandre de Rhodes thường dịch là A-lịch-sơn Đắc-lộ, sang đây truyền giáo hồi vua Lê chúa Trịnh, xuất bản trước tiên – vào khoảng năm 1654 – một quyển giáo lý quốc âm và một quyển tự vị tiếng ta, hiện nay vẫn còn giá trị lắm.

Đã hay rằng sự nghiệp của người ta như cái xe, như giấy dán, tan hợp dễ dàng, song ngẫm ra mới biết cái công truyền bá chữ Quốc ngữ lúc ban đầu không phải là nhỏ, có lẽ chẳng kém gì cái công của những bậc đã phát minh ra chữ Quốc ngữ, tức là những vị cố đạo Bồ Đào Nha và những giáo sĩ Việt Nam mà sử học chưa cho biết rõ.

Cái bia dựng đây có ý ghi chép cái sự nghiệp cụ Đắc-lộ đối với việc truyền bá chữ Quốc ngữ trong buổi sơ khai. Hội đồng tổ chức đã khéo chọn một khoảng đất tráng lệ, đầy những lịch sử, để biểu hiệu cho việc học trong nước. Đối với chúng tôi, lại còn ngụ một ý thâm trầm, là nhắc nhở đến cái bổn phận thiêng liêng đi truyền bá chữ Quốc ngữ trong đám dân nghèo thất học. Mỗi khi qua đây, nhớ đến một bên là đền thờ một vị thần Nho học, một bên là đài kỷ niệm một thày truyền giáo đã có công với chữ Quốc ngữ. Cái công ấy cũng ngang với công của ông Hàn Thuyên về đời nhà Trần mà người ta thường gọi là ông tổ chữ Nôm, dẫu ngàn thu vẫn còn ghi nhớ, vẫn tôn làm những bậc tiền phong cho hai thời kỳ quốc học, là thời kỳ học Nho và thời học Nôm.

Đài kỉ niệm dự định sẽ dựng theo lối An Nam và giao cho các kiến trúc sư bản xứ thiết kế.

Ảnh Internet, đài kỷ niệm không có Bia, khoảng năm 1957 Hà Nội.

Tuy nhiên, bản vẽ được giải nhất cũng không được sử dụng vì thành phố Hà Nội cho rằng kiểu đó không có điểm nào mang nét mỹ thuật An Nam. Hội đồng này đã nhờ ông Phạm Quỳnh trình tâu lên vua Bảo Đại xin ban thưởng cho người vẽ được kiểu đài kỉ niệm phù hợp. Cuộc thi lại được đăng tải trên 2 tờ báo Pháp văn là L’Annam nouveau và La Patrie annamite và một số báo quốc ngữ nhưng cuối cùng cũng không mang lại kết quả nào khả thi.

Sau đó, cuộc họp Hội đồng thành phố ngày 31 tháng 5 năm 1934 đã thông qua việc cấp đất cho công trình kỉ niệm cố De Rhodes tại vị trí trước đó là Rạp Variétes (trước đó lại là Rạp Pathé – Rạp chiếu bóng đầu tiên ở Hà Nội). Đài kỉ niệm được thực hiện tại Hà Nội, ở góc phố Francis Garnier và phố Du Lac, đối diện đền Ngọc Sơn Năm 1934, Cucherousset qua đời. Số tiền trong tài khoản số 52186 với số tiền là 2.540,07 đồng vào cuối năm 1934, chuyển cho tài khoản số 52782 đứng tên Thủ quỹ của Hội đồng.

Trong quá trình thi công đã xảy ra tranh cãi lớn. Lê Bá Cử cho rằng các bản vẽ do kiến trúc sư Luyện cung cấp theo kiểu Âu, chứ khôngtheo kiểu bản xứ như đã thống nhất. Khởi động trở lại, sau hơn một năm, một nhà bia thiết kế hoàn toàn khác được khánh thánh [3]. Đó là tác phẩm của kiến trúc sư Joseph Lagisquet. Toàn quyền Decoux và nhiều quan chức Pháp và người Việt đã có mặt trong buỗi lễ khánh thành. Tờ Tạp chí Đông Dương (Indochine) đã cho ra mắt chuyên san số 41 ngày 16 tháng 12 năm 1941 gồm nhiều bài viết về Alexandre De Rhodes và sự kiện khánh thành nhà bia.

Đức cha Nguyễn Bá Tòng phát biểu nói về tiểu sử và tinh thần tông đồ cố Đắc Lộ, đấy chính là công nghiệp của ngài. Bỏ qua vấn đề tôn giáo, Đức cha Tòng nhấn mạnh rằng: Ta cũng công minh mà nhận cha De Rhodes là một bậc ân nhân của nòi giống Lạc Hồng. Cái công vĩ đại của ngài đối với con Rồng cháu Tiên, là ở chỗ đã đem học lực uyên thâm hợp với tài ngữ pháp mà cấu tạo nên bộ chữ Quốc ngữ của chúng ta bây giờ [4].Ngày 19/03/1627 Lễ Thánh Giuse, Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) lần đầu tiên tới Đàng ngoài, đặt chân lên Cửa Bạng, Ba làng [5], Thanh hoá.

Toàn quyền Decoux khánh thành Nhà bia. Ảnh đăng Tạp chí Đông Dương. Nguồn TTLTQG1
Hàng đầu, từ trái qua phải: Hoàng Trọng Phu, Chapouard, Grandjean và Nguyễn Văn Tố tham dự lễ khánh thành. Ảnh đăng Tạp chí Đông Dương. Nguồn TTLTQG1

Đức [6]A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ.

Sinh ở A-vi-nhông ngày 15 tháng ba năm 1591. Xuất gia tu vào Dòng Tên (Gia-tô-Hội) năm 1612. Đi từ thành Li-sơ-bon sang Ấn-độ ngày mồng bốn tháng tư năm 1619. Đến Áo-môn ngày 29 tháng năm năm 1623. Cốt sang truyền giáo ở Nhật-bản, nhưng vì hồi bấy giờ xứ này cấm truyền giáo, nên lại được uỷ sang Việt-nam. Trong khoảng từ năm 1624 đến năm 1646 khi lưu ở trong Nam thuộc về chúa Nguyễn, lúc ở ngoài Bắc dưới quyền chúa Trịnh có hai lần ở Kẻ-chợ là Hà-nội bây giờ (1627-1630).

Người truyền giáo có kết quả lớn-lao sau muốn bảo-tồn cái kết quả ấy và muốn dựng nên thánh-giáo chắc- chắn cho giáo-đồ Việt-nam. Người được phép Toà-Thánh cho đặt các chức giám-mục chọn toàn người Pháp (1652).

Khi phải rời bỏ xứ Việt-nam, Người lấy làm tiếc, nên có nói rằng: Phần xác ta rời bỏ đất Nam với đất Bắc, nhưng thực ra lòng ta vẫn quyến-luyến, nói cho đúng vẫn bàn-hoàn với cả hai nơi và ta chắc rằng không bao giờ lòng ta lại quên được hai xứ ấy.

Sau Người được cử sang nước Ba-tư. Người mất ở Ích-ba-hán ngày 16 tháng một năm 1660 hưởng-thọ bảy-mươi tuổi.

Người soạn ra nhiều truyện-kí đều diễn dịch ra mấy thứ tiếng, và Người đã xuất bản được quyển sách Bổn và Tự-vị tiếng Việt-nam, tiếng Bồ-đào-nha và tiếng La-tinh – là những sách bằng tiếng Việt-nam dịch âm theo chữ La-tinh xuất bản trước tiên nên tên Người cũng lưu-truyền với cái công nghiệp phát-minh ra chữ Quốc-ngữ.

Bia kỷ niệm cha A-lịch-sơn Đắc-lộ hiện được lưu giữ tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nội. Nguồn: Hội đồng Giám mục Việt Nam

Có thể thấy các phát biểu trên đây huyên thuyên, không hẳn là sự thật lịch sử. Đó là những điều kiện và hoàn cảnh lúc bấy giờ với nền bảo hộ. Câu hỏi chính tại sao thực dân Pháp muốn lập Đài và Bia Đắc Lộ? Không lẽ chính phủ đô hộ Pháp quá quan tâm đến Quốc ngữ, hay để tuyên dương Cố A Lịch Sơn, nên đã dựng miếu và bia để vinh danh Đắc Lộ. Dẫn chứng trên đây cho biết, hội đồng thành phố Hà Nội

là của Pháp, dưới toàn quyền Decoux. Bonifacy chỉ là cái cớ, ông Feysal, với tư cách chủ tịch hội đồng, đã ca ngợi công lao trung tá Bonifacy, người đầu tiên có ý tưởng dựng đài kỉ niệm và ông Cocherousset, người tiếp nối ông Bonifacy … tôi nhắc lại rằng, không có họ, chắc chắn chúng ta không thể tổ chức kỉ niệm và khánh thành công trình Alexandre De Rhodes ngày hôm nay.

Bionifacy [7] là thực dân từng sống ở Việt nam 27 năm, lấy động lực nào để khởi xướng ý kiến lập đài kỷ niệm Đắc Lộ truyền giáo hay làm ra chữ quốc ngữ? Họ nói ông này yêu lịch sử Việt Nam quá chừng, bởi vì sao ông ta có thể được xem là fan của quốc ngữ! Nếu không phải cố Đắc Lộ đã cho in từ điển và kinh sách ở La mã, mà là một cố Bồ đã phát sinh hệ Latinh hoá quốc ngữ và quảng bá nó bằng sách liệu tháng 6 năm 1941, họ có dựng bia tri ân Cố không?

Bia đá Đắc Lộ đến năm 1957 thì bị gỡ bỏ không hiểu duyên cớ là gì, và mất tích đến năm 1992 thì mới tìm lại được [8]. Không biết ai đã phá bỏ nhà bia này? Tấm bia đã từng làm đe ghè của mấy anh thợ khoá rồi làm bàn của bà bán nước chè chén, rồi lang thang phiêu bạt ra tận bờ sông Hồng. Vào thập niên 80 trên vị trí này chính phủ Hà nội đã cho dựng tượng đài Cảm tử cho Tổ Quốc quyết sinh và rồi nhà bia đá đó đi vào quên lãng. Đêm ngày 9/10/1984, xe cẩu, công nhân kéo đến bia Alexandre de Rhodes rồi người ta dùng cần cẩu loại nhỏ cẩu tấm bia mang quẳng ra mép hồ xí nghiệp Cơ khí 204 ngoài đê sông Hồng.

Tấm bia nằm đó không lâu thì một ông xích lô ở ngõ Pháo Đài (…) phát hiện ra tấm đá to lại bằng phẳng liền gọi vợ con lại và nhờ đám bạn xích lô mang về lát chỗ rửa rau vo gạo. Được một thời gian, trong nhà có nhiều người đau ốm. Ông đi xem thầy và thầy phán là trong nhà có đồ thờ cúng lạ. Thế là ông lại đem tấm bia bỏ lại bờ đê, trước cửa nhà máy Nước đá.

Năm 1992, một chủ hàng cửa sắt là ông Nguyễn Việt Minh lên chợ Đồng Xuân mua vật liệu, đến đúng trước cửa nhà máy Nước đá Phố Trần Quang Khải, ghé xe vào gần bờ đê và vô tình ông thấy phiến đá phẳng bị cỏ phủ lên. Tò mò, lật đám cỏ ra và cỏ đất bám trên mặt ông giật mình vì đó là tấm bia Alexandre de Rhodes. Từng làm việc ở Bảo tàng ông hiểu nếu mang về nhà không kín đáo có thể bị kết tội chiếm đoạt di tích cho dù nó nằm ở bờ đê. Đêm muộn ông nhờ Hùng toét lái xe chở về và phải thuê cửu vạn bí mật khiêng vào đặt lên chỗ cống không có nắp. Không một ai trong khu nhà ông biết. Phần tiếng Pháp trên tấm bia đã bị bào mòn, nhưng phần chữ Việt thì còn nguyên. Khi nghe tin Hội nghị Pháp ngữ tổ chức tại Hà Nội (1997), ông nhờ người báo cáo lên Bộ Văn hóa – Thông tin. Sau đó Bộ cử người xuống và mang đi, hiện nay, “tấm bia này đang được Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hà Nội lưu giữ chuyển giao cho Bảo tàng Hà Nội, năm 1995 được đặt ở Thư viện quốc gia.

Nguyễn văn Tố có hiện diện trong Lễ khánh thành và đọc diễn văn. Cụ Tố theo Việt minh Cộng Sản, nên tin nói, tên của Nguyễn Văn Tố Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ, gắn liền vào cái văn bia Đắc Lộ, nên nói cụ dựng bia để tôn vinh A.D.Rhodes đã sáng chế chữ Quốc ngữ. Tất nhiên chính phủ Hà nội rất bức xúc về tin tức này. 

Nguyễn Văn Tố sinh ngày 05 / 06/ 1889, bút hiệu Ứng Hoè, quê ở tỉnh Hà Đông. Thuở nhỏ ông học chữ Hán, sau đó sang Pháp học, đỗ bằng Thành Chung, làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ (Hà Nội), chuyên về văn học Cổ Việt Nam. Ông từng làm Hội Trưởng Trí Tri

– Hội Truyền Bá Quốc Ngữ trước năm 1945. Sau Cách Mạng Tháng 8, Ông theo Việt minh giữ chức Bộ Trưởng xã hội trong Chính phủ lâm thời, đại biểu Quốc Hội khoá I, quyền Chủ Tịch Quốc Hội khoá I, Quốc Vụ Khanh của Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Dân. Ngày 19/12/1946, ông theo Hồ chí Minh cùng rút lên Việt Bắc. Trong một cuộc tấn công Ông bị Pháp bắt giết tại Bắc Cạn ngày 07/10/1947.

Ngày 25/5/1938, Hội Truyền bá chữ Quốc ngữ được Pháp cho thành lập với các tên như: Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ, Chủ tịch và Phó Chủ tịch; Phan Thành, Quản Xuân Nam, Bí thư, Phó Bí thư; Đặng Thái Mai [9], Võ Nguyên Giáp, Thủ quỹ và Phó Thủ quỹ; Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Văn Huyên, Lê Thước, Cố vấn. Ảnh bên, hàng đầu, từ trái qua phải: Hoàng Trọng Phu, Chapouard, Grandjean và Nguyễn Văn Tố tham dự lễ khánh thành.

Rất sớm, khởi nghĩa Việt minh đã khởi động phong trào đả thông nạn mù chữ. Từ năm 1945 họ đã huyên náo tổ chức những lớp bình dân học vụ; đây cũng là một trong những mánh khoé tuyên truyền của chủ nghĩa Cộng sản. Thực dân Pháp cũng đã từng trải nghiệm qua các phong trào cổ võ bành trướng Quốc ngữ, mục đích chính yếu để xoá bỏ chữ Nho và chữ Nôm, lấy Quốc ngữ trong chính quyền để thông tin, dùng báo chí sách vở để tuyên truyền cũng như quảng bá văn hoá Pháp. Pháp chính yếu chủ trương chính sách này ở thành thị, người Cộng sản đã tiêu thổ kháng chiến phá bỏ thành thị, họ chỉ cần bình dân học vụ thôn quê, với mục đích giúp mọi từng lớp đọc các khẩu hiệu, truyền đơn, sau này là báo chí, khẩu hiệu nhan nhản trên vách tường, từ đồng bằng lên đến thuọng du, … cũng giống mục đích của thực dân; tất nhiên, bên nào cũng nhấn mạnh khía cạnh mở mang dân trí. Và, Bình dân học vụ cũng khiến người dân có khả năng đọc tuyền đơn Pháp thả khắp nơi bằng máy bay bà già!

Xin nhắc lại như trên đây đã viết, ngay từ năm 1938, Hội Trí tri Truyền bá chữ Quốc ngữ được Pháp cho thành lập có các tên tuổi thân Việt Minh / Cộng sản như Nguyễn Văn Tố, Bùi Kỷ, Đặng Thái Mai, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn, Lê Thước, vân vân, … Cho nên Bình dân học vụ không phải là sáng kiến hay phát minh của Bác Hồ, như những tác giả ngôn ngữ, ồn ào trình bày ở Pháp và các nước khác trên mọi phương tiện truyền thông. Bây giờ trong nước có Bình dân học vụ, học tiếng Anh và các ngoại ngữ khác. Tại sao bình dân phải học ngoại ngữ?

Từ nguyên Cụm Bình dân học vụ không gốc rễ từ Hán Nho, họ viết bình dân thức tự ban, 平民识字班. Thức phồn thể 識 nghĩa như tri thức 知識, kiến thức 見識, ý thức 意識. Tự chữ nho là 字, nghĩa Chữ. Như: đan tự 單字 chữ đơn, Hán tự 漢字 chữ Hán; hay danh tự v.v… 

Động từ Ban 班 nghĩa: Bày, trải ra, Ban phát, chia cho. Nôm na thứ tự ban là bày tỏ ban phát cho biết chữ.

Còn học vụ? Vụ đây là công việc. Bây giờ có cụm điệp ngữ vụ việc. Hán nho là 务 vụ hay 務 vụ đều bộ lực. Tự điển Hán Nôm chép: (Động từ) vụ là Chuyên tâm, chăm chú; Mưu lấy, truy cầu. Phó từ: Nhất thiết, cốt phải, tất dùng. Danh từ: Việc, công tác. Như: gia vụ 家務 việc nhà, công vụ 公務 việc công, sự vụ” 事務 sự việc, thứ vụ 庶務 các việc. Không thấy vụ trong tự điển Nôm. Từ ngữ Học chữ Nôm viết 学 U+5B66, học hành, học hiệu, học đòi. Tóm tắt viết theo chủ nghĩa Mác, bình dân học vụ: công tác học dân gian.

Pháp chia lãnh thổ quốc gia Việt Nam [10]; thuộc địa cho miền Nam Việt Nam – lúc đó được đặt tên là Nam Kỳ thuộc địa bảo hộ cho miền Bắc – Bắc Kỳ; và miền Trung – An Nam. Để củng cố quyền lực, chính quyền thực dân đã tổ chức dạy chữ Quốc ngữ trước tiên ở Nam Kỳ. Và sau đó là ở miền Bắc và miền Trung. Cũng tại đây, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Quốc ngữ, Gia Định báo của Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký), được thành lập vào năm 1865.

Gia Định báo, có tên chữ Nho 嘉定報, là tờ báo đầu tiên bằng Quốc ngữ, được ra mắt vào ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn [11]. Đây là phương tiện truyền thông đầu tiên hoàn toàn mới mẻ, làm cho tiếng Việt mới có cơ hội phổ biến trong dân chúng. Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ 25x32cm và giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày 15 hàng tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra báo của Gia Định báo không cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ bảy. Số trang của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang [12]. Ảnh Internet.Việc sử dụng chữ Quốc ngữ, bắt buộc trong chính quyền, theo sắc lệnh thuộc địa tháng 1 năm 1882, là dẫn chứng rõ lập trường người Pháp, huỷ bỏ trước tiên Hán-Việt-Ngữ, Chữ Nho [13] trong các phiên bản chính thức, sau đó là chữ Nôm, biến thể chủa Chữ Nho. Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách của người Pháp là phải hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị. Do đó, chiếm được Nam Kỳ xong là người Pháp lập tức khai tử nền giáo dục Nho học. Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm). Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chánh được thay thế bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ.

Ngày 08/05/1861 Đô Đốc Charner ký nghị định thành lập trường Collège d’Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt. Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes) được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở Hà Nội năm 1905. Pháp còn thiết lập các Trường Hậu Bổ [14] (Apprenti Mandarin) ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911. Đây là những bước đầutrong việc thiết lập một nền giáo dục của Pháp [15]

Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường để làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục phổ thông là các trường trung học Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho từ năm 1879, trường Quốc Học Huế 1896 Lycée Khải Định, trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) tức trường Bưởi Hà Nội 1908.

Để hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán [16],chính quyền thuộc địa ban hành các nghị định để bảo hộ cho việc sử dụng chữ Quốc ngữ:

  • Ngày 22 tháng 2 năm 1869, Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán trong các công văn ở Nam Kỳ.
  • Ngày 6 Tháng 4 năm 1878, nghị định 82 được ký bởi Thống đốc Nam Kỳ Louis Charles Georges Jules Lafont, đề ra trong vòng bốn năm (tức tới năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ.
  • Ngày 1 Tháng 1 năm 1879, có lệnh khẳng định các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng trong năm này, chính quyền thuộc địa đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt các thôn xã ở Nam Kỳ phải dạy chữ này.
  • Nghị định Ngày 14 Tháng 6 năm 1880, giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch cho các thân hào hương lý (người thân của Hương trưởng và Lý trưởng) nếu họ biết viết chữ Quốc ngữ)

Cho nên, chính phủ đô hộ lập bia tưởng lệ Cố Đắc Lộ rõ ràng: Người soạn ra nhiều truyện-kí đều diễn dịch ra mấy thứ tiếng, và Người đã xuất bản được quyển sách Bổn và Tự-vị tiếng Việt-nam, tiếng Bồ- đào-nha và tiếng La-tinh – là những sách bằng tiếng Việt-nam dịch âm theo chữ La-tinh xuất bản trước tiên nên tên Người cũng lưu-truyền với cái công nghiệp phát-minh ra chữ Quốc-ngữ.

Nhưng tước tiên Đắc Lộ nhắc trên Bia dẫn ở trên, là công nghiệp của một Cố Đạo truyền giáo: Người truyền giáo có kết quả lớn-lao sau muốn bảo-tồn cái kết quả ấy và muốn dựng nên thánh- giáo chắc-chắn cho giáo-đồ Việt-nam. Người được phép Toà-Thánh cho đặt các chức giám-mục chọn toàn người Pháp (1652). (sic)

Từ cuối thế kỷ 17 trở đi, giáo hội Pháp đã có vị trí độc tôn truyền giáo ở Việt Nam, với toàn giáo mục người Pháp như ghi trên bia (sic). Dữ kiện lịch sử này sai lầm xin xem phần dưới; do Bồ đào Nha suy yếu và mất thế lực lớn ở Toà thánh Vatican. Lịch sử có thể xem đây là nền móng khởi thuỷ thực dân Pháp chiếm và đô hộ Việt Nam ở thế kỷ 19 hay không, theo luận điệu những người tự cho là trí thức học giả của chính phủ Hà nội. Và thực dân Pháp làm bia tưởng mộ Cố Đắc Lộ là vinh danh một công thần. Bề hẹp trí tuệ đưa đến những sai lầm ấu trĩ về nhận xét và phê bình lịch sử.

Xin khẳng định Cố A Lịch Sơn Đắc Lộ không bao giờ cầu khẩn hay án ghép chính phủ Pháp đưa quân đi xâm lược Nam Kỳ năm 1862. Đắc Lộ khởi hành từ Rome đi Viễn Đông năm 1618; ba mươi năm sau Cố mới trở về thành phố Gêne bên Ý, rồi sau đó qua Pháp. Như vậy Pháp đi đô hộ Đông Dương hơn hai thế kỷ sau, so với hành trình trở về Âu châu của Cố. Trường hợp Giáo sĩ thực dân Bá Đa Lộc với Chúa Nguyễn Ánh hoàn khác biệt.Các tác giả dưới Chính phủ Cộng hoà Xã hội hiện tại, dẫn chứng những trang cuối của sách mà tác giả là Cố Đắc Lộ, Voyages et Missions du P. Alexandre de Rhodes en la Chine & autres Royaumes de l’Orient; Hành trình và sứ mệnh của Cha Alexandre de Rhodes ở Trung Quốc và các Vương quốc khác phía Đông, để nói Đắc Lộ là tay sai đưa Pháp đô hộ Đông dương. Với bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên [17], có ký tên là Linh mục.

Họ tra cứu:

C’est en chemin de Lyon jusqu’à Paris, où j’ai … Xin xem tiếp Pháp ngữ trang 436 Sđd ảnh kèm

đây.

Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Ðể ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của Hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này.

Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu, suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao cuộc hội ngộ may mắn nhất trong suốt các hành trình của tôi”. (đầu tr. 264).

Và… Với sự giúp đỡ của Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của Hoàng hậu, ông đã vào tiếp kiến Hoàng hậu và Vua Louis thứ XIV nước Pháp để đề đạt nguyện vọng của mình như ông đã viết như sau trong cuốn sách nói trên.

Đức Ông Đắc Lộ không bao giờ nói đến trong hồi ký của mình đã vào tiếp kiến và xin mấy lính chiến. Chỉ là một xuyên tạc vô căn cứ!

Và để kết luận:

“Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy lính chiến đi chinh phục toàn cõi Đông phương, đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” (cuối trang 263) .

Hà Nội … Tất nhiên ta phải hiểu rằng không phải triều đình Pháp giao mấy tu sĩ, mà nhiều lính chiến cho ông mang đi, mà họ sẽ cùng ông đi chinh phục toàn cõi Đông phương, hay nói khác hơn, ông đề nghị nước Pháp hãy mang quân đi xâm lược các nước đó, trong đó có Việt Nam và kết quả như ta thấy việc đó về sau đã trở thành hiện thực (sic).

Ôi thôi hoặc là kém hiểu biết, hay là tuyên truyền xuyên tạc, kết luận phe phái phía Hà nội là sai lầm khó tưởng tưởng. Trang 435 và 436 SĐD: … me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujettir à Jesus-Christ … xem tiếp ảnh dưới đây.

Dòng Tên hay la Compagnie de Jésus thánh I Nhã sáng lập không giống như các Dòng Ky Tô giáo khác, họ là đội quân đồng hành của Chúa Giêsu mà chỉ huy tối cao là Đại Tướng le général. Trang 6 sách đã dẫn, Cố Đắc Lộ viết:
J’en présentai un mémorial au R. P. Claude Aquaviya, notre général; puis je continuai au R. P.


Mutio Yiteïïeschi, son successeur, les quatre années de ma théologie, recommandant continuellement cette affaire à Dieu. Tôi đã bày tỏ lời tóm tắt tới R.

P. Claude Aquaviya, vị tướng của chúng tôi; sau đó tôi tiếp tục bốn năm thần học của mình với R. P. Mutio Yiteïïeschi, người kế nhiệm ông, liên tục đề xuất vấn đề này với Chúa. Vậy thì khi Cố viết … me fournirait plusieurs soldats … Soldats đây hiểu theo nghĩa chiến sĩ của đội quân đồng hành của Chúa Giêsu. Bản dịch của Nguyễn Khắc

Xuyên không thiếu sót, nhưng sai, không rõ ràng khi dịch Pháp ngữ plusieurs soldats thành mấy

Tuy nhiên trong nước sau này, Chương Thâu trình bày rõ hơn trong bài Từ Một Câu Chữ Của Alexandre de Rhodes (sic) Đến Các Dẫn Dụng Khác Nhau. Theo bài viết nầy thì trong cuộc hội thảo tháng 3 năm 1993 nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, Giáo Sư Sử Học Đinh Xuân Lâm và lính chiến, để bị cố tình hiểu lầm: … , nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy lính chiến đi chinh phục toàn cõi Đông phương, đưa về qui phục Chúa Kitô. Khổ thay [18]! lính chiến, để bị cố tình hiểu lầm: … , nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy lính chiến đi chinh phục toàn cõi Đông phương, đưa về qui phục Chúa Kitô. Khổ thay[19]!Giáo Sư Chương Thâu đã đồng ý với Linh Mục Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch cụm từ plusieurs soldats là mấy chiến sĩ chứ không phải lính chiến, và còn chú thích, chiến sĩ ở đây được hiểu là lính thừa sai tức là các giáo sĩ chứ không phải lính chiến là các người có súng để đánh giặc. Vì việc dịch sai lầm nên mới đưa đến có kiến nghị phục hồi vị trí cho Cố A. de Rhodes.

Vả lại plusieurs soldats hay mấy chiến sĩ; plusieurs / mấy là số nhiều, nhưng ít, làm sao có khả năng chinh phục toàn cõi Đông phương!

Tiến sĩ Roland Jacques, người mà tiếng mẹ đẻ là Pháp ngữ, cũng từng viết về đề mục trên: Chúng tôi sẽ đề cập đến lối phê phán này… và không tranh cãi theo tiên kiến ý thức hệ, nhưng dựa vào những nguồn tài liệu đang có. Sự thực thì Alexandre de Rhodes đôi khi đã dùng một lối nói bóng bảy trong các tài liệu ông đã xuất bản: Tôi đã nghĩ rằng Pháp quốc vốn là vương quốc sùng đạo nhất trên thế giới, hẵn có thể có thể cung ứng cho tôi nhiều chiến sĩ lên đường chinh phục toàn Ðông phương, để đưa về Chúa Giêsu Kitô, và đặc biệt tôi mong xứ ấy giúp tôi có được những giám mục, là những bậc làm cha, làm thầy của chúng tôi trong các giáo hội ấy … Thế mà có những bậc học giả ở cấp đại học từng giải thích các hình ảnh tỷ dụ trong ngôn ngữ sùng đạo chiến sĩ theo nghĩa đen của chúng!

Wikipedia tiếng Việt nhận xét: Tuy nhiên trên thực tế, cách dùng từ ngữ trong đoạn văn trên đề cập đến việc truyền giáo. Việc cố tình diễn giải thành ý đồ xâm lược là một suy luận chủ quan võ đoán thể hiện lập trường hận thù tôn giáo.

Ngoài Nhà Nghiên cứu lịch sử (sic) Nguyễn đắc Xuân [20]và Bùi Kha là hai người kết tội Cố Đắc Lộ cách phỉ báng lố bịch không bằng chứng và khắt khe, năm 1998, nhà xuất bản Giao Điểm tại Hoa Kỳ, lại dẫm lên bệnh nặng nói ở trên, tung ra cuốn Alexandre de Rhodes người đầu tiên vận động Pháp chiếm Việt Nam và chữ quốc ngữ. Cuốn sách có nhiều bài của nhiều tác giả khác nhau, nhưng tựu trung đều nhắm kết án linh mục Đắc Lộ đã dọn đường cho thực dân Pháp chiếm Việt Nam và phủ nhận công trình của linh mục trong việc cải tiến chữ quốc ngữ. Lập luận của họ căn cứ trên bản dịch quyển Thiên hồ Đế hồ của Phan Bội Châu và một đoạn tường trình của linh mục Đắc Lộ trong SĐD Divers Voyages et Missions Các Hành trình và Sứ mệnh.

Đặc biệt trên Nét Giao điểm, có bài Công giáo chính sử – Xung quanh vấn đề Thiên Chúa giáo vào Việt nam – Một Khảo Luận Qua Các Tài Liệu Lịch Sử [21], Trần Chung Ngọc đem các tài liệu lịch sử không đứng vững để thiết lập quan điểm: Với kiến thức của thời đại ngày nay thì chúng ta có thể nói rằng lịch sử truyền đạo của Ca-tô Rô-ma Giáo [Công Giáo] là lịch sử truyền đạo của những giáo sĩ thừa sai kém hiểu biết, mê tín, (sic) tin vào những điều nhảm nhí hoang đường trong cuốn Kinh của Ki Tô Giáo mà ngày nay đã không còn bất cứ một giá trị nào, những người đã mang sự yếu kém trí tuệ và mê tín của mình để đi mê hoặc những đám dân cùng đinh trong những quốc gia kém phát triển về kỹ thuật nhưng vượt trội Tây phương về vấn đề tín ngưỡng và tâm linh, …

Sự việc Cố Đắc Lộ, trong những diễn biến đã dẫn, không lúc nào có ý niệm đem Pháp viễn chinh Việt Nam vào những thời điểm 1652-1654, pháp lý Cố không phải quốc tịch Pháp mà là dân Avignon, thần dân của Vatican và dưới sự bảo trợ vương miện Bồ; tuy nhiên, nhìn nhận giá trị và vai trò khoa học trong các tác phẩm truyền giáo đầu tiên không thể chỉ xem xét mặt tích cực của công cuộc truyền giáo, thậm chí rơi vào trạng thái đi kể chuyện các Thánh  [22]. Ghi nhận sự đóng góp của các nhà truyền giáo cho Việt Nam không có nghĩa là bỏ qua những mặt tiêu cực, quốc ngữ đã đưa văn hoá Chữ Nho và Nôm vào bóng tối, Việt Nam mất đi một phần gia tài mà tiền nhân đã để lại. Ruồng bỏ các văn hoá này có từ thời kỳ Nam Phong tạp chí, qua Cộng Hoà rồi đến Chính phủ Hà nội ngày nay. Thức tỉnh chỉ có thể xảy ra nếu Chữ Nôm/ Nho có trong các giáo khoa thư cùa nền Giáo Dục.

Mặt khác truyền Ky Tô giáo, theo Phép Giảng Tám Ngày trang 104 – 120; lật đổ Nho giáo, đả phá Lão giáo Phật giáo và thờ cúng Ông Bà; chưa kể xuyên tạc phỉ báng, đưa đến xung đột với Phật giáo một thời đã là Quốc giáo ở Việt nam. Khuyến khích hay vinh danh tử đạo quá lố cũng là hình thức quá khích tựa như giáo chiến croisades. Nói cho đúng lập Quốc ngữ qua truyền giáo cách quá khích cũng có tội! Mặt khác, không có Quốc ngữ thì tiến hoá  evolutions, văn minh, xã hội, khoa học, nhân chủng, … của Việt Nam phải theo một chiều hướng khác, như ở các láng giềng Đông Nam Á, Nhật bản, Cao Ly, Thái, Đông Dương Lào Xiêm, những nơi quốc ngữ của họ không mở mang trên mẫu tự La Tinh. Lại nữa văn hoá Nôm trở thành Quốc ngữ Latinh-hoá Việt Nam mà. Các giáo sĩ dùng cách biểu âm chữ Nôm để mẫu tự Latinh theo đó mà thành hình.

Phép Giảng Tám Ngày, Ngày thứ Bốn, trang 104-105 (Wikisource). Xin xem thêm ở phần dưới.

Lộn lạo tiếng nói đŏạn thì mới ra nước đại minh, mà Annam thi chiụ đạo bởi nưoc ếy: u khì lộn lạo tiếng nói đŏạn, mà đại minh phải mất tiếng nói tlao᷄ đạo thạt, x mà lại chảng còn có kinh truyèn đạo thạt, y thì phải phân ra nhều đạo vạy : z như thể kẻ lạc đàng thạt, thì lạc đi nhều đàng, mà những đàng vạy. (a) Sao᷄ le đại minh bổn thì có phân ra ba đàng cả, những vạy: (b) chảng kể nhều đàng tiểu mọn khác, cu᷄̀ vạy ꞗệy: (c) đàng thứ nhít, là đàng về kẻ kẻ hay chữ, gọi là đạo Nhu: (d) đàng thứ hai, là đàng kẻ thờ quỉ, mà làm viẹc đối, gọi là đạo đạo : (e) đàng thứ ba là đàng kẻ thờ bụt, gọi là đạo bụt. (f)…

Lộn lạo tiếng nói đoạn, thì mới ra nước Đại minh, mà Annam thì chịu đạo bởi nước ấy. Khi lộn lạo tiếng nói đoạn, mà

Đại minh phải mất tiếng nói trong đạo thật, mà lại chẳng còn có kính truyền đạo thật, thì phải phân ra nhiều đạo vạy. Như thể kẻ lạc đàng thật, thì lạc đi nhiều đàng, mà những đàng vạy. Song le Đại minh vốn thì có phân ra ba đàng cả, những vạy chẳng kể nhiều đàng tiểu mọn khác, cũng vạy vậy. Đàng thứ nhất là đàng về kẻ hãy chữ, gọi là đạo Nho. Đàng thứ hai là đàng kẻ thờ quỷ, ma làm việc dối, gọi là đạo Đạo. Đàng thứ ba là đàng kẻ thờ bụt, gọi là đạo Bụt.

Trích các trang tiếp theo trang 105:

… Vì vậy ông Khổng Tử, là kẻ Đại minh lấy làm thầy nhất, trong sách thì gọi đạo bụt những đạo rợ mọi vậy.

… Lão Tử ấy. Giáo này thì thờ ma quỷ mà làm những phép giả, cùng chẳng có thờ Lão Tử ấy sốt, nhưng ở tối tăm mù mịt vậy.

… Ví bằng có lạy ông Khổng trước mặt người ta mà chẳng có phân vua làm vậy, thì có tội, vì chưng kẻ ngoài đạo thì ngờ là kẻ có đạo, khi lạy ông Khổng, mà chẳng có phân vua trứơc, có lạy ông Khổng như Đức Chúa trời, vậy kẻ ngoài đạo càng tin sự dối nữa.

… Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì đã tỏ.

… Song le sự luân hồi Thích Ca bầy đặt phần đạo ngoài, thì là sự cười chốc. Vì chưng ví bằng ta đã ở đời trước, mà sao chẳng có một ai còn nhớ sự đời trước ấy? Vì vậy thật là Thích Ca bày đặt dối trá vậy …

… Song le cũng phải hay, khi linh hồn ta đã khỏi xác thịt này, chẳng còn có dùng ăn uống hay là mặc, cùng các kỳ sự vê xác, vì linh hồn ta là tính thiêng liêng. Mà người Annam mời linh hồn ăn của xác thì lỗi xa … Vì vậy Annam thì vô phép, mà mất lòng cha mẹ lắm … Lại người Annam càng vô phép, mà như thể cười nhạo cha mẹ, khi đã sinh thì, mà dùng những giấy làm nhà, cùng áo, tiền vàng bạc,và các ký sự vẽ, mà cúng cha mẹ.

Thế nhưng, chúng ta phải đọc những cứ liêụ trên trong môi trường truyền giáo thế kỷ 17 ở Việt Nam: Đắc Lộ một giáo sĩ, thẳng tay nhạo báng nguyền rủa Tam Giáo, Nho-Thích-Đạo 儒释道 (Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo), giọng điệu quả thật quá đáng, không đúng lễ mực truyền thống Việt Nam. Đây là một khuyết điểm lớn lịch sử của Đắc Lộ.

Người Triều Tiên – Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát âm Hán [23], hậu quả là thừa kế tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âm trong chữ Hán; bởi vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ Hán để ghi chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hán theo nghĩa tiếng Nhật, không theo âm tiếng Hán –– cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng chục nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau họ làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán.

Chữ Nôm cũng là dạng dùng chữ Nho, tức đọc (hay nói) Hán ngữ bằng Việt âm, Việt hóa phần ngữ âm Hán ấy là chữ Nho, để thể hiện viết tiếng Việt nói. Dùng chữ Nôm để đi đến ngữ học tương tự như chữ Hangul hay Kana, rất khó; tiếng Việt có quá nhiều âm thể so với Hàn ngữ hay Nhật ngữ. Ảnh bên, một bính âm yi có đến 135 chữ Trung đồng âm, Nôm tự theo âm đó có cả chục chữ khác nhau. Dựa trên chữ Nho để viết tiếng nói Việt, là chữ Nôm. Mẫu tự hoá La tinh tiếng nói Việt, là chữ Quốc ngữ!

Hán tự là chữ biểu ý ideograph; người Tàu đọc tiếng Hán theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Nôm tự là vừa biểu ý vừa biểu âm. Biểu ý lấy từ chữ Nho, biểu âm là tuỳ sáng tác.

Không có luật lệ hay ngữ phạm rõ rệt trong phần sáng tác. Lúc xưa ta hay nói, chữ Nôm vừa đọc vừa đoán, mức chính xác ghi âm tiếng Việt nói thấp, khó tiêu chuẩn hoá; một âm có khi cần nhiều chữ. Mà tiếng Việt lại qúa nhiều âm tiết, nên cần cả chục ngàn chữ Nôm để phát âm đầy đủ tiếng Việt [24]. Chữ Nôm từng được gọi là Quốc âm, là vì thế (một loại Quốc âm Giáo khoa thư!). Nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học, phải biết chữ Nho mới học được chữ Nôm, khó phổ cập. Chữ Việt không thể có các ngữ tự kiểu Hangul Triều tiên kay Kana Nhật bản.

Tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chủ trương dạy chữ Hán và chữ Nôm, nhưng có sử dụng chữ Hán với chữ Nôm ở một số thời điểm (đồng tiền lưu hành của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có in chữ Hán, không phải chữ Nôm, đọc từ phải qua trái. Ảnh Internet.). Khi đất nước thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán và chữ Nôm [25].

Đội quân Chúa Giê Su Jesuits với Khổ hạnh vâng lời, lời khấn thứ 3 này rất quan trọng. Phần thứ sáu của Hiến chương Dòng Chúa Giêsu, liên quan đến đời sống cá nhân của các thành viên, đề cập đến các lời khấn – khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục – là trọng tâm của đời sống tu trì Kitô giáo. Chương đầu tiên nói về sự khiết tịnh và vâng phục. Để minh họa sự vâng phục khổ hạnh hoàn hảo mà Dòng Tên được kêu gọi, thánh I-nhã sử dụng hình ảnh truyền thống: Mỗi người sống dưới sự vâng phục hãy tự thuyết phục mình rằng họ phải để mình được Chúa Quan Phòng dẫn dắt và hướng dẫn qua các Bề Trên, như thể Chúa Quan Phòng hướng dẫn họ, vâng phục như một xác chết perinde ac si cadaver esse(n)t, …

Perinde ac si cadaver, nghĩa đen là giống như một xác chết. Vâng lời cách tuyệt đối. Đây là công thức thánh hiến đặc trưng cho sự tuân phục tuyệt đối của các tu sĩ Dòng Tên đối với Đức Giáo Hoàng. Một nguyên tắc nền tảng của trật tự đã khiến Dòng đồng hành Chúa Giê Su chấp nhận không hề nao núng trước sự giải tán, thuần túy và đơn giản, của Giáo Hoàng Clement XIV vào cuối thế kỷ 18. Ngôn ngữ Cố Đắc Lộ có: chiến sĩ soldats, thợ ouvriers, người lao động travailleurs, … để chỉ các giáo sĩ của Dòng.

Cuộc họp 115 hồng y trong mật nghị ở Rome đã bầu ra Jorge Mario Bergoglio, một tu sĩ Dòng Tên. Đây là lần đầu tiên một thành viên của giáo đoàn có ảnh hưởng này trở thành giáo hoàng, nhưng đây cũng là một bước ngoặt đẹp đẽ trong Lịch sử. Vào thế kỷ 18, Vatican đã đơn giản đàn áp cái được gọi là Hội Chúa Giêsu. Tu sĩ Dòng Tên là một tôn-giáo-sĩ – religieux, cam kết sống theo lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Mục tiêu của những lời khấn này là sẵn sàng phục vụ Giáo hội, tự do giúp đỡ người khác gặp gỡ Thiên Chúa. Đủ để nói rằng với việc Jorge Mario Bergoglio đắc cử, Dòng Tên đã trả thù Lịch sử. Được thành lập dựa trên sự phân định, Dòng Chúa Giêsu đã trải qua những ngày vinh quang vào thế kỷ 16.

Vào thời điểm đó, các tu sĩ Dòng Tên đã kiềm chế đạo Tin lành ở châu Âu, phát triển mạng lưới các trường cao đẳng và đi đầu trong việc truyền giáo ở châu Á và châu Mỹ Latinh.

Nhưng những tranh cãi của họ với các trường phái tư tưởng khác đã khiến họ sụp đổ. Chẳng hạn, sự cạnh tranh khét tiếng của họ với các tu sĩ Đa Minh vào đầu thế kỷ 18 đến mức Giáo hoàng phải áp đặt sự im lặng cho cả hai bên. Mối quan hệ của họ với các tu sĩ dòng Phanxicô cũng không tốt hơn là bao. Hơn nữa, lòng trung thành vô điều kiện của họ với Tòa Thánh khiến họ bị các quốc vương Âu châu, đang tìm kiếm chủ nghĩa chuyên chế, nghi ngờ. Và từ năm 1760, họ bị trục xuất khỏi Bồ Đào Nha, Pháp rồi Tây Ban Nha. Hoàng gia Bourbons bên Pháp gây áp lực trực tiếp lên Giáo hoàng để đàn áp Công ty Chúa Giê Su. Số phận của họ đã đầu độc mật nghị năm 1769 và hướng dẫn các cuộc thảo luận. Vị giáo hoàng mới, Clement XIV, đã ký vào năm 1773 bản tóm tắt Dominus ac Redemptor nhằm hoàn toàn giải tán Dòng Chúa Giêsu trên toàn thế giới.

Đức Piô VII đã thực hiện việc khôi phục toàn diện Tu hội bằng cách ban hành sắc lệnh Sollicitudo omnium ecclesiarum vào năm 1814, nhờ những diễn biến chính trị quan trọng đang lan rộng khắp Châu Âu. Ngày nay, chỉ có khoảng 20.000 tu sĩ Dòng Tên trên khắp thế giới, một phần ba trong số đó đến từ Nam Mỹ, nơi Đức Phanxicô I đã tu tập.

Vào đầu thế kỷ 17, thúc đẩy bởi cuộc Phản Cải cách của Công giáo [26], la Contre-Réforme catholique, Tu hội Chúa Giê Su đã trải qua sự phát triển vượt bực. Từ năm 1579 đến 1615, số tỉnh dòng tăng từ 21 lên 32, số trường cao đẳng từ 144 lên 372 và số linh mục từ 5.165 lên 13.112. Hơn nữa, vào năm 1622, Tu hội đã đạt đến đỉnh cao vinh quang vì trong số năm vị thánh được phong thánh năm đó, có hai vị là tu sĩ Dòng Tên: Ignatius Loyola, người sáng lập Tu hội, và Francis Xavier, nhà truyền giáo đồng hành đầu tiên của ngài.

Năm 1529, tại Đại học Paris, Ignace de Loyola, một người Basque Tây Ban Nha [27], bị què vì chiến tranh, kết bạn với một sinh viên Savoyard, Pierre Favre, và một nhà quý tộc trẻ người Basque, François-Xavier, mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho Đấng Ky Tô. Nhà quý tộc xứ Basque và nhà lãnh đạo quân sự với một tương lai đầy hứa hẹn, Ignace de Loyola, bị gãy chân trong khi quân Pháp-Navarrese của Francis I chiếm Pamplona, tám năm trước, tháng 5 năm 1521. Tai nạn này buộc Ngài phải rời quân đội và dành năng lực của mình để phục vụ đức tin. Đây là cách ông phát triển các bài tập tâm linh (xin xem bài viết Linh thao Mặc khải BT- NQB) nhằm rèn luyện cơ thể và tâm trí. Khi Cơ đốc giáo vào thời điểm đó bị lung lay bởi cuộc Cải cách của Luther, nhóm de Loyola đã đề nghị phục vụ Giáo hoàng, đây chính là cách Hiệp hội Chúa Giêsu hay Dòng Tên được thành lập. Các thành viên tu sĩ Dòng Tên, là những linh mục thực hiện lời khấn tu viện (khiết tịnh, v.v.) cũng như vâng phục giáo hoàng và bề trên của họ. Do năng lực trí tuệ và kỷ luật quân sự của họ, Dòng Tên trở thành cánh tay vũ trang theo nghĩa bóng, của giáo hoàng, góp phần vào sự tiến bộ của giáo dục và truyền bá đạo Công giáo đến tận cùng thế giới, cải đạo nhiều người Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản.

Trên Net Jésuites viết: Chúng tôi, Dòng Tên (Tên đây hiểu là tên Giêsu), là một dòng tu của Giáo hội Công giáo La Mã. Từ Dòng Tên, Jésuite, xuất phát từ tên Chúa Giêsu. Dòng Tên là những người bạn đồng hành của Chúa Giêsu. Theo truyền thống của Thánh Ignatius Loyola, chúng ta theo Chúa Giêsu Kitô. Biểu tượng của Dòng là chữ lồng IHS, ba chữ cái đầu tiên của tên Chúa Giêsu bằng ký tự Hy Lạp. Nó cũng có thể được đọc là Iesum Habemus Socium: Chúng ta có Chúa Giêsu là Bạn Đồng hành.

Cam kết với đức tin và công lý, đối thoại với các nền văn hóa khác nhau và tìm kiếm sự hòa giải – đặc sủng này của Dòng chúng ta phù hợp hơn bao giờ hết. Cuộc sống của chúng tôi được truyền cảm hứng từ linh đạo Ignatiô, spiritualité ignatienne. Chúng ta muốn làm cho nó có kết quả cho người khác. Được thành lập vào năm 1540, Dòng Chúa Giêsu ngày nay có 14.839 thành viên, trong đó có 10.721 linh mục, 894 tu sĩ, 2.593 tu sĩ trẻ Dòng Tên đang đào tạo và 631 tập sinh (thống kê ngày 01/2021). Chữ viết tắt sj đằng sau tên của dòng viên Dòng Tên có nghĩa là Societas Jesu, trong tiếng Pháp là Đồng hành của Chúa Giêsu. Giám đốc FAR Foyer d’Alexandre de Rhodes, Cư

xá Sinh viên Đắc Lộ thuở xưa, ỏ Sài Gòn, ký Henri Forest sj.

Dòng Chúa Giêsu được lãnh đạo bởi một Bề Trên Tổng Quyền, thường được gọi là le Général, đại tướng của Dòng. Kể từ năm 2016, người đó là Cha Arturo Sosa sj, một tu sĩ  Dòng Tên đến từ Venezuela. Được các thành viên của Tổng hội bầu chọn, ngài điều hành toàn thể Dòng. Về mặt lịch sử, ông được bầu suốt đời, à vie giống như Giáo Hoàng; nhưng Tổng hội 31 đã chấp nhận khả năng từ chức. Các cố vấn và cộng tác viên thường trực của nó thành lập Trung ương Giáo triều, giống như Bề trên Tổng quyền la Curie générale, có trụ sở tại Rome.

  (còn nữa)

Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo

————-

Chú thích: 

[1] https://gpquinhon.org/q/

[2] Đỗ Hoàng Anh – https://archives.org.vn

[3] Hoa Bằng & Tiên Đàm, “Ông Alexandre de Rhodes (1591-1660)”, trong Tri Tân Tạp Chí, số 2-10, Juin, 1941. Các Ảnh trên đây của Internet.

[4] Các bài diễn thuyết được in lại trong Trung hòa nhật báo, Số 2547, 7 Tháng

  Sáu 1941, và được trang https://gpquinhon.org/q/ đưa lên trong mục Ôn cố tri tân.

[5] Tổng Giám Mục Giáo phận Huế Giuse Nguyễn Chí Linh quê quán giáo xứ Ba Làng, thuộc xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia (nay là phường Hải Thanh, thị xã Nghi Sơn), tỉnh Thanh Hóa. Tôi hân hạnh mấy lần được cùng đi ăn phở với ngài ở Little Saigon. Ngày trước, ở đây có Tiểu Chủng Viện Petit séminaire.

[6] Bản chữ Nho không có chữ Đức, có thể dịch từ Pháp ngữ Monseigneur, mà dùng chữ Thị – 氏, A Lịch Sơn Đắc Lộ Thị – 亞厤山得路氏. Thị 氏 nghĩa là Họ, nên nghĩa trong bia là Tiểu sử A Lịch San Đắc Lộ. Phiên bản chữ Nho cho thấy ảnh hưởng của Hán Việt còn mạnh vào năm 1941.

[7] Bernard de Feyssal đã tóm tắt quá trình lập quỹ xây dựng đài kỷ niệm, bắt đầu từ khoảng năm 1923-1924 với thiếu hay trung tá Bonifacy, một người yêu mến sử Việt, và ông Henri Cucherousset, chủ nhiệm báo Éveil Économique de l’Indochine

[8] Số phận tấm bia của cha Alexandre de Rhodes. Lm Phaolô Nguyễn Minh Chính.

[9] Đặng Thái Mai là bố vợ Võ Nguyên Giáp.

[10] Năm Nhâm Tuất 1862 Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ gồm 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hòa. Năm Đinh Mão 1867 Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Hòa Ước năm Giáp Tuất 1874 công nhận chủ quyền của Pháp trên toàn thể lãnh thổ Nam Kỳ. Nam Kỳ chính thức trở thành thuộc địa (colonie) của Pháp. Hai hòa ước năm Quí Mùi 1883 và năm Giáp Thân 1884 (thường được gọi là Hòa Ước Patenôtre) công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành đất bảo hộ (protectorat) của Pháp

[11] Sau khi Trương Vĩnh Ký trở về nước vào năm 1865, Chuẩn đô đốc Roze, khi ấy đang tạm quyền Thống đốc Nam Kỳ, đã mời ông ra làm quan. Petrus Ký từ chối và xin lập một tờ báo chữ Quốc ngữ mang tên là Gia Định báo. Lời yêu cầu được chấp thuận và Nghị định cho phép xuất bản được ký ngày 1 tháng 4 năm 1865, nhưng không phải ký cho ông mà lại ký cho một người Pháp tên là Ernest Potteaux, một viên thông ngôn làm việc tại Soái phủ Nam Kỳ. Và phải đến ngày 16 tháng 9 năm 1869 mới có Nghị định của Chuẩn Đô đốc Ohier ký giao Gia Định báo cho Trương Vĩnh Ký làm chánh tổng tài (tiếng Pháp: rédacteur en chef), nay gọi là giám đốc hay chủ nhiệm; Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút. Đến năm 1897, Gia Định báo chấm dứt hoạt động.

[12] Facebook, DVD eBook Gia Định Báo – Tờ Báo Đầu Tiên Bằng Chữ Quốc Ngữ – Wikipedia.

[13] Vua Khải Định ra chiếu bỏ chữ Hán, dùng chữ quốc ngữ ngày 28/12/1918.

[14] Thân phụ tôi có học trường Hậu Bổ, cùng hai cụ Ngô Đình Diệm và Trần Văn Lý là đồng môn.

[15] https://thanhhaphung.wordpress.com/2011/09/12/he-thong-giao-duc-thoi-phap-thuoc/

[16] Chữ Nôm – Wikipedia tiếng Việt.

[17] HN NKX Công trình nghiên cứu tiếng Việt của người Thuy sĩ ở Kẻ Chợ Đàng Ngoài Onufre Borges 1614- 1664 : góp ý với Roland Jacques về công trình nghiên cứu tiếng Việt của mấy người Bồ tiền phong cho đến 1650. L’œuvre de recherches sur la langue vietnamienne d’un Suisse, Onufre Borges (1614-1664), réalisée à la capitale du Tonkin. Une opinion sur la position de Roland Jacques, au sujet de l’œuvre de recherches sur la langue vietnamienne des pionniers portugais jusqu’en 1650, Paris, tác giả xuất bản [Fountain Valley, Ca. (États-Unis), Thánh Linh, 1996. Tác phẩm dày 221 trang này dịch sang tiếng Việt các văn bản viết tay Roland Jacques đã xuất bản và bao gồm hầu hết các chú thích. Tác phẩm của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha, được trích dẫn ở trên; Tài liệu này mất đi nhiều sự quan tâm vì giọng điệu mang tính bút chiến được tác giả sử dụng để bảo vệ luận điểm truyền thống cho rằng chỉ có Rhodes mới có quyền tác giả chính trong việc La-tinh hóa tiếng Việt.

 [18] Sau này, NKX đã sửa sai, dùng chiến sĩ thay cho lính chiến.

[19] Sau này, NKX đã sửa sai, dùng chiến sĩ thay cho lính chiến.

[20] RFA, Đài Á châu tự do: Nguyễn Đắc Xuân, thừa nhận đã tham gia chiến dịch Huế Xuân 68 từ đầu đến cuối trong bài viết Đến bao giờ mới minh oan cho những người đã chết vì sự sai lầm trong chiến tranh Mậu Thân 1968 đăng trên facebook của mình và trên trang web http://sachhiem.net.

 [21] https://www.giaodiemonline.com/2009/09/images/cgcs-3.htm

[22] Hagiography (từ tiếng Hy Lạp cổ ἅγιος / hágios, thánh, và γράφω / gráphô, “viết”) là cách viết về cuộc đời và/hoặc tác phẩm của các vị thánh. Wikipedia.

[23] Hành trình từ chữ Nho, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ. Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

[24] Một âm đơn giản nôi, cần đến 8 chữ Nôm, 挼 nôi • 枘 nôi • 浽 nôi • 𣊌 nôi • 𥱮 nôi • 𥷓 nôi • 𪰤 nôi • 𪸯 nôi, … Âm nối có 9 kiểu viết chữ Nôm. Theo tài liệu, vào giữa thế kỷ 17 đã có khoảng 80.000 chữ Nôm (Bảng tra chữ Nôm năm 1976) cho biết có 8.187 chữ. Từ điển Chữ Nôm dẫn giải của Nguyễn Quang Hồng (2015) có 9.450 chữ Nôm, gồm gần 3.000 chữ tự tạo, ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt.

 [25] Nguồn Wikipedia.

[26] Ngày 13 tháng 12 năm 1545, Hội đồng Trent và phản cải cách. Năm 1542, Giáo hoàng Paul III Farnese đã triệu tập một công đồng đại kết ở Trent, trên dãy núi Alpes, mục tiêu là phục hồi Giáo hội Công giáo, vốn sẽ bị biến đổi sâu sắc. Phong trào này lấy tên là Phản Cải Cách, hay Cải Cách Công Giáo, Contre-Réforme, ou Réforme, để phản đối cuộc Cải Cách Tin Lành của Luther, Calvin, Zwingli.

[27] Ignatius de Loyola (Ignazio Loiolakoa tiếng Basque, Íñigo López de Loyola tiếng Tây Ban Nha), là một linh mục và nhà thần học người Basque-Tây Ban Nha, sinh năm 1491, tại Loiola và qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1556 tại Rome. Xứ Basque có hai địa dư, Tây Ban Nha và Pháp.