Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 5)

Chân dung Alexandre de Rhodes (phiên âm tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ, A-lếc-xăng Đơ-rốt; 15/3/1591 – 5/11/1660)

Cố Năm sinh năm 1781, người làng Đông Biên, xã Minh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, thuộc Giáo phận Thanh Hóa, tên trong sổ bộ là Mai Ngũ, là con gia đình lương dân họ Mai nhưng vì nhà khó khăn cho làm con nuôi người đi đạo Công giáo họ Đỗ nên có tên là Đỗ Mai Năm. Ngài chịu chức linh mục năm ba mươi hai tuổi.

Từ bé, Giacôbê Năm đã sống trong Nhà chung, sau đó được vào Chủng viện Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), thời Đức giám mục Jacques Benjamin Longer – Gia. Khi làm thầy giảng, thầy Năm được cử ở lại giúp Chủng viện Kẻ Vĩnh. Ban ngày thầy coi sóc kẻ liệt, buổi tối thầy đi dạy trẻ con làng Kẻ Vĩnh.

Làm thầy giảng được mấy năm thì bề trên gọi thầy học Đại chủng viện, truyền chức linh mục cho thầy, cùng sai đi giúp các xứ đạo lúc thầy mới đến ba mươi hai tuổi. Linh mục Giacôbê Năm là người hiền hòa, dễ mến. Cha năng đọc kinh, lần hạt. Đặc biệt, cha Giacôbê Năm có lòng thương kẻ khó khăn, hay giúp đỡ người nghèo về cơm áo, thuốc men.

Vào khoảng giữa thời Minh Mạng, bề trên đem cha Năm về Nhà chung Kẻ Vĩnh được hai ba năm thì có chỉ cấm đạo, bắt các đạo trưởng, triệt hạ các nhà thờ, nhà xứ. Bấy giờ Nhà chung Kẻ Vĩnh phải tản đi. Linh mục Năm ẩn trốn ở nhà ông trùm Tốn, họ Kẻ Nguồi ba bốn năm. Khi cơn cấm đạo đã nguôi, Nhà chung đã hồi lại, cha Năm lại về Kẻ Vĩnh.

Chẳng được bao lâu, các quan lại bắt đạo ngặt quá, cha Năm phải ẩn trốn trong nhà ông trùm Đích ở làng Kẻ Vĩnh. Lúc ấy có kẻ tên Tỉ quê ở Đông Mặc và tên Xuân quê Tiểu Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, tố giác cha Năm với quan tuần phủ Nam Định tên là Trịnh Quang Khanh.

Sáng ngày 11/05/1838, quan tuần phủ đi thuyền đến bến Kẻ Vĩnh, lên ngồi ở đình làng, đòi mọi người từ mười tám tuổi trở lên phải đến tại đình trình diện. Quan bắt lý trưởng làm tờ cam kết, hễ bắt được đạo trưởng, cùng đồ đạo quốc cấm trong làng thì mình chịu tội. Khi quân lính bao vây làng Kẻ Vĩnh, cha Năm thắt lưng, xăn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chưa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Lính đến gần nhà ông trùm Đích gặp linh mục Năm, thấy người trắng trẻo, lại râu ria đẹp đẽ thì hỏi người rằng: “Ông là ai, có phải là Cụ chăng?” Cha Năm thưa rằng: “Tôi là người nhà này”. Bấy giờ kẻ Tỉ và Xuân liền kêu lên rằng: “Đó chính là linh mục đang trú ở nhà ông trùm Đích đấy”. Cha Năm nói: “Phải, tôi là linh mục đây”. Lính xông tới bắt và trói cha cùng ông trùm Đích đem nộp cho quan đang ngồi tại đình làng.

Khi đến trước mặt quan, cha cũng xưng mình là linh mục. Quan bảo rằng: “Triều đình

nghiêm cấm đạo Giatô, sao chẳng về nhà làm ăn còn giảng đạo làm gì?” Quan lại hỏi cha rằng: “Linh mục có bước qua thập giá chăng?” Cha thưa rằng: “Bẩm quan lớn, chúng tôi không bước qua thập giá”. Quan hỏi cho qua chuyện rồi truyền đóng gông cha Năm cùng ông trùm Đích và lý trưởng Mỹ, con rể ông trùm Đích, và xuống thuyền ra Nam Định. Khi cha Năm vừa đến Nam Định thì bị giam ngay. Hôm sau, các quan đòi cha ra và bắt bước qua thập giá, nhưng cha cương quyết không chịu. Ngày 12/08/1838, cha Năm, ông trùm Đích và ông lý Mỹ bị chém đầu ở pháp trường Bảy Mẫu. Ngày sau, khi đã bình yên, Nhà chung dựng nhà mồ có treo câu đối:

Hoành hoành nghĩa khí quần giam Cụ

Lẫm lẫm trung thành vạn cổ sư

Sự phát triển của sứ mệnh truyền giáo đi kèm với Việt Nam cũng như các nơi khác bằng những thành tựu cao nhất trong lĩnh vực văn hóa.

Năm 1615, các tu sĩ Dòng Tên của Tỉnh Dòng Nhật Bản, khi khai mạc sứ mệnh Việt Nam, đã có hơn hai mươi năm kinh nghiệm nghiên cứu và sáng tạo ngôn ngữ bằng tiếng Nhật. và tiếng Nhật chiếm vị trí đối xứng, và hai ngôn ngữ này, tiếng Việt và tiếng Nhật, chịu ảnh hưởng như nhau thông qua ngôn ngữ ký tự.

Điều này có thể giải nghĩa tính cách thức thời của các Giáo sĩ Bồ, ngay từ đầu thế kỷ 17, đã có những căn bản chắc chắn, sáng kiến để chuyển đổi văn ngữ Bồ qua việc cải tác và phiên mã các âm dồi dào tiếng Việt (líu lo như chim hát …) với các chữ cái Latinh. Ở đây ta phân biệt tiếng Việt nói và chữ Việt viết.

Bản dịch đầu tiên các văn bản tôn giáo Kitô giáo sang tiếng Việt có từ năm 1618, và chủ yếu là do Francisco de Pina thực hiện. Là một tu sĩ Dòng Tên sinh ra ở Bồ Đào Nha 52, ông đã hoàn thành việc học tại trường đại học Macao, nơi nhà ngữ pháp của tiếng Nhật João Rodrigues Tçuzzu đã có mặt từ năm 1610. Đối với công việc của mình, Pina đã nhận được sự giúp đỡ đắc lực từ một học giả trẻ đã được rửa tội dưới tên Phêrô, người có kiến thức tốt về tiếng Trung, chắc hẳn sẽ rất hữu ích trong hoàn cảnh này. Những sự thật này xuất hiện từ một báo cáo chính thức của phái bộ: Người đàn ông này, một người bạn học giả của phái đoàn, có một cậu con trai mười sáu tuổi, là người hoạt bát và thông minh nhất vùng, đồng thời là người viết chữ Hán giỏi nhất, một nghệ thuật rất tuyệt vời, rất được quý trọng trong số họ… Người thanh niên này, được rửa tội dưới tên Phêrô Pierre [102], nhờ vào sự hiểu biết của đã giúp đỡ rất nhiều Cố Pina, từ kinh Chúa Cha, để dịch sang ngôn ngữ của đất nước, các kinh Pater noster, AveMaria kính mừng, Credo tin kính và Mười điều răn mà các Kitô hữu đã dùng để học thuộc lòng. Cha Pina cũng soạn các tín điều bằng ngôn ngữ này; tuyên bố đầy đủ rằng chỉ có một Thiên Chúa, các mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh, Nhập Thể và Cứu  Chuộc, và sự cần thiết của chúng ta chia sẻ công nghiệp của Chúa Kitô, Chúa chúng ta, qua các phương tiện đức tin và các thánh bí tích saints sacrements.

Francisco de Pina, sinh ra ở Guarda năm 1585, gia nhập Công đoàn Chúa Giêsu vào năm 1605. Ông học ở Ma Cao từ khoảng năm 1613 đến năm 1616, đặc biệt là có trình độ tiếng Nhật rất cao. Rất có thể Pina là đồ đệ của nhà Ngữ học Nhật nhiều kinh nghiệm João Rodrigues Tçuzzu. Thụ phong linh mục ở Malacca năm 1616, cuối năm 1617 ngài lên đường đi truyền giáo Nam Kỳ, rồi bất ngờ qua đời vào ngày 

15.12.1625 ở Touranne. Theo các sai sót của Fortuné-M. De Montézon và Edouard Estève trong Mission de la Cochinchina et du Tonkin (Paris, Charles Douniol, 1858, p. 386), một số tác giả nhất định cho đến ngày nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Pina là người Ý. Tuy nhiên, các danh sách cũ lưu trữ, rất rõ ràng, không nhầm lẫn: xem Josef Franz SCHÛTTE, (ed.), Textus Catalogorum (cited note 38), p. 855, 955 etpassim.

Các Kitô hữu Việt đã viết ra hết mọi sự, và đã bắt đầu đọc kinh Mân Côi như chúng ta! Theo cách sử dụng các báo cáo hàng năm của Dòng Tên, Cha, Cố hay giáo sĩ, tác giả của các tác phẩm được đề cập, không được nêu tên rõ ràng. Ba tu sĩ Dòng Tên sau đó đã có mặt tại phái đoàn Pulo Cambi (xấp xỉ với Quy Nhơn hiện tại), nơi xẩy ra các diễn biến: Buzomi, mắc một căn bệnh hiểm nghèo khiến ông không thể lo liệu việc hoán cải để được rửa tội của những người bản xứ, chỉ còn lại Pina và Boni, một người mới bắt đầu học tiếng Việt. Chúng ta được biết công việc Latinh hoá tiếng Việt được thực hiện dưới sự giám sát của Buzomi, nguyên bề trên phái bộ Nam Kỳ (1615-1618) và bề trên địa phương, nhưng nghệ nhân chính là Pina và cộng tác viên trẻ Phêrô người Việt Nam. Theo minh định của chính mình, Pina đã hoàn thành việc phát triển hệ thống phiên âm chữ cái phù hợp với ngữ âm và thanh điệu của tiếng Việt vào năm 1622. Ông đã sưu tầm một tuyển tập gồm những tác phẩm được chọn lọc và bắt đầu viết ngữ pháp grammaire. Pina đã đạt được kết quả này bằng cách làm việc không mệt mỏi, chỉ được giúp đỡ bởi một trong những học sinh vây quanh ông.

Dẫn chứng minh định của Pina trên đây, Roland JACQUES, trong L’œuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la vietnamienne jusqu’en 1650 [103]. Công trình của một số nhà tiên phong người Bồ Đào Nha trong lĩnh vực tiếng Việt cho đến năm 1650 (luận đề D.E.A. Paris, INALCO, 1995) cho biết: thông tin này được lấy từ một bức thư mà theo hiểu biết của chúng tôi, chỉ có một bản sao tồn tại trong kho lưu trữ của Dòng Tên ở Macao, và chúng tôi đã ấn bản và bình luận bằng văn bản: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuitas na Âsia , tập 49/ V/7, sau. 413-416. Bức thư này không ghi ngày tháng và không có chữ ký; người sao chép (José Montanha hoặc Manuel Âlvares, khoảng năm 1755) đã chú thích rằng nó có thể nằm trong tay Pina và ghi niên đại là 1622-1623. Chúng tôi đã có thể chứng minh một cách chắc chắn rằng sự quy kết cho Pina và niên đại (những tháng đầu năm 1623) là khả thi duy nhất. Xin trích dịch Jacques cùng với tài liệu Khai Sinh Chữ Quốc Ngữ đã dẫn trên đây.

Năm 1615, các giáo sĩ tiên phong trong Giáo đoàn đã đến Đà Nẵng để tìm cách thiết lập cơ sở truyền đạo. Cho đến năm 1623, đã có hai trú sở truyền đạo chính thức được mở, một tại Hội An Residentia Fayfó và một tại Nước Mặn Residentia Nuoecman, Pulocambi thuộc Quy Nhơn, và hai năm sau (1625) thì lập trú sở truyền đạo thứ ba tại dinh trấn Thanh Chiêm.

Theo Roland Jacques, giáo sĩ Francisco de Pina là người đầu tiên bắt tay vào thực hiện công trình Latinh hóa tiếng Việt đầy khó khăn những cũng không kém phần vinh quang này. Cùng theo Roland Jacques thì giáo sĩ Pina đã nhận xét tiếng Việt là một ngôn ngữ “có thanh điệu như một bản xướng âm, cần phải biết xướng âm trước đã. Chỉ sau đó mới học các chữ.” Jacques đã phát hiện ra hai tác phẩm chưa công bố của Francisco de Pina, đó là bức thư viết dở bằng Bồ ngữ dài 7 trang cho Đức cha bề trên Jerómino Rodríguez ở Ma Cao và tiểu luận dài 22 trang mang tựa đề Manuductio ad Linguam Tunkinensem (Nhập môn tiếng Đàng Ngoài) bằng La ngữ tại Thư viện Quốc gia ở cung điện Ajuda – Lisbonne, Bồ Đào Nha. Jaques kết luận Francisco de Pina mới chính là người đầu tiên sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ chứ không phải Alexandre de Rhodes).

La ngữ âm hóa tiếng bản địa không phải là sáng kiến của Pina, bởi việc này đã được các giáo sĩ kiêm nhà ngôn ngữ học thực hiện trước đó. Từ thế kỷ XVI, để quảng bá Kitô Giáo ra khắp thế giới một cách hữu hiệu, những nhà truyền đạo đã được Giáo Hội La Mã khuyến khích sử dụng mẫu tự Latinh để ký âm hóa ngôn ngữ tại địa phương nơi mà họ đang gieo Đức tin Thiên Chúa. Đã có các công trình La ngữ âm hóa tiếng Tamin (ở miền nam Ấn Độ), tiếng Nhật, tiếng Trung Hoa, tiếng Tupi-guarani (tiếng bản địa của Brazil) do các giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý thực hiện trước khi Pina sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ.

Khi các giáo sĩ dòng Tên đến trền giáo ở Nhật, họ gặp nhiều trở ngại với hệ thống chữ viết của người Nhật bao gồm hệ thống katakana, hiragana và kanji. Để học nói và viết tiếng Nhật, họ sáng tạo cách ghi âm tiếng Nhật bằng mẫu tự La tinh, gọi là romaji (La mã tự). Trong khoảng những năm 1564 hoặc 1567, Duarte da Silva đã soạn một cuốn ngữ pháp và từ điển Nhật-Bồ, Bồ-Nhật. Sau đó Alessandro Valignano (1538-1606) tiếp tục cải cách phương pháp học tiếng bản địa và cho ra đời cuốn Từ điển Bồ-Nhật năm 1585 bằng văn bản viết tay. Đến năm 1591, dòng Tên ở Nhật đã có xưởng in tại Amacusa để xuất bản một số sách bằng chữ romaji. Năm 1595 cuốn Từ điển La-Bồ-Nhật (Dictionarium Latino- Lusitaneum ac Japonicam) ra đời. Đến năm 1603 thì xưởng in ở Nagasaki phát hành cuốn Từ điển Nhật-Bồ (Nippo Jisho, Vocabulario da lingoa de Iapam). Năm sau, quyển Ngữ pháp Nhật ngữ (Arte grammaticae Japonicae Linguae) của Joaõ Rodrigues (1561/62-1633/34) cũng ra đời ở Nagasaki.

Cùng một tinh thần đó, giáo sĩ Michele Ruggieri (1543-1607) và Matteo Ricci (1552-1610) ở Macau đã soạn Từ vựng Bồ-Hoa trong những năm 1585-1589 dưới dạng bản thảo. Đến năm 1626, giáo sĩ Nicholas Trigault (1577-1628) cũng cho ra mắt cuốn phương pháp học tiếng Trung Tây nho Nhĩ mục Tư còn gọi là Ầm Vận Kinh. Đây là từ điển sắp âm vận Hoa ngữ theo chữ cái La tinh. Các cuốn từ điển của Ruggieri-Ricci và Trigault được các nhà truyền giáo ở Trung Hoa chép lại và chuyền tay nhau sử dụng cho đến thế kỷ 19.

Macau ở thế kỷ 17-18 là trung tâm truyền giáo của dòng Tên tại Viễn Đông, nơi các giáo sĩ dừng chân, liên lạc, tập trung, học tập trước khi lên đường đi Nhật Bản, Trung Hoa, Đàng Trong, Đàng Ngoài, Champa, Cao Miên, Thái Lan, v.v. Tuy hoạt động các đoàn truyền giáo mang tính đặc thù của từng địa phương, nhưng họ thống nhất về tinh thần và phương thức truyền giáo, bao gồm chia sẻ kinh nghiệm học tập ngôn ngữ. Vì vậy có thể nói là công cuộc La tinh hoá tiếng Việt ít nhiều chịu ảnh hưởng của các cuộc chế tác văn tự La tinh cho tiếng Nhật tiếng Hoa, mà Francisco de Pina đã áp dụng để Lamã hoá Quốc ngữ [104]

Vừa đặt chân đến Hội An, Pina khởi sự học tiếng Việt, chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã có thể trực tiếp đàm thoại với người bản địa. Giáo sĩ Gaspar Luis đã chứng nhận điều đó, Linh mục Pina đền Đàng Trong năm 1617, là sĩ đầu tiên đã miệt mài nghiên cứu tiếng nói, khi giáo sĩ Đắc lộ đến Thanh Chiêm vào cuối năm 1624 đã thấy Pina giảng Kinh Thánh mà không cần phiên dịch. Có thể nói, vào thời điểm đó, Pina là vị giáo sĩ đầu tiên và duy nhất giảng đạo trực tiếp cho giáo dân bản địa bằng tiếng mẹ đẻ của họ. Thời gian đầu Pina học Tiếng Việt tại Hội An, nhưng sau đó, vào khoảng năm 1619, ông chuyển đến dinh trấn Thanh Chiêm. Hội An nơi có hiện tượng lai tạp ngôn ngữ, bởi Phố Khách là nơi giao thoa của các nền văn hóa Việt, Trung, Nhật, Bồ… hơn nữa, tại Hội An, người ta chỉ quan tâm đến việt buôn bán nên Pina khó có thể tiếp cận với tri thức giới trẻ ở địa phương ngõ hầu tìm kiếm sự cộng tác để nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc Ngữ. Ông đã khẳng định điều đó: đối với con việc nghiên cứu tiếng nói, Kẻ Chàm vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm triều đình: ở đây người ta nói rất hay, có sự đổ dồn của những người trẻ tuổi đến mà họ là những sĩ tử và bên cạnh họ, những ai bắt đầu học tiếng Việt có thể tìm thấy một sự giúp đỡ. Roland Jacques cũng hoàn toàn xác nhận ý kiến này: Thành phố Hội An từ rất xa xưa là một thủ đô kinh tế của Champa ngay từ thiên niên kỷ thứ nhất. Ở thế kỷ 17, nó vẫn là thành phố chợ quan trọng, một trung tâm thương mại kép gồm hai đơn vị tách rời nhau, một khu của người Nhật và một khu của người Hoa. Mỗi khu được quản lý bởi một trưởng khu theo luật quán ước riêng. Cư dân ở đây rất hỗn tạp, điều này giải thích hiện tượng lai tạp ngôn ngữ. Francisco de Pina nghĩ rằng nơi này không thể là nơi học Tiếng Việt được. Lập luận Pina chuyển lên ở hăn Thanh Chiêm vào năm 1619 là có cơ sở bởi theo lời tường trình của giáo sĩ Cristoforo Borri thì nhờ vào những hiểu biết về thiên văn và toán học mà Pina đã tính toán chính xác là có nguyệt thực diễn ra tại Thanh Chiêm vào lúc 11 giờ đêm mồng 9 tháng 12 năm 1620, điều này làm cho thế tử Kỳ rất kính trọng Pina. Qua đấy, Pina đã thiết lập mối quan hệ hết sức thân thiết với quan trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm. Tuy không thể thuyết phục thế tử Kỳ chịu làm lễ thánh tẩy nhưng ông đã làm vị thế tử này có cảm tình với đạo Công Giáo và các Kitô hữu.

Trong bức thư viết dở vào đầu năm 1623, ông có báo cáo cho cha bề trên Rodriguez: năm

vừa qua, con đã viết để báo cáo với đức cha, thưa cha kính mến, rằng con đã mua hai cái nhà của mẹ Jeanne ở Kẻ Chàm. Mỗi nhà có ba gian, một nhà làm nơi ở, nhà kia làm tiểu giáo đường. Pina đã mua chúng vào năm 1619. Cristoforo Borri: Năm 1619, một đại tăng, kẻ thù lớn của lòng tin thánh thiện của chúng ta thuyết phục nhà vua lưu đầy các cố đạo và phá hủy nhà thờ nhưng nhà thờ vẫn sừng sững ở Kẻ Chàm với tên gọi nhà của mẹ Jeanna. Tại hai ngôi nhà này, Pina đã tuyển chọn một số thanh niên Công Giáo để phụ lễ, đào tạo họ thành người thông dịch và chắc chắn những thanh niên này đã cộng tác với ông trong vấn đề nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ. Tại Thanh Chiêm, Pina cùng với Phêrô, tên rửa tội một thanh niên địa phương, đã lần đầu tiên dịch Kinh Thánh sang chữ quốc ngữ, sự kiện này được biết qua một bản phúc trình chính thức của Francisco Eugenio, tu sĩ Dòng Tên người Ý ở Ma Cao.

Nhờ quan hệ tốt với thế tử Kỳ ở dinh trấn Thanh Chiêm nên Pina đã lập một trú sở mới ở đây vào khoảng cuối năm 1624, đầu năm 1625 và đến tháng 5 năm 1625, Pina chính thức trở thành Cha bề trên quản nhiệm trú sở truyền giáo Thanh Chiêm Résidentia Dinh Ciam, trú sở quan trọng nhất tại Đàng Trong vì nó ở ngay cạnh dinh trấn Quảng Nam, triều đình thứ hai của xứ này do thế tử Nguyễn Phúc Kỳ đứng đầu. Không chỉ có hoạt động nghiên cứu và sáng tạo chữ quốc ngữ, tại trú sở Thanh Chiêm, Pina vừa là thầy dạy tiếng Latinh cho các thầy giảng người Việt vừa là giáo sư Việt ngữ cho hai giáo sĩ dưới quyền mới đến hồi cuối năm 1624 là Antônio de Pina Fontes và Đắc Lộ, xin xem lại.

Đối với công việc nghiên cứu Tiếng Việt, Pina cho biết: Về phần con, con đã soạn xong một tiểu luận về chính tả và các thanh điệu của ngôn ngữ này, và con đang lao vào ngữ pháp. Tuy nhiên, dù con đã tập hợp các truyện thuộc nhiều loại khác nhau để cung cấp các trích dẫn của tác giả nhằm củng cố ngữ nghĩa của các từ và các quy tắc của ngữ pháp, cho đến bây giờ con phải nhờ ai đó đọc các từ đó cho con. Con phiên âm theo chữ Bồ Đào Nha sao cho người của chúng ta có thể đọc và học các từ đó thuộc lòng như học Cicéron và Virgile vậy. Vả lại con đã có ba tập, tập hợp các văn bản có phân tích trong số các văn bản hay nhất ở vương quốc này.

Cuốn ngữ pháp và ba tập, tập hợp các văn bản có phân tích trong số các văn bản hay nhất ở xứ Đàng Trong của Pina đến nay vẫn chưa được tìm thấy, hy vọng một ngày nào đó, hai tài liệu quý hơn vàng này sẽ được phát hiện để chúng ta có thể biết rõ hơn về chữ Quốc Ngữ vào cái buổi bình minh của nó và qua đó công lao của Pina có thể được nhìn nhận đầy đủ và đúng đắn hơn.

Xin nói thêm, mặc dù đã cố gắng chứng minh tiểu luận Nhập môn tiếng Đàng Ngoài là của Pina, nhưng vì tài liệu này không có người ký tên ở dưới, thế nên cho đến nay Roland

Jaques vẫn bị Nguyễn Khắc Xuyên hoài nghi về tính chính xác của nó. Tác giả Hồng Nhuệ cho rằng chính giáo sĩ Onofre Borgès (còn được chép với tên Onófrio hay Onuhpre) mới là tác giả của cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài chứ không phải Pina. Nhưng trong luận văn của mình, Roland Jaques đã chứng minh Onofre Borgès không phải là tác giả của tác phẩm Nhập môn tiếng Đàng Ngoài: Onofre Borgès, là tên mang âm sắc Bồ Đào Nha, nhưng dưới cái tên này ẩn giấu tên nguồn gốc hơi khác, có thể là Honufer (Onuphrius) Bỹrgin… Ông sinh ở Lucerne vào năm 1614, năm 1630 ông vào dòng Tên miền thượng nước Đức. Có thể là ông đã giảng dạy trong các lớp tiểu chủng viện Innsbruck của dòng Tên ở Tyrol. Đi sang phương Đông năm 1638, đã kết thúc việc nghiên cứu của mình ở Học viện Ma Cao. Rồi ông dạy ngữ pháp có thể là trong ba năm ở đó. Tiếp theo ông sang làm việc ở Tonkin (Đàng Ngoài) từ 1645; bị trục xuất năm 1663 trên một con tàu của Hà Lan. Ông chết khi đến Jakarta. Trong tài liệu lưu trữ của dòng Tên có bức thư ngày 30-7-1654 cũng như 3 báo cáo thường niên về giáo đoàn ở Tonkin; 1650, 1660 và 1661. Ông đã cộng tác chuẩn bị một vài báo cáo khác. Các hoạt động ngôn ngữ của ông không được ghi chép rõ ràng. Rõ nhất là việc ông viết vài văn bản tiếng Việt và chữ Nôm. Có thể là cùng một nguồn cảm hứng như các văn bản được biết rõ là của giáo sĩ Dòng Tên Majorica. Những năm cuối cùng của ông từ 1658 thật là vất vả. Phần lớn các nhà truyền giáo bị trục xuất. Borgès đã được phép của chúa Trịnh ở lại đất nước để đảm trách việc thờ phụng của toàn bộ các cộng đồng công giáo Thăng Long và Nghệ An. Ông kiệt sức vì công việc. Toàn bộ công trình ngôn ngữ vậy phải làm trước năm 1658.

Rất có thể Tissianier đã mang đến một bản từ điển của Rhodes vừa mới in năm 1651, nên nếu Borgès tiếp tục công việc về ngôn ngữ cũng là thừa. Về vấn đề ai là tác giả của cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài, có lẽ Roland Jaques chính xác hơn Hồng Nhuệ. Cuốn tiểu luận của Pina về chính tả và các thanh điệu Tiếng Việt, có tên Manuductio ad Linguam Tunkinensem Nhập môn tiếng Đàng Ngoài. Đây là một tiểu luận bằng La ngữ và Quốc ngữ dài 22 trang chép tay, có bố cục rõ ràng, gồm ba chương: Về các thanh điệu, Về các con chữ và bảng chữ cái và Về các danh từ, tài liệu được bổ sung thêm các phần Đối thoại, Quán ngữ, Lăng mạ… Đây rõ là một tác phẩm đang viết dở dang: Toàn bộ gây cho ta ấn tượng mạnh là công việc còn bỏ dở. Dường như tác giả lúc đầu muốn soạn một tác phẩm đầy đù, nhưng cuối cùng do thiếu thời gian phải thu hẹp việc triển khai và kết thúc bằng cách ghi lung tung trên giấy các nhận xét khác nhau.

Trong tác phẩm Nhập môn tiếng Đàng Ngoài, phương pháp ký âm Tiếng Việt có những tiến bộ lớn, hơn cả cách phiên âm của các giáo sĩ Gaspar do Amaral, António de Barbosa và Đắc Lộ , bởi nó rất giống với chữ Quốc Ngữ hiện đại một cách đáng ngạc nhiên và đáng khâm phục. So với từ điển Việt-Bồ-La năm 1651 thì phương pháp ký âm mới có phần tân tiến hơn: Kẻ có tài thì haọc → Kẻ có tài thì học; Thàng nào lành thì dĕạy → Thằng nào lành thì dạy. Hôm qua tôi mạc chép thư → Hôm qua tôi mắc chép thư, Nói chảng được → nói chẳng được

Roland Jaques nghĩ rằng sau khi Pina mất đi thì giáo sĩ Đắc Lộ đã mang công trình của thầy mình ra Đàng Ngoài vào năm 1627 rồi trao cho giáo sĩ Gaspar do Amaral [105]. Về sau, tài liệu này rơi vào tay Onofre Borgès. Có lẽ, tiểu luận này được Borgès hiệu chỉnh đôi chút và đặt tên cho nó là Nhập môn tiếng Đàng Ngoài. Sau Pina, các giáo sĩ Gaspar do Amaral, António de Pina Barbosa, Girolarmo Majorica và Đắc Lộ tiếp tục công việc nghiên cứu và hoàn thiện chữ Quốc Ngữ. Năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ chuyển ra một trú sở truyền giáo tại Cửa Bạng (nay là Lạch Bạng, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) và mang theo tất cả công trình dở dang của Pina rồi trao lại cho Gaspar do Amaral và António de Pina Barbosa [106]. Nhờ thế, Gaspar do Amaral đã hoàn thiện cuốn từ điển Việt – Bồ và António de Pina Barbosa soạn xong cuốn từ điển Bồ – Việt vào khoảng năm 1635-1640.

Trong thời gian ở Đàng Ngoài, hai tài liệu viết tay quý giá có liên quan đến chữ Quốc Ngữ mà Gaspar do Amaral để lại là bức thư bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ (Thăng Long) đề ngày 31/12/1632, nhan đề Annua do reino de 1632, pera o Pe André Palmeiro da Compa de Pina Jesu, Visitador das Provincias de Pina Japan, e China Báo cáo thường niên về nước Annam năm 1632, gởi cha dòng Tên André Palmeiro, giám sát các tỉnh ở Nhật và Trung Hoa, tài liệu này hiện lưu trữ tại Thư khố dòng Tên ở La Mã. Và tài liệu thứ hai là bức thư cũng bằng Bồ ngữ viết tại Kẻ Chợ (Thăng Long) đề ngày 25/3/1637, với nhan đề: Relaçam dos catequistas da Christamđae de Pina Tunkine seu modo proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Pina Jappão de China Tường trình về các thầy giảng của giáo đoàn Đàng Ngoài về các hoạt động của họ, gởi cho cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa, tài liệu này hiện giữ tại Thư khố Viện hàn lâm lịch sử Hoàng gia Madrid.

Trong cả hai tài liệu, mà rõ nhất là tài liệu thứ hai, cho thấy Amaral đã soạn cuốn từ điển Việt – Bồ: Diccionário amanita – português. Về sau cả hai cuốn từ điển Việt – Bồ và Bồ – Việt đầu tiên của hai giáo sĩ Amaral và Barbosa đều rơi vào tay Đắc Lộ.

Cũng vào khoảng thời gian đó, tại trú sở Nước Mặn (Qui Nhơn) và Cửa Bạng (huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa), giáo sĩ Girolarmo Majorica cũng cho ra đời khoảng 48 văn liệu Thiên Chúa giáo (sách dạy giáo lý) bằng chữ Nôm như Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh, Thiên Chúa Thánh Mẫu, Thiên Chúa Thánh Giáo Khai Mông, Kinh Những Mùa Lễ Phục Sinh…

Linh mục Girolarmo Majorica sinh tại Napoli, Italia, vào dòng Tên năm 1605, sang Ấn Độ năm 1619, và từ đó ông sang Macao, rồi đến Thanh Chiêm năm 1624 cùng với giáo sĩ Đắc Lộ và vài giáo sĩ khác. Nhưng Girolarmo Majorica chỉ ở Thanh Chiêm một thời gian ngắn rồi chuyển vào Quy Nhơn. Trong 5 năm ở Nước Mặn, ông học được tiếng bản xứ. Năm 1629, ông bị trục xuất ra khỏi Đàng Trong và đến truyền giáo tại Đàng Ngoài (trú sở Cửa Bạng) năm 1631. Ông mất năm 1656. Trong tác phẩm Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học, Jaques nói đến vai trò của các giáo sĩ người Ý khi viết: Người Ý duy nhất có đóng góp đáng kể vào chữ Quốc Ngữ là Girolarmo Majorica, đến Cochinchine (Đàng Trong) vào năm 1624, cùng với chuyến tàu với Alexandre de Rhores. Nhưng trong khi Rhodes là một tên tuổi trong lĩnh vực từ vựng và ngữ âm thì Girolarmo Majorica hoàn toàn dồn sức vào việc sáng tạo văn học Công giáo bằng chữ Nôm.

Việc Girolarmo Majorica có thể sáng tạo văn học Công giáo bằng chữ Nôm rõ ràng cho thấy vị giáo sĩ này thông thạo Tiếng Việt, vừa biết chữ Nho lẫn chữ Nôm, do đó đóng góp của ông vào việc sáng tạo chữ Quốc Ngữ là to lớn. Bởi chữ Quốc âm khó đến như thế mà ông còn có thể viết được thì hẳn phải biết cách dùng các mẫu tự Latinh để phiên âm Tiếng Việt.

Bài viết Khai Sinh Quốc Ngữ bày tỏ hai tài liệu mà không có dẫn chứng lịch sử. Có một giáo sĩ người Ý nữa mà Roland Jacques cho là chỉ có vai trò thứ yếu trong việc sáng tạo chữ Quốc Ngữ là Cristoforo Borri. Jaques viết: Cristoforo, thường hay được các tác giả hiện đại nhắc tới thì thời gian ở Việt Nam quá ngắn (1618-1621) để có thể gán cho ông một vai trò quan trọng và ông quan tâm đến những vấn đề khác khá xa với ngôn ngữ học.

Hãy xem Borri viết (không có dẫn chứng): Tiếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có biến cách các danh từ nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay thế cho tất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động từ này như sau: tôi có, anh có, nó có. Họ chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ các thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi đã có; về thì vị lai: tôi sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, động từ không bao giờ thay đổi. Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần, tôi đã học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải tội, tuy chưa được tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn.

Borri biết công trình nghiên cứu Tiếng Việt mà Pina đang theo đuổi, nên có thể Borri đã hỗ trợ Pina một tay. Để chứng minh điều này (dẫn chứng?), ta có thể xem chữ Ciam, gno, scin mà Borri dùng để phiên âm từ Chiêm, nhỏ, xin cho thấy có dấu vết của các phụ âm ci, gn, sc trong tiếng Ý. Về sau các phụ âm ci, gn, sc đều được ghi theo gốc Bồ Đào Nha ngữ, ci -> ch; gn -> nh-; sc -> x. Như vậy, đã xuất hiện sự cạnh tranh giữa hai cách phiên âm, hoặc theo Ý ngữ hoặc theo Bồ ngữ. Nhưng hai tự vị và hai phụ âm trong chữ Quốc Ngữ hiện đại như ghe, ghi và gi vẫn còn giữ nguồn gốc từ tiếng Ý. Ai trong các giáo sĩ người Ý, Borri hay Majorica, đã đưa những tự vị và phụ âm này vào chữ Quốc Ngữ, đến nay vẫn chưa xác định được. Hết trích giải.

Trong sách L’origine des particularités de l’alphabet vietnamien, André-Georges Haudricourt, Nguồn gốc những nét đặc sắc của bảng chữ cái tiếng Việt; bản dịch Anh ngữ có viết: The voiced dorsal raised a similar issue: GA, GÔ, GU [for Vietnamese /ɣa/, /ɣo/, /ɣu/], but GHÊ and GHI [for /ge/ and /gi/, present-day /ɣe/ and /ɣi/] and not GÊ and GI; one could not use the combinations GUÊ and GUI, which were used in the case of a labiovelar initial, whereas the Italian notation could be used, hence GHÊ, GHI. Âm lưng hữu thanh đưa ra một vấn đề tương tự: GA, GÔ, GU [cho /ge/ and /gi/, hiện đại /ɣe/ and /ɣi/], nhưng GHÊ và GHI [cho /ge/ và /gi/, /ɣe/ ngày nay /ɣi/] chứ không phải GÊ và GI; người ta không thể sử dụng sự kết hợp GUÊ và GUI, được sử dụng trong trường hợp chữ cái đầu môi môi, trong khi ký hiệu tiếng Ý có thể được sử dụng, do đó GHÊ, GHI.

Về phần mình, nhà sử học Dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi là người tạo ra ngữ pháp và từ vựng. Ông dựa trên một bức thư từ năm 1622 mà hiện nay chưa thể tìm thấy. Không phải là không thể có sự nhầm lẫn với Pina trong trường hợp này. Tổng quát hơn, những khẳng định của Bartoli liên quan đến kiến thức ngôn ngữ xuất sắc của người đồng hương Buzomi của ông không được chứng thực bằng các tài liệu lưu trữ tham khảo. Cũng cần lưu ý rằng Bartoli, người dường như phớt lờ những sáng tạo ngôn ngữ của Pina, tuy nhiên vẫn phải công nhận kỹ năng của Cha Pina. Trong bài diễn văn tang lễ sau cái chết của nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha xảy ra vào ngày 15 tháng 12 năm 1625, ông viết: Cha Pina là người Bồ Đào Nha, bốn mươi tuổi. Ông cũng được người ngoại yêu quý vì ông nói ngôn ngữ của họ như thể ông là người sinh ra ở Đất Nam Kỳ [107]. Năm 1624, Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt đầu tiên cho người nước ngoài, với hai học viên chính: Antonio de Fontes [108] người Bồ Đào Nha, một cựu chiến binh và là một trong những trụ cột của phái bộ Nam Kỳ; và Alexandre de Rhodes, người mà sau này sẽ sớm được triệu tập để thành lập phái bộ Bắc Kỳ, nơi ông sẽ phục vụ từ năm 1627 đến năm 1630.

Xem thư của Manoel Fernandes gửi Nuno Mascarenhas, ngày Faïfo 2.7.1625: ARSI, Jap.-

Sin. 68, 11-12 : Fica acomodadahuâ casa em Cachaô corte do principe, que ategora naô estaua em ordera de casa da Compa, inda que sempre la residia hû P* com seu companheiro, nella fica agora P° F° de Pina ensinando a lingua aos V” Alex’ Rodes, e Ant° de Fontes… Một ngôi nhà tôn giáo đã được tổ chức ở Cachâo, thủ đô của Hoàng tử; không được tính trong số lượng các ngôi nhà khác của Nhà Dòng, mặc dù một linh mục luôn cư trú ở đó cùng với người bạn đồng hành. Bây giờ, Cha Francisco de Pina sống ở đó và dạy ngôn ngữ cho các Cha Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes. Ảnh trên Việt Bồ La với vần gh.

Ngày 15/12/1625, một tàu Bồ Đào Nha thả neo ở vịnh Đà Nẵng, không cập bến do nguy cơ bão. Một chiếc thuyền rời bến để gặp, Pina lên đó để mang về bờ những nhu yếu phẩm cơ bản: rượu và bột mì để cử hành thánh lễ. Trên đường về, một cơn gió mạnh khiến thuyền bị lật. Bị vướng vào chiếc áo choàng của mình, Pina chết đuối, trong khi những người còn lại được cứu. Đó là một sự thương tiếc lớn lao đối với người dân địa phương cũng như đối với phái bộ truyền giáo; một sắc lệnh trục xuất các nhà truyền giáo đã bị đình chỉ để cử hành ba tháng tang lễ, rồi cuối cùng bị hủy bỏ.

Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes Ảnh Internet

Sẽ là sai lầm nếu tin rằng sau cái chết bi thảm Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã giảm bớt sự đầu tư vào sứ mệnh ngôn ngữ của họ. Công việc tiên phong sau đó được tiếp tục trong ít nhất hai thập kỷ. Nỗ lực này trước hết tập trung vào việc tạo ra vốn từ vựng Kitô giáo và vào việc viết ra những yếu tố đầu tiên của văn thư Kitô giáo [109]. Vai trò của các học giả Thiên chúa giáo Việt Nam rất đáng kể; tên mà tên của họ xứng đáng được cứu thoát khỏi sự lãng quên của lịch sử.

Đồng thời, việc phân tích ngữ pháp và ngữ âm, analyse grammaticale et phonétique, của ngôn ngữ được tiếp tục một cách có hệ thống, giúp dần dần phát triển lối viết La Mã, được gọi là quốc ngữ. Đây là công việc tập thể, khó có thể phân biệt được phần trách nhiệm của mỗi người. Nhưng điều chắc chắn là Alexandre de Rhodes nhanh chóng nhận thấy mình bị gạt ra ngoài, lý do phải sống lưu vong ở Macao từ năm 1630 đến năm 1640: tại đây Cố thực hiện chức vụ của mình trong môi trường Trung Quốc, tuy ngay cả khi ông tiếp tục cập nhật những tiến bộ đã đạt được ở Việt Nam. Bản thân ông trong lời tựa của từ điển Việt-Bồ-La, đã cho chúng ta biết tên của hai nhà từ điển học lỗi lạc nhất người Bồ Đào Nha: Gaspar do AmaralAntonio Barbosa.

Gaspar do Amaral (hay de Amaral), sinh năm 1594 tại Curvaceira (ngày nay là Freguesia de Châo de Tavares gần Mangualde, quận Viseu), gia nhập Công ty Dòng Tên vào năm 1607. Đầu tiên là giáo viên ở Braga, Coimbra và Évora, ông rời đến Phương Đông năm 1623. Ông được cử đi sứ mệnh Bắc Kỳ từ năm 1629 đến 1638, ở đó tổng cộng bảy năm trong hai lần lưu trú. Sau đó ông phục vụ ở Macao với tư cách là hiệu trưởng, phó tỉnh, rồi giám sát visiteur các cơ quan truyền giáo. Ông qua đời vào tháng 2 năm 1646, trên bờ biển Hải Nam, trong một vụ đắm tàu đưa ông trở về Bắc Kỳ. Khi qua đời, ông được coi là chuyên gia Dòng Tên lớn lao nhất về tiếng Việt. Antonio Barbosa, sinh năm 1594 tại Arrifana do Sousa (ngày nay là Penafiel phía đông Porto), gia nhập Công ty ở Lisbon vào năm 1624 và rời đi ngay sau đó để đến Phương Đông. Năm 1629, ông được cử đi truyền giáo Nam Kỳ, rồi năm 1636 đi truyền giáo Bắc Kỳ. Năm 1642, bệnh tật buộc ông phải trở về Ma Cao, rồi đến Goa, nơi ông qua đời năm 1647.

Dựa trên kho lưu trữ, Roland Jacques nêu ra một biến cố khá đặc biệt [110] chứng minh; cho thấy kiến thức của Rhodes vào buổi bình minh của chữ quốc ngữ ra đời, còn hạn chế so với kiến thức của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha. Trong tác phẩm sáng tạo độc đáo của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha tại Việt Nam, giai đoạn trưởng thành được đánh dấu bằng một cuộc tham vấn, một cuộc tranh luận về ngôn ngữ trái ngược nhau, débat lingustique contradictoire, được tổ chức tại Macao vào năm 1645, hơn 20 năm sau khi Cố Pina đã hoàn thành việc phát triển hệ thống phiên âm, để thảo luận về một vấn đề gây tranh cãi về thuật ngữ Kitô giáo trong tiếng Việt. Tài liệu lưu trữ lưu giữ tên của các chuyên gia nòng cốt của các cuộc tranh luận: cùng với Amaral, được chỉ định là peritissimus chuyên gia đầu não, và Barbosa, ta tìm thấy Baltazar Caldeira, người gốc Ma Cao; cũng như Manuel Pacheco và Pêro Alberto, cả hai đều là người bản xứ Ma Cao Bồ Đào Nha. Đối diện, ủng hộ một quan điểm đối lập, Alexandre de Rhodes đơn độc; ý kiến của ông đã bị từ chối. Bất chấp sự ủng hộ nhiệt tình sau đó dành cho vị trí của ông bởi một tu sĩ trẻ Dòng Tên người Sicilia, Metello Saccano, quyết định vẫn được giữ nguyên bản Bồ.

Trên thực tế, vấn đề này đã không được hội nghị năm 1645 kết luận. Được mang đến Rome theo sáng kiến của Rhodes, nó đã được xem xét vào những năm 1650 trước Bộ truyền giáo Đức tin rồi trước Văn phòng Thánh [111] Propaganda Fide & le Saint-Office. Vào dịp này có một lá thư rất kỳ lạ của tu sĩ Dòng Tên người Ý Giovanni Filippo Marini gửi cho bề trên La Mã của ông về vụ việc thảo luận, năm 1655. Tác giả gây thêm tranh cãi, đặt câu hỏi mạnh mẽ về năng lực của Rhodes trong vấn đề quốc ngữ. Cần lưu ý Marini có xu hướng loại Rhodes, do thực tế là ngài nói thổ ngữ Nam Kỳ, vốn là Boeotian, liên quan đến Boeotia hoặc cư dân bên Hy Lạp, u mê; không có sự tinh tế về văn hóa; so với ngôn ngữ tiêu chuẩn của thủ đô; chính lối nói miền Nam này cũng là cách đánh vần sai lầm của Từ điển Việt Bồ La, đại diện cho một số trường hợp. Nhưng gốc rễ của câu hỏi không có ở đó, nó liên quan đến ý nghĩa chính xác của cụm từ Hán Việt Nhin Nhân Danh [112] (không hàm ý thổ ngữ) trong Phép rửa [113] Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo và sau đó với Kinh Dấu Thánh Giá [114], tuyên dương Nhất Vị Tam Thánh Thể.

Dựa vào các tài liệu viết tay của linh mục Đắc Lộ từ năm 1625-1644, nhất là nếu chỉ hạn định đến năm 1636, chúng ta biết được trong thời gian trên, ông ghi chữ quốc ngữ khác nhiều, trình độ thấp kém hơn so với hai cuốn sách của ông được ấn hành năm 1651. Chẳng hạn tài liệu viết tay Alexandre de Rhodes khi tường trình về cái chết của thầy Anrê Ranran (Phú Yên): Oúngebo, Oũghebo (Ông nghè bộ), giũ nghiã cũ đ Chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy (giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời).

Linh mục Đỗ Quanh Chính, sđd trang 88, phân tích 2 bản tường trình của Amaral gửi Bề trên dòng Tên nhưng năm 1632, 1637 cho thấy chữ quốc ngữ có nhiều dấu phân biệt âm sắc. Ngài còn soạn thảo Từ điển Việt Bồ. Nếu đem so sánh thời gian thì Ngài mới ở 28 tháng rưỡi ở Đàng Ngoài. Thật ra Amaral đã ở Đàng Trong lén lút học Tiếng Việt để ra Đàng Ngoài làm việc. Để tránh rắc rối chính trị về sau, việc nầy được giữ kín.

Năm 1645, một văn bản viết tay có ghi nhiều chữ quốc ngữ cuộc tranh luận về mô thức Rửa tội, chép lại năm 1654 do Filippo de Marini, người Ý. Qua đó được biết, 36 giáo sĩ dòng Tên họp nhau tại Macau để thảo luận về mô thức Rửa tội bằng tiếng Việt, đã để lại một biên bản quan trọng nhờ đó có thể biết thêm về tình trạng ghi âm tiếng Việt. Trong đó có mấy câu :

Tau rữa mầi nhân danh Cha, ùa con, ùa Spirito Santo trong trang một. Sang trang hai : Taũ rữa mầi- Taì lấy tên- Taũ lấỹ tên Chúa – Tốt lên, tốt danh, tốt sáng – Danh cha cả sáng. Trang ba : Blai có ba hồn bảy vía – Chúa Blờy ba ngôi. Trang bốn : Nhẫn danh Cha ùa con.. Trang bảy : Sóư ( sống), Cha ruột con ruột. Tài liệu đó cho thấy có nhiều tiến bộ. Đã ghi âm đủ năm dấu : Sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Có dấu hai chấm trên chữ u, i, y. Thêm các dấu : ă, â, ơ, ô, ư, ê. Có các nguyên âm kép : au, ưa, âi, ua, ia, ơỹ, oư, uô và các phụ âm kép : nh thay cho gn. ch thay cho ci, ng thay cho mgn … Có 31 vị đồng ý công thức “Tau rữa mầi, nhần danh cha, ùa con, ùa spiritu santo”. Hai vị trung lập. Linh mục Đắc Lộ và Metellus Saccano cực lực phản đối.

Điểm ngạc nhiên, các âm trong công thức Rửa tội, Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo, khác với cách viết trong từ điển Việt-Bồ-La. Dưới đây Bảng chữ cái quốc ngữ thời Đắc Lộ, nguồn Wikipedia.

Và Từ điển Việt Bồ La:

– trang 724 Chữ tao ego, nói mầy tao fallar desprezando aos ottros nói chuyện khinh thường người khác,

–   trang 728 không có chữ tau,

–   trang 658 Chữ rửa lavar. Không thấy chữ rữa,

–   trang 448 Chữ mầi tu, fallando com gente inferior nói chuyện khinh thường người khác,

–   trang 552 Cụm nhin danh cha em nome do padro, không viết nhân danh cha,

– trang 853 Chữ ùa e, juntamente, và cả hai ambos de duos, và cả nhà toda a caza, và cả thien hạ todo o mudo.

Boeotian ở đây của Giovanni Filippo Marini tức thô kệch. Hai tác giả Đinh Trọng Tuyên và Đinh Bá Truyền, trong nghiên cứu Khai sinh chữ Quốc Ngữ, cho biết những chi tiết về tiếng Việt Quảng thô kệch của Đắc Lộ, tuy chúng ta không kiểm chứng được. Xin sao lục vài đoạn xem như là giai thoại.

Chương 2, đoạn 2,3. Những nhà thừa sai tiên phong đến xứ Đàng Trong để truyền đạo và học Tiếng Việt, thổ ngữ Quảng Nam chính là âm sắc ban đầu mà các vị này dựa vào để ký âm Tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Pina đã đến Hội An và Thanh Chiêm, Pina học Tiếng Việt với một thầy phụ lễ Nho sĩ trẻ tuổi tên là Phêrô. Khi Đắc Lộ đến Thanh Chiêm, ngoài việc học Tiếng Việt với Pina, còn học thêm ngôn ngữ này với một cậu bé giúp việc trẻ tuổi có tên thánh tẩy là Raphaen (Raphael). Qua việc học ngôn ngữ bản địa với những thanh niên trẻ ở Thanh Chiêm, chắc chắn (?) Pina và cả Đắc Lộ đều nói Tiếng Việt theo cách phát âm của cư dân Thanh Chiêm, nơi mà người ta nói tiếng Quảng một cách thuần khiết nhất.

Trở lại cuộc hội nghị vào năm 1645 tại Macao để định chuẩn mô thức rửa tội bằng tiếng Annam, biên bản hội nghị viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, mở đầu với nhan đề: “Manoscitto, em que se proue, que a forma do Bauptismo pronunciada em lingoa Annamica he verdadeira” (Đỗ Quang Chính dịch là,

Bản viết chứng minh mô thức Rửa tội phải đọc trong tiếng Annam chính thực). Câu khẩu ngữ bằng tiếng Annam dùng để đọc khi làm lễ rửa tội, mà thực sự là tiếng Quảng Nam, được hội nghị thông qua như sau: “Tau rữa mâi nhân danh Cha ùa Con, ùa spirito santo

Câu khẩu ngữ mô thức rửa tội trên đây, theo Đỗ Quang Chính, là tài liệu cổ vào bậc nhất về giai đoạn thứ hai trên lịch trình tiến hóa của chữ Quốc Ngữ. Cũng theo Đỗ Quang Chính, câu khẩu ngữ trên được đọc là “Tao rửa mày nhân danh Cha và Con, và spirito santo”. Nghiên cứu câu khẩu ngữ bằng tiếng Annam đã được hội nghị tại Ma Cao thông qua ta thấy có bốn âm tiết mang khẩu âm Quảng Nam chính hiệu, đó là Tau, mâi, rữa và ùa. Âm tiết Tau (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất), cũng giống như Tui, chắc chắn là một hình thái chủ âm của tiếng Quảng Nam, của người Kẻ Chiêm, nó hoàn toàn khác với cách phát âm của người Kẻ Chợ (Thăng Long) là Tao. Trong tiểu luận Những chặng đường của chữ Quốc Ngữ, linh mục Thanh Lãng cho rằng Đắc Lộ chưa phân biệt vần –au với vần –ao.

Âm tiết rữa được ký âm với dấu ngã, Đỗ Quang Chính cho là rửa với dấu hỏi, thật ra các giáo sĩ dùng dấu ngã là chính xác bởi người Thanh Chiêm không phát âm đúng dấu hỏi và dấu ngã (hoàn toàn chỉ có dấu ngã). Cuối cùng, âm tiết ùa, Đỗ Quang Chính cho ùa là và là đúng nhưng chưa chính xác, bởi ở Thanh Chiêm ngày nay, dân làng vẫn nói đi uề thay vì đi về, ùa cơôm thay và cơm. Ý kiến: Trong Việt Bồ La viết bua là vua và ai là vai. Xem bảng chữ cái b đuôi ở trên, Unicode +A797 tượng trưng cho âm /β/, giống chữ “v” trong tiếng Tây Ban Nha. Hết chuyện vớ vẩn Thanh chiêm!

Trong Phép Rửa, Nhin danh [Cha…]: Nhân danh [Cha…]. Điều này theo Cố Đắc Lộ, có thể mơ hồ về mặt thần học vì thiếu dấu hiệu cho số ngữ pháp số ít. Rhodes yêu cầu bổ sung, kẻo chúng ta tưởng tượng ra ba cái tên, và do đó có ba thế lực siêu nhiên riêng biệt; trong trường hợp này, chúng sẽ nằm ngoài giáo điều Cơ đốc giáo, và như thế sẽ phải xem xét việc rửa tội lại cho tất cả những người theo đạo Cơ đốc.

Dấu Thánh Giá ngắn gọn và đơn giản, Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen. Tuy nhiên khi cần phải giải thích thì không ít người trong chúng ta gặp khó khăn. Thật ra việc tuyên xưng một Chúa Ba Ngôi có lẽ ai cũng hiểu, nhưng khi được hỏi về cụm từ nhân danh khởi đầu Dấu Thánh Giá thì có lẽ không ít người trong chúng ta tránh khỏi lúng túng.

Từ điển Việt-Bồ-La có mục từ nhin danh cha nghĩa là nhân danh cha, Rhodes vẫn giữ định kiến của mình, ghi chú thêm hồ nghi không biết có cùng một nghĩa với ‘in nomine patris’? tác giả để nguyên gốc từ Latinh để không làm sai đi ý Thần Học của từ ấy. Trong Từ điển Việt-Bồ-La còn có mục từ danh nghĩa là tên. Tuy nhiên nếu kết hợp với Tự vị Annam Latinh của Bá Đa Lộc thì chúng ta sẽ thấy cụm từ này sáng rõ hơn, có nhiều mục từ là phương ngữ Đàng Trong, nhơn” (phương ngữ Đàng Trong) tương ứng với từ nhân (ngôn ngữ toàn dân) nghĩa là vì, bởi vì; cụm từ “nhơn danh” (phương ngữ Đàng Trong) tương ứng với cụm từ “nhân danh” (ngôn ngữ toàn dân) nghĩa là “vì tên.” Từ “nhơn danh” cũng chính là từ “nhân danh” trong công thức Dấu Thánh Giá chúng ta đang tìm hiểu, nghĩa là “vì tên, vì danh”[115]   

Cần lưu ý rằng công thức Rửa tội, được các chuyên gia tư vấn, tất cả đều là người Bồ Đào Nha, giữ lại vào năm 1645, vẫn được sử dụng cho như bản gốc EGO TE BAPTISO IN NOMINE PATRIS ET FILII ET SPIRITUS SANCTI, đến ngày nay trong Giáo hội Việt Nam. Giáo hội công giáo áp dụng công thức trên, thêm 3 chữ Chúa; T… (Cha, tôi) rửa (anh, chị, con…) Nhân Danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Chúng ta có thể thắc mắc tại sao lịch sử lại lưu giữ rất ít những sự kiện trên đây, đến mức đôi khi coi sự hiện diện và hành động của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha ở Việt Nam là số lượng không đáng kể. Hình ảnh quốc tế của Bồ Đào Nha ngày nay chắc chắn đã bị mất giá rất nhiều; từng là một cường quốc tầm cỡ thế giới, đất nước này gần như trở thành Cô bé Lọ Lem của Tây Âu. Vào năm 1653, tu sĩ Dòng Tên người Ý Daniello Bartoli đã trao cho cơ quan kiểm duyệt của Tu hội Chúa Giêsu một tập sách lớn về lịch sử truyền giáo ở Trung Quốc, đây cũng sẽ là tác phẩm kinh điển vĩ đại đầu tiên về việc truyền giáo ở Việt Nam [116]; hai trong số ba người kiểm duyệt sau đó đã chỉ trích Bartoli, vì thành kiến chống người Bồ Đào Nha.

Chúng ta tìm thấy phản ứng tương tự trong biên bản các bức thư của Goswin Nickel, Tổng Giám đốc Dòng Tên, gửi từ năm 1655 đến 1662 cho các tu sĩ Dòng Tên Ý và Pháp ở Việt Nam và Viễn Đông, tỏ ra bị sốc trước các cuộc tấn công có hệ thống của các phóng viên chống lại người Bồ Đào Nha, phương pháp và thành tích của họ. Cha Nickel nói: bạn có quyền tố cáo lỗi lầm của người này hoặc người kia, nhưng không thể chấp nhận được việc hạ thấp uy tín tổng thể của một quốc gia [117].

Từ hai sự thật này, phải so sánh hai dữ liệu lịch sử nổi tiếng khác. Các nhà truyền giáo ở Paris và các vị đại diện tông tòa được Tòa thánh cử đến Việt Nam từ năm 1659 chỉ có thể thiết lập quyền lực của họ ở đất nước này với cái giá là một cuộc đấu tranh lâu dài và cam go chống lại Dòng Tên, giáo sĩ Bồ, hi chống lại họ dưới danh nghĩa gần như lòng trung thành không ngừng với sự bảo trợ của vương miện Bồ Đào Nha. Khách quan, có vẻ như, trong cơn tranh cãi gay gắt và sau đó, nhiều phán quyết không công bằng đã được đưa ra, thật quá dễ để viện dẫn sự kém cỏi về mặt pháp lý hoặc sự kém cỏi của những người đến đầu tiên, hoặc phóng đại những thiếu sót của họ, để biện minh cho sự can thiệp độc đoán của những người đến sau. Ở trên, đã đề cập đến vai trò đặc biệt của Pháp ở Việt Nam hai thế kỷ sau, bằng cách tìm kiếm những tiền lệ xa xưa của hoàng tráng của Pháp, nơi việc truyền giáo, chinh phục quân sự và thuộc địa trộn lẫn với nhau, ta tìm thấy một số nguồn gốc vào năm 1624, ngày Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, một dấu hiệu tiền định về vai trò mà Pháp và người Pháp được kêu gọi đảm trách quá khứ đất nước này. Nếu tưởng Đắc Lộ là công dân Pháp, và có ý tưởng thực dân, từ thế kỷ 17.

Lấy tỷ dụ A. THOMAZI, trong La conquête de l’Indochine Cuộc chinh phục Đông Dương, Paris, Payot, 1934, tr. 13: Ở An Nam cũng như ở Xiêm, những người Pháp đầu tiên chúng tôi gặp là các nhà truyền giáo. Cha Alexandre de Rhodes đến Nam Kỳ năm 1624, sống 25 năm ở đất nước này và ở Bắc Kỳ (sic); ông đã mang về tấm bản đồ đầu tiên của đất nước, một cuốn từ điển An Nam-Latin-Bồ Đào Nha, lịch sử Bắc Kỳ, và chỉ ra những khả năng sẵn có để buôn bán. Có một nơi ở đó,và bằng cách thành lập chính mình, các thương gia châu Âu có thể tìm thấy ở đó một nguồn lợi nhuận và sự giàu có dồi dào. Thomazi đề cập trong một ghi chú, kèm theo chỉ dẫn của trang, về tác phẩm của hồi ký các chuyến đi của Alexandre de Rhodes (được trích dẫn và bàn luận ở trên); nhưng câu trích dẫn này, dịch qua Việt ngữ một cách sai lầm của Nguyễn Khắc Xuyên, thường được nhắc đến và bình luận hàm hồ trên các ấn phẩm của nước Việt Nam Cộng sản, dường như chỉ là một phát minh của Thomazi mà thôi. Xem Vương Đình Chi, Một ngộ nhận về Alexandre de Rhodes, Công giáo và Dân tộc (Thành phố Hồ Chí Minh), số 901, 4.4.1993, tr. 18-19.

Từ năm 1654, năm năm trước khi kết thúc, các cuộc đàm phán liên quan đến tương lai của phái bộ truyền giáo ở Việt Nam đã thoát khỏi tay Rhodes: việc bổ nhiệm các giám mục cho Việt Nam, ủy ban đầu tiên được Dòng Tên giao phó cho ông khi khởi hành từ Macao, do đó đã được giải quyết giữa với nhau trong hội thánh Vatican. Bản thân ông bị bỏ rơi, déchu, không đươc ở Rome, đã được gửi đến Ba Tư để truyền giáo và mất ở đó. Xem Lucien Campeau, Le voyage du Père Alexandre de Rhodes en France 1653-1654 Chuyến hành trình của Cha Alexandre de Rhodes ở Pháp, trong Archivum Historicum Societatis Iesu 48, 1979, p. 65-85, với các tài liệu lưu trữ được trích dẫn.Thực dân Pháp khi đô hộ Việt Nam, đưa Kitô giáo với hàng giáo sĩ, lẫn lộn, vào chính quyền và chính sách cai trị, tàn sát man rợ, vô hình chung đã mặc lên Cố Đắc Lộ của hai thế kỷ trước, một y phục lông lá xấu xa.

Trên Bia đá tưởng niệm chính phủ bảo hộ ghi: Người truyền giáo có kết quả lớn-lao sau muốn bảo-tồn cái kết quả ấy và muốn dựng nên thánh-giáo chắc-chắn cho giáo-đồ Việt-nam. Người được phép Toà-Thánh cho đặt các chức giám-mục chọn toàn người Pháp (1652). Sác nhận này không có dẫn chứng lịch sử vững chắc. Lịch sử chỉ chép, Rhodes khi đến Pháp, khuyến khích thành lập Hội Thừa sai Paris, MEP, và hội này được Vatican gửi đi Á Châu, thừa kế Dòng Tên Bồ để truyền đạo.

Vụ việc này cũng là trò, Mập mờ đánh lận con đen, Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi (Nguyễn Du, Kim Vân Kiều truyện) gian trá của thực dân Pháp. Đắc Lộ không bao giờ được phép Toà-Thánh cho đặt các chức giám-mục chọn toàn người Pháp. Cố không bao giờ được có đươc thẩm quyền cính thức bổ nhiệm Giám mục Pháp ở Việt Nam, cố cá nhân chỉ là một linh mục truyền giáo, dù trên giấy tờ là thần dân của Vatican. Đắc Lộ chưa bao giờ có chức vị Bề Trên hay Đại Diện một Dòng, Tu hội hay tổ chức tập thể truyền giáo. Dĩ nhiên Cố Rhodes không có chức vụ gì ở Propaganda Fide Rôma. Đây là chuyện phải ngủ đứng để nghe, histoire à dormir debout [118] của thực dân Pháp. Vả lại các Bề trên Pháp đầu tiên đến Việt Nam la do chính Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm.

Lịch sử thế kỷ 18 với Bá Đa Lộc, giám mục được Gia Long gửi đi cầu viện quân đội Pháp, người thực sự mới là người đầu tiên đưa Pháp vào đô hộ Việt Nam sau này. Đắc Lộ qua biểu tượng Bá Đa Lộc, đã bị người Pháp lợi dụng và cho mặc y phục lông lá là giáo sĩ thực dân.

Nguồn Wikipedia viết: Bá Đa Lộc tiếp tục khuyên Nguyễn Ánh rằng đừng chỉ trông cậy vào người Xiêm mà nên tìm cách vận động cả nước Pháp cử viện binh giúp sức. Nguyễn Vương đồng ý, giao Hoàng tử Cảnh đi cùng Bá Đa Lộc đi tìm kiếm sự viện trợ từ phương Tây.

Tháng 11 năm 1784, Bá Đa Lộc lên tàu biển rời Việt Nam. Ông tìm cách sang Pondicherry, và từ đó ông gửi đến Macao lời yêu cầu giúp đỡ từ triều đình Bồ Đào Nha, dẫn đến Hiệp ước Liên minh giữa Nguyễn Vương và Bồ Đào Nha ngày 18 tháng 12 năm 1786 ở Bangkok.

Sau khi Giám mục Bá Đa Lộc và Hoàng tử Cảnh yết kiến Pháp hoàng Louis XVI và thương nghị với Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 21 tháng 11 năm 1787, Hiệp ước Versailles được ký bởi Armand Marc, bá tước Montmorin, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Hải quân, và Bá Đa Lộc, Đặc sứ Nguyễn vương Ánh. Theo 2 điều khoản chính của hiệp ước, thì vua Louis XVI hứa sẽ giúp đỡ Nguyễn Ánh để lấy lại ngôi vị, bằng cách cung cấp 1.650 quân (1.200 lính bộ binh, 200 lính pháo thủ và 250 lính da đen Cafres) và 4 chiến hạm. Đổi lại, Nguyễn vương sẽ nhường hẳn đảo Côn Lôn (người Pháp ghi là Pulo-Condore), đồng thời cho Pháp thuê cảng Đà Nẵng (người Pháp ghi là Tourane) với giá ưu đãi, kèm theo độc quyền kinh doanh.

Hiệp ước không thực thi do Cách mạng Pháp nổ ra cũng trong tháng đó, vua Louis XVI bị lật đổ. Chính quyền mới của Pháp không gởi quân đội giúp. Nhưng lịch sử chứng minh Hiệp ước Versailles 1787 là hiệp ước quốc tế đánh dấu sự bắt đầu viễn chinh của Pháp ở Đông Dương. Giám mục Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc quan Pháp của gia đình mình cho, mua vũ khí, thu nạp được 350 lính và 20 sĩ quan Pháp giúp Nguyễn Ánh. Tháng 7 năm 1789 Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh về đến Gia Định, sau 4 năm 8 tháng rời khỏi Việt Nam.

Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, thường được viết là Pigneau de Behaine (1741 – 1799) là một giáo sĩ Công giáo người Pháp, thuộc dòng Thừa sai Paris, được Nguyễn Phúc Ánh trọng dụng trong việc lấy lại quyền bính từ tay nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18. Ông là giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong, hiệu tòa Adran nên cũng thường được các sách sử gọi là Giám mục Adran. Người Việt biết đến ông dưới tên Bá Đa Lộc (百多祿) vì tên tiếng Pháp của ông là Pierre, tương đương với Petrus trong tiếng Latin, Pedro trong tiếng Bồ Đào Nha, và từ đó xuất hiện cái tên Bá Đa Lộc, phiên

âm từ Pedro. Ông còn được biết tới với tên Bá Đa Lộc Bỉ Nhu hay Bách Đa Lộc, hay Cha Cả. Bi Nhu Quận công (悲柔郡公) là sắc phong của vua Gia Long, gọi theo âm Pigneau. Hài cốt của Giám mục Bá Đa Lộc được thờ ở Lăng Cha Cả cho đến hết thời nhà Nguyễn sang thời Pháp thuộc, rồi đến chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Qua bao nhiêu thế kỷ, lịch sử thực dân đã dùng Bá Đa Lộc, ngậm máu phun người, gièm pha, vu khống một cách độc ác Đắc Lộ là Công thần Pháp, như đã ghi trên Bia Đá. Giám mục Adran có công soạn cuốn từ điển tiếng Việt mang tên Dictionarium Anamitico Latinum vào năm 1773, viết chữ Quốc ngữ và chữ Nôm, giải nghĩa bằng tiếng Latinh, sau được giám mục Taberd biên tập và in thành Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị. Cuốn tự điển viết tay này nay còn giữ ở Thư khố Hội Truyền giáo Ngoại quốc tại Paris.

Năm 1652, ai được Toà Thánh cho phép đặt ở Việt Nam các chức giám-mục chọn toàn người Pháp? Sự hiện diện của Phái đoàn Truyền giáo Nước ngoài của Paris MEP ở Việt Nam có từ thế kỷ 17. Năm 1662, Đức ông Pierre Lambert de La Motte trở thành tông tòa đại diện đầu tiên của Nam Kỳ, premier vicaire apostolique [119], chứ không phải giám mục évêque. Cha Louis Chevreuil là nhà truyền giáo MEP đầu tiên đến Cochinchine Nam Kỳ vào ngày 26 tháng 7 năm 1664, với tư cách là đại diện của Đức Ông de La Motte. Tại Tonkin Bắc Kỳ, Cha François Deydier đến vào năm 1666, cùng với Đức Cha de La Motte, người đã tổ chức hội nghị đầu tiên ở đó bốn năm sau đó [120].

Phái đoàn Truyền giáo Nước ngoài của Paris (MEP) là một tổ chức tông đồ Công giáo được thành lập vào năm 1663. Mục tiêu của tổ chức này là truyền giáo, évangélisation, cho các quốc gia ngoài Kitô giáo, đặc biệt là ở châu Á, thông qua việc thành lập các giáo hội và phát triển hàng giáo sĩ địa phương dưới quyền quản lý của các vicaire, chức vị trên hay tương đương chức giám mục. Để tuyển dụng và đào tạo các nhà truyền giáo, một ngôi nhà được thành lập vào năm 1663 trên đường rue du Bac ở Paris và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Được biết đến với cái tên Chủng viện Truyền giáo Nước ngoài, séminaire des Missions étrangères, MEP đã nhận được sự chấp thuận của Giáo hoàng Alexandre VII và sự công nhận hợp pháp từ chính phủ Pháp trên mặt pháp lý [121] 

Tu sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes [122], trở về sau chuyến truyền giáo ở Viễn Đông, đi qua Paris năm 1653 và được mời nói chuyện với các thành viên của Hội Hữu nghị Assembly of Amity (A.A.), một hiệp hội những người Công giáo Pháp bao gồm các thành viên của Tu hội Dòng Tên Đức Thánh Trinh Nữ. De Rhodes kêu gọi họ đáp ứng yêu cầu khẩn cấp mà ông đã đưa trình ở Rome về việc Đức Thánh Cha gửi các lãnh đạo giáo hội đến những người mới cải đạo ở Viễn Đông để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt là đào tạo các linh mục và tấn phong các giám mục địa phương. De Rhodes tin rằng việc có một giáo sĩ bản địa là rất quan trọng cho sự phát triển và tồn tại của nhà thờ ở Viễn Đông. Sau đó, Cha Bigot S.J. đề nghị ba thành viên của A.A. cung cấp dịch vụ này ở Trung Quốc và hai người, François Pallu từ Tours và François de Laval (1623–1708) từ Evreux, sau đó lần lượt được bổ nhiệm làm đại diện tông tòa cho Bắc Kỳ và Quebec.

Nhóm đại diện tông tòa đầu tiên được tuyển chọn từ những người Công giáo tình nguyện và không được chính quyền thế tục bổ nhiệm. Một trong số họ, Pierre Lambert de la Motte, một luật sư ở Rouen, đã hiến tặng tài sản của mình để tài trợ cho chuyến thám hiểm đầu tiên.

Năm 1658, Giáo hoàng Alexander VII đề cử ba đại diện tông tòa cho vùng Viễn Đông: Lambert de la Motte cho Nam Kỳ Cochinchina, Francis Pallu cho các tỉnh Nam Trung Quốc, và Ignace Cotolendi, giám mục Aix en Provence, cho Nam Kinh và Bắc Trung Quốc. Lambert de la Motte trở thành nhà truyền giáo MEP đầu tiên đến châu Á vào năm 1662 linh mục châu Á.

  • Mãi đến năm 1993 [123], tên tuổi Alexandre de Rhodes mới được phục hồi ở Việt Nam. Năm đó, Câu lạc bộ Sử gia tổ chức tranh luận về Rhodes và Giáo sư Nguyễn Lân nói về đài tưởng niệm người Pháp. Đối với ông, lẽ ra đài tưởng niệm không thể huỷ bỏ. Le courrier du Việt Nam bình luận về vụ phá bỏ như sau: Hành động này bộc lộ một sự hẹp hòi trí tuệ, một sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về lịch sử và dù sao đi nữa, nó không xứng đáng với nhân dân ta. Và chẳng phải Alexandre de Rhodes cũng làm việc cho người dân Việt Nam sao? Chữ viết được La Mã hóa, dễ học hơn nhiều so với chữ tượng hình (nôm), tạo điều kiện thuận lợi cho phần lớn dân chúng tiếp cận kiến thức và thông tin […] Và nhà truyền giáo cũng là một nhà nhân văn, gần gũi với dân chúng.

Ôi thôi, nhà nước Hà Nội sửa sai, đặt lại Bia Đắc Lộ ở Thư viện Quốc Gia, với Người được phép Toà-Thánh cho đặt các chức giám-mục chọn toàn người Pháp (1652), dữ kiện ngoài lịch sử, thì không phải để tương duyên Cố. Trái lại, Bia như đã viết bởi Thực dân là một sỉ nhục lớn lao cho nhà Cải đạo Dòng Tên Rhodes; một sỉ nhục lưu truyền cho hậu thế.

Âu lại cũng là oan trái của lịch sử. Stephen Neill, trong An history of Christian missions (Harmondsworth Middlesex GB, Penguin, 1979 Lịch sử các sứ mệnh Kitô giáo, viết: Người anh hùng của sử thi cải đạo này là Alexandre de Rhodes” (tr. 195). Tưởng tượng rằng Rhodes một mình thực hiện việc Latinh hoá quốc ngữ, Neill tiếp tục: Món quà thứ hai của Rhodes đối với Giáo hội là việc chuyển hóa tiếng Việt sang cách viết bằng bảng chữ cái Latinh. Ngoài năng khiếu ngôn ngữ tuyệt vời, ông ta hẳn phải có một đôi tai cực kỳ chính xác; vì tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu và việc thể hiện chính xác những thanh điệu này là điều cực kỳ khó khăn…” (tr. 196). Trên nguyên tắc, hiển nhiên tác giả chỉ có một giả định, không có tài liệu nào để trích dẫn chứng minh khẳng định của mình.

Tiểu sử gần đây nhất của Rhodes, của Jean Lacouture Un Avignonnais dans la rizière. Une multibiographie, 1. 1, Les conquerants, Paris, Seuil, 1991, p. 297-324), Một Avignonnais trên cánh đồng lúa. Một cuốn tiểu sử đa dạng. Lacouture tả khuynh, diễn ra khá khéo léo giữa cách xử lý thần thoại về con người Rhodes và công việc của nhà truyền giáo vĩ đại gốc Avignon. Vô số sai sót về chi tiết trong sách đã làm mất đi phần lớn sự quan tâm của bài viết này đối với nhà sử học. Sự phát triển gần đây nhất về sứ mệnh Kitô giáo ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 16 là do tu sĩ Dòng Tên Philippe Lécrivain, Sự mê hoặc của Viễn Đông, hay giấc mơ bị gián đoạn, La fascination de l’Extrême-Orient, ou le rêve interrompu (The Age of Reason. 1620 /30-1750 , tập 9 của Lịch sử Kitô giáo từ nguồn gốc đến ngày nay, hướng dẫn bởi Jean-Marie Mayeur, Charles Pietri, André Vauchez và Marc Venard, [Paris,] Desclée, [1997], tr. 755-834. Nếu tác giả không coi Rhodes là tác giả cá nhân của những sáng tạo ngôn ngữ, thì ông vẫn tiếp tục giới thiệu Rhodes là nhân vật chính, diễn viên duy nhất xứng đáng được nêu tên, của trang lịch sử này!

(còn nữa)

Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo 

—————-

Chú thích:

[102] Tiene questo huomo un figlio di sedici ani il più uiuo et habile di quel loco, et il migliore scrittore nella Ira Cinese, cosa che tra di loro è di molta stima. […] Questo giouane che battizato si chiama Pietro, con le sue lrô fà di grande agiuto al prô, per tradurre nella lingua délia terra il Pater noster, Ave Maria, Credo, et Decalogo ; che li Xpiani già hano imparato à mente. Compose anche il prô nella lingua gl’articoli délia fede, ne quali bastantemk si déclara hauer un Dio solo, li misterij

[103] Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics Prior to 1650 / L’oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnamienne jusqu’en 1650, Roland Jacques, Bangkok, Orchid Press, 2002

[104] Trần Quốc Anh 2016. Các giáo sĩ Dòng Tên và công cuộc La Tinh Hoá Tiếng Việt ở thế kỷ 17-18

 [105] Giáo sĩ Gaspar do Amaral sinh năm 1592 tại Bồ Đào Nha, gia nhập dòng tên năm 1608. Ông đã làm giáo sư La văn, triết học, thần học tại các chủng viện ở Bồ Đào Nha. Năm 1923, ông rời Bồ Đào Nha đi Áo Môn hoạt động truyền giáo và đến Đàng Ngoài vào tháng 10 năm 1629. Sau 7 năm ở Đàng Ngoài, tức vào năm 1638, ông dược gọi về Áo Môn giữ chức Viện trưởng Học viện Madre de Pina Deus. Ba năm sau, ông được cử làm phó Giám tỉnh dòng Tên Nhật Bản (gồm các nước Nhật, Xiêm, Việt Nam, Miên, Lào, đất Áo Môn và hai tỉnh Quảng Đông Quảng Tây). Năm 1645, ông lại đáp tàu từ Áo Môn đi Đàng Ngoài truyền giáo, nhưng tàu bị đắm ở gần đảo Hải Nam, ông chết đuối ngày 23/12/1645.

 [106] Giáo sĩ António de Barbosa sinh năm 1954 tại Bồ Đào Nha, gia nhập dòng Tên năm 1624. Cuối tháng 4/1636, ông đến truyền giáo ở Đàng Ngoài, nhưng vì thiếu sức khỏe, nên phải trở về Áo Môn vào tháng 5/1642, rồi qua đời năm 1647 trên đường về từ Áo Môn về Goa để dưỡng bệnh. Ông là tác giả cuốn từ điển Bồ – Việt: 

Diccionário português – amanita.

[107] «Era il P. Pina di nation Portoghese, in età di quaranta anni, caro anche a gl’idolatri, percioche ne parlaua la lingua quanto Cocincinese natiuo » (La Cina, p. 834).

[108] Antonio de Fontes, sinh năm 1569 tại Lisbon, gia nhập Công ty năm 1584; ông là giáo sư ở Coimbra và Braga, trước khi lên đường sang Phương Đông vào năm 1617; ông được bổ nhiệm đi sứ mệnh Nam Kỳ từ năm 1624 đến năm 1631, rồi đến Bắc Kỳ nơi ông đã lưu trú nhiều lần cho đến năm 1648.

[109] Nghiên cứu tốt nhất về chủ đề này chắc chắn là của Linh mục Dòng Tên Việt Nam Joseph Đỗ Quang Chính: Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, Sài Gòn, 1972; tái bản Paris, Duttag Moi, 1985. Tuy nhiên, nghiên cứu của tác giả đã bị trở ngại không ít do không thông thạo tiếng Bồ Đào Nha. Nghiên cứu này xứng đáng được lặp lại và bổ sung với sự đóng góp của toàn bộ tập bản thảo. Về sự khởi đầu của văn học Kitô giáo, xem Georg Sœurhammer, “Annamitische Xaveriusliteratur” Văn học Việt Nam liên quan đến Francis Xavier, trong Johannes Rommerskirchen và Nikolaus Kowalski (eds.), Missionswissenschaftliche Studien, Festgabe Pr. Các nghiên cứu về khoa học truyền giáo, lễ hội tưởng nhớ Giáo sư J.D., Aix-la-Chapelle, Wilhelm Metz, [1951], tr. 300-314; Võ Long Tê, Dẫn nhập nghiên cứu tiếng Việt và chữ quốc ngữ [Reichstett (Pháp)], Trung tâm Nguyễn Trường Tộ, 1997 ; và Nguyễn Văn Trung, Sách và tạp chí định kỳ của các tác giả Công giáo, thế kỷ 17-19, Khoa Văn thư Đại học Hồ Chî Minh -Ville, 1993, nổi bật là sự đóng góp của Thanh Lãng và Võ Long Tê.

[110] J. F. Schùtte, Textus Catalogorum (cité note 38), p. 1034-1050. Voir les documents : ARSI, Jap.-Sin. 80, fol. 35-38v et 73-81 ; Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuitas na Âsia, 49/V/13, fol. 351-373 et 661-663 ; 49/V/32, fol. 308-327v.

[111] Xin xem các tài liệu Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, Jesuitas na Âsia, 49/V/32, fol. 521- 522V et 681-681V ; 49/IV/61, fol. 23T-252″ et 362v-377.

[112] 因父,及子,及圣神之名。阿门。nhân phụ, cập tử, cập thánh thần chi danh. a môn.

[113] Manoscitto, em que se proue, que a forma do Bauptismo pronunciada em lingoa Annamica he verdadeira, Bản thảo, trong đó chứng minh hình thức Rửa tội được phát âm bằng tiếng An Nam là đúng

[114] Latinh : In nomine Patris et Filii et Spiritus Sancti. Hylạp Koinē: εἰς τὸ ὄνοµα τοῦ Πατρὸς καὶ τοῦ Υἱοῦ καὶ τοῦ Ἁγίου Πνεύµατος, Lamã hoá: eis to ónoma toû Patros kai toû Huioû kai toû Hagíou Pneúmatos. Tiếng Việt Dấu Thánh Giá đơn: Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen. Kép: Lạy Chúa chúng con, vì dấu (+)

Thánh giá, xin chữa (+) chúng con cho khỏi (+) kẻ thù. Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần. Amen.

[115] http://daminhrosalima.net/tu-co-trong-sach-kinh/tu-co—dau-thanh-gia-32825.html

[116] Daniello Bartoli, Dell’Historia délia Compagnia di Giesu. La Cina. Terza parte dell’Asia, Rome, Stamperia del Varese, 1663 ; voir manuscrit (365 fol.), conservé à Rome, aux Archives de la Compagnie de Jésus ; nombreuses rééditions, dont : La Cina : Storia délia Compagnia di Gesù, Milan, Bompiani, 1975.

[117] ARSI, Lus. 37-11, fol. 379-385. So sánh với các thơ của Joseph Tissanier datées 15.11.1658, 29.10.1659, 12.11.1659 : ARSI, Jap.-Sin. 80, fol. 120-121 et 149-152.

[118] Thành ngữ Pháp! Une histoire à dormir debout, c’est une histoire qui n’a aucun sens, qui est complètement illogique, qui est incroyable, qui est absurde, qui ne peut pas être vraie. Chuyện phải ngủ đứng để nghe, một chuyện hoang đường, một câu chuyện vô nghĩa, hoàn toàn phi logic, không thể tin được, vô lý, không thể có thật!

[119] tông tòa đại diện vicaire apostolique bổ nhiệm bởi Giáo Hoàng.

[120] IRFA https://irfa.paris/zonesgeographiques/vietnam/

[121] Nguồn Wikipedia.

[122] Jean-Pierre Charbonnier, The MEP in China: A Chronology from the 17th Century to the Present, Pages 245–268.

[123] Alain Guillemin Alexandre de Rhodes a-t-il inventé le quốc ngữ ?Cet acte révélait une certaine étroitesse d’esprit, une méconnaissance totale de l’histoire et, de toute manière, c’était indigne de notre peuple. Et Alexandre de Rhodes n’at-il pas aussi œuvré pour le peuple vietnamien ? L’écriture romanisée, d’apprentissage beaucoup plus facile que les idéogrammes, a favorisé l’accès au savoir et à l’information de larges pans de la population […] Et le missionnaire était aussi un humaniste, proche de la population.

*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 1)

*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 2).

*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 3)
*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 4)