Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ cuối)

Cùng năm 1645, khi cuộc tranh luận về ngôn ngữ mâu thuẫn nêu trên được tổ chức ở Macao, Alexandre de Rhodes được cấp trên của ông là Manuel de Azevedo giao cho một sứ mệnh tới Rome. Ở đây sẽ không đề cập ở đây các khía cạnh ngoại giao của chuyến đi, tìm thêm hậu thuẫn tài chính cho sứ mệnh truyền giáo, cũng như những hậu quả mà nó gây ra đối với các phái đoàn Công giáo ở Viễn Đông; những hậu quả này gây đau đớn cho Bồ Đào Nha mà không ai có thể đổ lỗi cho Rhodes. Đúng hơn, chúng ta nên nhớ đến một thành công không thể chối cãi, việc xuất bản ở Rome cuốn từ điển và sách giáo lý mà nhà truyền giáo mang theo trong hành lý, cùng lúc với nhiều tác phẩm lịch sử khác nhau về sứ mệnh Việt Nam. Chính trên cơ sở của những ấn phẩm này mà con người của Alexandre de Rhodes bắt đầu mang một khía cạnh huyền thoại, giờ đây gần như trở thành thần thoại cả về lịch sử các sứ mệnh truyền giáo ở Việt Nam lẫn lịch sử tiếng Việt Quốc ngữ. Có phải chúng ta đang làm sai lịch sử, khi diễn dịch theo cách này chăng. Rhodes chắc chắn là một nhà truyền giáo thành công, nhưng không phải là siêu nhân; việc khôi phục con người Đắc Lộ, trở lại tính nhất quán thực sự và đặt lịch sử vào bối cảnh của nó là điều cấp thiết. Không có gì khó hiểu, Cố Đắc Lộ đơn thương độc mã, không thể nào một mình tự xây dựng và khai sinh một ngôn ngữ mới, quốc ngữ Latinh hoá.
Nhiều khía cạnh của cuộc hành trình này chỉ được biết đến từ lời kể của Rhodes qua hồi ký. Manuel de Azevedo, Giám sát visiteur Phái đoàn Truyền giáo Nhật Bản và Trung Quốc, là người có thẩm quyền cao nhất trong Hiệp hội Chúa Giêsu Viễn Đông và là bề trên trực tiếp của Rhodes, sinh tại Viseu (Bồ Đào Nha) năm 1581, qua đời tại Ma Cao năm 1650. Ông được hỗ trợ bởi một người Bồ Đào Nha khác, João Cabrai, người lúc đó là hiệu trưởng trường đại học và có chức danh phó tỉnh (1645-1646). Sinh năm 1598 tại Celorico da Beira (Bồ Đào Nha), Cabrai giữ chức vụ Du khách Bắc Kỳ năm 1647-1648. Chính ông là người chủ trì cuộc hội đàm Macao (1645) đã được thảo luận. Ông qua đời ở Goa năm 1669.
Ngoài những vấn đề của cách tiếp cận đối với ngôn ngữ học tiếng Việt mà chúng ta sẽ bàn tiếp trở lại, xin đề cập ở đây một vấn đề khác. Cộng đồng Công giáo Việt Nam, mặc dù đã được thiết lập vững chắc trong ba thế kỷ rưỡi, vẫn là một cộng đồng thiểu số bị tranh chấp, đã và chịu đựng sự tẩy chay. Bài phát biểu của nhiều người gièm pha buộc tội Kitô giáo Việt Nam đã được mang theo trong hành lý của thực dân Pháp, mà Alexandre de Rhodes là người đi trước [124] là hoàn toàn sai lầm. Sự phục hồi gần đây của giới quan chức Hà nội vẫn chưa chấm dứt được huyền thoại đen tối này. Việc khôi phục sự thật lịch sử về nguồn gốc của cộng đồng Công giáo sẽ giúp làm nổi bật những thực tế rất khác nhau, trong khuôn khổ đối thoại và trao đổi, hoàn toàn hòa bình, của vương miện Bồ Đào Nha và các Giáo sĩ Dòng Tên. Các nhà truyền giáo Bồ, những người đầu tiên đem mầm giống Ki tô đến Việt Nam, chứ không phải nước Pháp qua cá nhân Rhodes, trên pháp lý ông không phải là thần dân của hoàng gia Pháp. Họ, những người tự do và chân thành, đã có thể khiến một bộ phận dân chúng lắng nghe giảng dạy, và đã tìm ra đất phì nhiêu để truyền đức tin. Với sự cảm thông sâu sắc, truyền giáo Bồ đã áp dụng ngôn ngữ và phong tục của những người đối thoại; người bản dân tự do lựa chọn đức tin mới này, tất cả được thể hiện với ngôn ngữ bản địa, trước tiên bằng chữ Nôm. Xin đừng nhầm lẫn, Quốc ngữ thuở đầu do người Bồ lập nên, chính yếu để dạy cách
phát ngôn tiếng Việt (nói) trong phạm vi giáo phẩm truyền giáo với nhau để giảng đạo. Chính trong bối cảnh này mà Rhodes, thần dân của Giáo hoàng, và dưới bảo trợ nước Bồ Đào Nha, đã thực thi tác vụ thừa sai của mình giống như các đồng nghiệp khác, những người Bồ Đào Nha, Ý hoặc Nhật Bản.
Việc tìm ra sự thật lịch sử đằng sau huyền thoại thống trị theo cách nhìn xuyên tạc của thực dân Pháp là một đặc biệt gian khổ và bạc bẽo. Để làm được điều này, sử gia về phái bộ truyền giáo ở Việt Nam có nguồn tài liệu rất phong phú, nhưng nhất thiét không chỉ là những dữ kiện xuất phát trong văn học Pháp. Tuy không nói nhiều về các tài liệu chính thức, dù là chính trị hay kinh tế, những tài liệu này đã được nhiều người biết đến và phần lớn đã được xuất bản và sử dụng: Chưa bao giờ có một thuộc địa Bồ Đào Nha thực sự ở Việt Nam và rất ít trao đổi chính trị; hiệp ước duy nhất là hiệp ước phù du Luso-Việt năm 1786 [125]. Loại tài liệu này trên hết giúp xác định rõ ràng bối cảnh kinh tế xã hội của sứ mệnh Kitô , chứ không phải nội dung của nó.
Phần lớn các nguồn dữ kiện, bao gồm hầu hết các bản thảo chưa được xuất bản, có nguồn gốc tôn giáo. Nói chung, cần lưu ý rằng, đi tìm một thật sự khác, các phiên bản chưa được xuất bản [126] thì thích hợp hơn các phiên bản đã xuất bản, nếu chúng tồn tại, bởi vì các phiên bản xuất bản, chủ yếu nhằm mục đích là để gây dựng những tâm hồn ngoan đạo của Châu Âu! Và có thể, chủ quan, đã bị bóp méo vì mục đích này. Các bản thảo, đặc biệt là các báo cáo chính thức và thư từ riêng tư của các tu sĩ Dòng Tên, phần lớn được lưu giữ ở Lisbon, Madrid và đặc biệt là ở Rome, nằm rải rác trong một số bộ sưu tập. 86. Chúng được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, ít thường xuyên hơn bằng tiếng Latinh và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ giúp chúng ta có thể tái xây dựng lại một cách chi tiết trình tự thời gian của sứ vụ và xác định trách nhiệm của mỗi tác nhân. Đồng thời, sự tiến bộ và những thay đổi trong hoạt động ngôn ngữ và văn hóa của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam ở thế kỷ 17 sẽ được nêu bật rõ ràng hơn, với tên và khuôn mặt của những người đã thúc đẩy nó.
Roland Jacques nhấn mạnh: Việc xuất bản và khai thác các nguồn sử liệu này là một dự án vẫn còn phải được thực hiện. Nhiệm vụ ưu tiên là lập chỉ mục các tài liệu từ nửa thế kỷ 17 đầu tiên, thời kỳ mà hầu hết các công việc sáng tạo được thực hiện (1615-1664). Nhưng sự phát triển toàn diện sẽ là một nhiệm vụ tập thể lâu dài, đòi hỏi phải thiết lập mối liên kết hợp tác văn hóa giữa thế chức Bồ Đào Nha và thế chức Việt Nam. Điều cần thiết là thế hệ các nhà nghiên cứu tương lai của Việt Nam có thể tham gia đầy đủ vào công việc. Trên thực tế, một mặt, họ sẽ không thể lo lắng về những cuộc tranh cãi trong nội bộ châu Âu, điều mà họ hầu như không nên quan tâm; mặt khác, chỉ có sự đóng góp cụ thể của họ mới có thể nghiên cứu sâu hơn các khía cạnh văn hóa của những gì đã đạt được trong cuộc gặp gỡ lịch sử của Quốc ngữ ở thế kỷ 17.
Để sửa soạn cho những khảo cứu tương lai, xin kể một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã bảo vệ các luận điểm về lịch sử hoặc có yếu tố lịch sử, dành cho thời kỳ đó, tại các trường đại học và các tổ chức La Mã. Với một số ngoại lệ, những tác phẩm này vẫn chưa được xuất bản và mắc phải những khiếm khuyết đã được đề cập, đặc biệt là không có đủ kiến thức về các tài liệu gốc viết bằng tiếng Bồ Đào Nha.
Xin trích dẫn: Nguyễn Hữu Trọng, Le clergé national dans la fondation de l’Église au Viêt-nam. Les origines du clergé Vietnamien Giáo sĩ dân tộc trong việc thành lập Giáo hội tại Việt Nam. Nguồn gốc của giới tăng lữ Việt Nam (Paris, Catholic Institute, 1955); Vũ Khánh Tường, Les missions jésuites ayant les Missions Étrangères au Viêt Nam, 1615-1665, Cơ quan Truyền giáo Dòng Tên với Cơ quan Truyền giáo Nước ngoài tại Việt Nam, 1615-1665 (Paris, Viện Công giáo, 1956); Phạm Văn Hội, Les missions jésuites ayant les Missions Étrangères au Viêt Nam, 1615-1665 (Paris, Institut catholique, 1956); Phạm Văn Hội, La fondation de l’Église au Viêt-nam, Việc thành lập Giáo hội tại Việt Nam, 1615-1715 (Rome, Đại học Gregorian, 1960); Đỗ Quang Chính, La mission au Viêt Nam, 1624-1630 et 1640-1645, d’Alexandre de Rhodes, sj, avignonnais Sứ mệnh tại Việt Nam, 1624-1630 và 1640-1645, của Alexandre de Rhodes, sj, Avignon (Paris,
École Pratique des Hautes Études, 1969). Các luận văn thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée du P. Alexandre de Rhodes, 1651 Giáo lý bằng tiếng Việt Latinh của Cha Alexandre de Rhodes, 1651 (Rome, Đại học Gregorian, 1956-1957); Placide Tân Phát, Méthodes de catéchèse et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-1660 Phương pháp dạy giáo lý và hoán cải của Cha Alexandre de Rhodes, 1593-1660, (Paris, Viện Công giáo, 1963); Mai Đức Vinh, La participation des notables de chrétientés aux ministères des prêtres. Recherche
historico-pastorale, 1533-1953 (Rome, Université St-Thomas, 1977 Sự tham gia của các Kitô hữu nổi tiếng trong thừa tác vụ linh mục. Nghiên cứu lịch sử-mục vụ, 1533-1953 (Rome, Đại học St. Thomas, 1977); Nguyễn Chí Thiết, Le Catéchisme du Père Alexandre de Rhodes et l’âme vietnamienne Giáo lý của Cha Alexander xứ Rhodes và tâm hồn Việt Nam (Rome, Đại học Gregorian, 1980). Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cứ, De Institutione Domus Dei in Missionibus Tonkini: Studium Juridicum (Rome, Gregorian University, 1954) ); Nguyễn Trọng Hồng, Viện Giáo lý và Truyền giáo Đông Dương thế kỷ 17 (Rome, Urban University, 1959); Phạm Quốc Sử, Nhà Chúa, tổ chức giáo lý viên ở Việt Nam (Rome, Urban University, 1975). Luận án của Nguyễn Hữu Trọng được xuất bản nhưng đã bị chỉ trích nặng nề từ quan điểm của người Bồ Đào Nha. Ngoài ra, một số học giả Việt Nam cũng tập trung vào con người và sự nghiệp của Alexander xứ Rhodes, đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông. Xem cụ thể các bài viết trên tạp chí Tạp Chí Đại Học [Review of the University of Hue] xuất bản năm 1960 và 1961; và số đặc biệt Việt-Nam Khảo-cổ Tập-san /Bản tin của Viện Nghiên cứu Lịch sử [Sài Gòn], Kỷ niệm ba trăm năm ngày mất của Cha Alexandre de Rhodes 1593-1660, n° 2/1961, tr. 258.
Ngay cả sau khi xuất bản các nguồn tiếng Trung của ngôn ngữ học lịch sử Việt Nam [127], từ điển và sách giáo lý của Rhodes xuất bản ở Rome năm 1651 vẫn là hai công trình cơ bản không thể thay thế để biết hiện trạng của quốc ngữ trong thế kỷ 17 và sự tiến hóa của nó.
Nhưng việc chúng được xuất bản dưới cái tên duy nhất là Alexandre de Rhodes dường như đã miễn cho chúng ta việc nghiên cứu sâu về hồ sơ ngôn ngữ. Cá nhân Rhodes là tác giả ở mức độ nào? Ông Cố đã đảm nhận công việc của những người tiền nhiệm với tư cách là người biên soạn hoặc biên tập văn bản cuối cùng ở mức độ nào? Chắc chắn là không thể trả lời những câu hỏi này một cách thấu đáo; nhưng chúng phải được hỏi và xem xét nghiêm túc với sự giúp đỡ của tất cả các bằng chứng những văn bản sẵn có.
Khái niệm về tài sản hay bản quyền văn học của các tu sĩ Dòng Tên thế kỷ 17 không hẳn là của chúng ta ngày nay; xin đưa ra hai ví dụ. Chúng ta thấy câu chuyện về cuộc tử đạo của giáo lý viên André, nguyên bản tiếng Bồ Đào Nha là do chính ngòi bút của Rhodes, mà đôi khi được lặp lại từng chữ dưới ngòi bút ký tên của Matias da Maia, Antonio Francisco Cardim hoặc Manuel Ferreira. Ngược lại, Rhodes xuất bản dưới tên của chính mình một câu chuyện liên quan đến các vị tử đạo của Nhật Bản, thường được lấy từ biên niên sử của Dòng Tên. Trong trường hợp của Rhodes và các vị tử đạo của Nhật Bản [128], chắc chắn đó cũng là vấn đề lợi dụng danh tiếng đang nổi của người bản xứ Avignon để phân phối cuốn sách tốt đẹp hơn.
Đối với hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt của Rhodes do Truyền giáo Propaganda Fide xuất bản, rõ ràng không có chuyện bán sách ra công chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công vụ truyền giáo. Vì Rhodes là người duy nhất ở Rome biết ngôn ngữ được sử dụng nên ông nhất thiết phải đích thân xác nhận về những tác phẩm này, chịu trách nhiệm cuối cùng về chúng trước cấp trên và Tòa thánh. Việc Rhodes có tên trên trang bìa không chứng tỏ ông ấy là tác giả duy nhất hay thậm chí là biên tập viên chính. Thực sự là loại trách nhiệm mà Rhodes đã đảm nhận mà không khẳng định quyền tác giả văn học theo đúng nghĩa mà chúng ta hiểu hôm nay; những người có thể làm điều đó ở vị trí Rhodes, hoặc cùng với ông ta, đều ở tuốt tận cùng trái đất vào thời điểm nay!
Đối với sách giáo lý, có thể nên để lại cho Rhodes quyền tác giả trong việc biên tập, và chắc chắn phiên bản tiếng Latinh, đã được toà thánh yêu cầu rõ ràng. Nhưng chính Rhodes cũng lưu ý rằng trong trường hợp này, đó là phương pháp mà chúng tôi sử dụng để đề xuất những bí ẩn của mình cho những người ngoại giáo: do đó nó được đặt vị trí rõ ràng trong một tác phẩm tập thể. Giải thích thuật ngữ phương pháp méthodes có nghĩa bao gồm các tài liệu văn bản. Sự tồn tại của các văn bản giáo lý, ít nhất tương tự như của Rhodes, được viết bằng chữ cái Latinh và chữ Nôm theo âm tiết. Thực tế đã được chứng thực bởi một văn bản của tu sĩ Dòng Tên Metello Saccano, được viết ngay trước khi xuất bản Sách Giáo lý: ” … Sách Giáo lý của chúng tôi được soạn thảo rõ ràng để hướng dẫn những người này, nơi mà những bí tích Kitô được phơi bày rõ ràng, và sự tôn kính của các giáo phái của họ bị bác bỏ một cách hiệu quả, toàn bộ công việc được chia làm tám, trong nhiều ngày” [129]. Do đó, nhà truyền giáo Đắc Lộ dường như có một bản viết bằng chữ quốc ngữ để sử dụng cho riêng mình và một bản khác bằng chữ Nôm để sử dụng cho người Việt.
Đối với từ điển, cũng phải có nhận xét tương tự. Trong thông báo gửi đến độc giả, Rhodes lưu ý rõ ràng rằng ông làm việc trên cơ sở từ điển Việt-Bồ Đào Nha do Gaspar do Amaral biên soạn và từ điển Bồ Đào Nha-Việt của Antonio Barbosa. Nếu bản thảo của hai tác phẩm tiền thân chưa bao giờ được tìm thấy, thì theo chúng tôi, đơn giản là vì từ điển in của Rhodes đã sử dụng toàn bộ nội dung viết tay của chúng, khiến việc bảo tồn chúng theo Rhodes, là không cần thiết. Tất nhiên, chúng ta phải ca ngợi phẩm chất quản lý management của cư dân Avignon này, người duy nhất biết cách đưa công việc xuất bản này thành hiện thực, bất chấp những khó khăn mà ta có thể tưởng tượng. Những người tiền nhiệm của ông, những người mất sớm, đã không thể làm được điều đó.
Để in chữ Nôm, Việt Nam đã sử dụng kỹ thuật in ống đồng. Phái đoàn Dòng Tên ít nhất đã sử dụng kỹ thuật này ở Bắc Kỳ, trong thời kỳ họ được hưởng đầy đủ tự do [130]. Nhưng kỹ thuật này đã không được điều chỉnh cho phù hợp với bảng chữ cái Latinh, và nhất là quyền tự do bị hạn chế của những người truyền giáo, trong một môi trường nhạy cảm như vậy.
Tỉnh Dòng Nhật Bản đã vận hành một máy in với chữ di động ở Macao, sau đó ở Nhật Bản và một lần nữa ở Macao trong khoảng thời gian từ 1588 đến 1620.96 Vì những lý do không rõ ràng, máy in này sau đó đã bị bỏ rơi hoặc bán ở Manila, đến nỗi thật không may, nó không thể được sử dụng đối với chữ quốc ngữ, giống như đối với tiếng Nhật (bảng chữ cái La Mã và chữ hiragana). Giải pháp thay thế là in nó ở Lisbon. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, đây là một công việc khá tế nhị, tốn thời gian và chi phí tốn kém. Một nhà điều tra người Bồ Đào Nha đương thời viết: The vigilance [of the Inquisition] in ferreting out suspect doctrines is incredible ; and it always was thus in this kingdom [of Portugal], where manuscripts have to be revised so often and approved by so many censors with such rigour, that this is one of the reasons why so few books are published here … Sự cảnh giác [của Tòa án Dị giáo] trong việc tìm ra các học thuyết đáng nghi ngờ là điều đáng kinh ngạc; và ở vương quốc này [Bồ Đào Nha] luôn luôn như vậy, nơi các bản thảo phải được sửa lại thường xuyên và được rất nhiều cơ quan kiểm duyệt phê duyệt một cách nghiêm ngặt, đó là một trong những lý do tại sao có rất ít sách được xuất bản ở đây… 97
Có lẽ chính những lý do này đã khiến Bề trên của Alexandre de Rhodes, phải dùng đến giải pháp của La Mã để cung cấp cho phái bộ truyền giáo Việt Nam những tác phẩm cơ bản mà họ cần gấp nhất.
Đối với từ điển cũng như giáo lý, Rhodes đã thêm tiếng Latin vào phần Việt-Bồ Đào Nha, theo yêu cầu của toà thánh. Ông thay thế từ vựng Bồ Đào Nha – Việt bằng một tiết mục ngắn gọn Latinh-Việt, có lẽ là của riêng ông. Ngoài ra, từ điển còn bao gồm một mô tả ngắn về ngữ âm và ngữ pháp của tiếng Việt, một nghiên cứu chuyên sâu về văn bản này và một văn bản đương đại khác tương tự, cũng đã khiến chúng ta thừa nhận cả hai có một nguồn tiếng Bồ Đào Nha chung, cũng bị thất lạc luôn, do việc xuất bản tác phẩm được in khiến nó không còn tính cách thời sự nữa.
Chỉ có việc công bố và phân tích một cách có phương pháp các nguồn tài liệu mới có thể giúp chứng thực hoặc bác bỏ, nột cách dứt khoát giả thuyết Bồ và các kết luận tạm thời khác mà chúng ta đã đạt được về nguồn gốc của quốc ngữ. Trên thực tế, Jacques nói, chúng tôi đã cam kết chứng minh rằng chính ngữ âm tiếng Bồ Đào Nha đã được sử dụng vào thế kỷ 16 hơn bất kỳ ngữ âm nào khác, và đã thành công như một công cụ phân tích ngữ âm tiếng Việt trong bối cảnh tạo ra hệ thống bảng chữ cái mới. Chính các nhà ngữ pháp người Bồ Đào Nha đã cung cấp hầu hết các công cụ khái niệm căn bản outils conceptuels, y như công việc của các tu sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha khác về tiếng Nhật, cũng đã cung cấp phương pháp tương đương. Bỏ qua những sự thật này là đang tự đặt mình vào những thử nghiệm lần mò tâtonnements, sai sót vô ích.
Những nghiên cứu tốt nhất được thực hiện về lịch sử quốc ngữ với phiên âm La Mã, đặc biệt là những nghiên cứu của André-Georges Haudricourt, Kenneth Gregerson hay Hoàng Thị Châu [131]. những người mà quốc ngữ mắc nợ rất nhiều, cũng mới chỉ mập mờ cho thoáng nhìn qua vai trò đặc biệt này do người Bồ Đào Nha thực hiện tại nguồn gốc của quốc ngữ. Đối với các nhà ngôn ngữ học, có một công việc cần được tiếp tục, trong đó sự hợp tác đa phương giữa các chuyên gia ngữ học tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Việt dường như rất khẩn trương, mới đủ để kết luận.
Ngược lại với niềm tin phổ biến, như đã đề cập nhiều lần trong tiểu luận, hellođược các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha lựa chọn để truyền bá Kitô giáo đến người Việt không phải là chữ viết Latinh hoá. Về điểm này, đối với người châu Âu, việc xuất bản sách giáo lý và từ điển đã tạo ra một ảo tưởng. Các nhà truyền giáo tại chỗ đã chọn chữ Nôm, xin xem phần nói về Cố Maiorica với 48 tác phẩm Nôm, tức là chữ Việt cổ được phỏng theo chữ tượng hình Trung Quốc [132]. Nôm có ưu điểm là tương đối quen thuộc với giới thượng lưu, giới trí thức Việt Nam và nhược điểm là hầu như không thể tiếp cận được với người đại đa số các nhà truyền giáo, cũng như với toàn dân. Nhưng vấn đề dẫn đến quyết định này là để không cắt đứt cộng đồng Kitô giáo mới, khỏi nguồn gốc truyền thống của Việt Nam trong văn hóa Trung Quốc, vốn hoàn toàn trái ngược với các nguyên tắc và phương pháp của Dòng Tên Bồ Đào Nha.
Văn hóa Việt Nam có hai nguồn chính, có mối quan hệ biện chứng với nhau, một mặt là
truyền thống dân tộc riêng và nền tảng ngôn ngữ không thuộc nhóm Hán ngữ; mặt khác, văn hóa Trung Quốc, được truyền tải bằng ngôn ngữ dưới dạng chữ viết và thông qua nhiều khoản vay mượn. Ngôn ngữ Nôm chiếm một vị trí đặc biệt trong bối cảnh này, ở bản lề của cả hai. Những ký tự âm tiết này đều có nguồn gốc từ ký tự Trung Quốc và góp phần tạo nên uy tín to lớn cho chúng; Nôm trong quá khứ, diễn đạt những ngôn từ Việt Nam đích thực, gần gũi với cảm xúc đặc biệt, Nôm là một thứ văn chương dân tộc thực sự. Cuối cùng, họ có thể vay trực tiếp và miễn phí từ nền tảng Trung Quốc, do đó có sự thẩm thấu liên tục. Tuy chữ Nôm qua vay mượn không đồng dạng không tiết tấu được tất cả âm tiết dồi dào của tiếng Việt. Xin nhắc lại, chữ Nôm vừa đọc vừa đoán! Quốc ngữ buổi giao thời, chưa bao giờ đạt được vai trò biểu tượng tương tự.
Câu hỏi này khá bối rối sương mù, vì thực tế là một số tác giả phương Tây nhầm lẫn giữa vấn đề ngôn ngữ (nói) và vấn đề chữ viết. Trên thực tế, các tu sĩ Dòng Tên phải lựa chọn giữa hai ngôn ngữ: đối với tiếng Hoa, tức Hán Việt hay Chữ Nho (ngôn ngữ hành chính chính thức, ngôn ngữ giáo dục và của tầng lớp trí thức), họ ưa thích chọn tiếng Việt (ngôn ngữ nói của người dân). Họ cũng tiếp nhận, trong những giới hạn đã đề cập, chữ viết truyền thống (nôm) của ngôn ngữ Việt, đồng thời tạo ra một bảng chữ cái Latinh (quốc ngữ) phỏng theo âm Nôm, cho những mục đích sử dụng cụ thể. Việc đưa các cụm từ tiếng Hán ít nhiều phong phú vào tiếng Việt không gắn liền với chữ viết. Cũng phải khẳng định rằng chính sách ngôn ngữ này là thiện ích chung của toàn thể các nhà truyền giáo nói chung; không có lý do gì để nói rằng Alexandre de Rhodes có quan điểm cá nhân trong vấn đề lựa chọn này.

Roland Jacques: Dù thế nào đi nữa, chúng tôi không đồng ý với nhận định của nhà sử học Việt Nam Lê Thành Khôi khi ông viết: “Việc phát minh ra chữ quốc ngữ chủ yếu xuất phát từ mục đích tuyên truyền tôn giáo. Trên thực tế, trở ngại lớn cho việc truyền bá đạo Cơ đốc đến từ nền giáo dục Nho giáo phổ cập. Để tiếp cận được tâm trí của quần chúng, các nhà truyền giáo phải tấn công văn hóa Trung Quốc và các biểu tượng đại diện cho nó. Họ cố gắng cung cấp cho người dân phương tiện để làm việc mà không cần chữ viết thống trị và họ đã đạt được điều này bằng cách tưởng tượng ra hệ thống phiên âm tiếng Việt này bằng bảng chữ cái Latinh, kèm theo các dấu phụ để tạo ra các thanh điệu khác nhau của tiếng Việt.
Những người cải đạo sử dụng chữ quốc ngữ không còn đọc tiếng Trung Quốc qua Hán Việt, loại ngôn ngữ mà các tài liệu công cộng và hầu hết văn học vẫn được viết. Ở đây chúng ta thấy được ý nghĩa chính trị của sự kiện đã góp phần làm cho người Công giáo Việt Nam trở thành một nhóm tách biệt khỏi cộng đồng dân tộc trong một thời gian dài [133]. Một nhận định như vậy biểu thị một sự hiểu lầm, thiếu hiểu biết nghiêm trọng, trong số những vấn đề khác, về công việc văn hóa được thực hiện bởi chính các tu sĩ Dòng Tên trong sứ mệnh truyền giáo Trung Quốc, theo đường hướng của Matteo Ricci (+ 1610). Nó không bám sát các sự kiện, đặc biệt là tác phẩm văn học Kitô giáo quan trọng bằng chữ Nôm, bắt đầu từ những ngày đầu của sứ mệnh. Về cái chết của Jerônimo Mayorica vào năm 1659, bề trên khi truy tặng ông đã đề cập đến thư viện phong phú gồm 48 cuốn sách mà ông đã sáng tác hoặc dịch sang ngôn ngữ và chữ viết của đất nước [134].

Cố Girolamo Majorica, chữ Nôm: 梅烏理哥, Mai Ô Lý Ca; bắt đầu viết sách rất sớm, ngay từ khi đang còn hoc̣ tiếng ViêṭởĐàng Trong (1625-1628), ngài đã cố gắng bắt đầu soạn những văn bản chữ Nôm, tóm lược các điêm̉ giáo lý cơ ban̉. Rồi các tác phẩm đầu tiên ra đời từ trước năm 1634 từ những ngày đầu tới KẻRum, NghệAn. Những sách cuối cùng ngài viết vào khoang̉ đầu những năm 1640. So sánh với thời điểm xuất bản Phép Giang̉ TámNgày (1651) cuả cha Đắc Lô,̣và ngay cảkhi giảsửcuốn này đã được viết sau năm 1636 và được hoàn thành vào năm 1645, thì chúng ta thấy rõ môṭsố tác phẩm cuả cha Girolamo Majorica đã có trước cuốn này, và vì thế, tầm quan trong̣ và anh̉ hưởng cuả các sách cuả Cố Maiorica thật quan trọng.
Nguồn Wikipedia: Ngoài Thiên Chúa thánh giáo khải mông 天主聖教啟蒙 (1623), phỏng theo sách giáo lý tiếng Ý của Thánh Bellarmino, Cố Maiorica được cho là tác giả chính biên soạn 45 hoặc 48 tác phẩm chữ Nôm.Từ những trao đổi thư tín đương thời của các tu sĩ Dòng Tên và từ chính bản văn, có thể thấy rõ các tác phẩm này được viết với sự cộng tác của các tín hữu người Việt. Hầu hết trong số đó là những người dạy giáo lý được gọi là thầy giảng, họ là những người có chữ nghĩa và thường có địa vị trong cộng đồng trước khi cải sang Kitô giáo.
Các tác phẩm của Maiorica có thể chia thành 4 thể loại cơ bản: sách truyện hạnh thánh, phỏng tác kinh thánh, sách giảng thuyết, và sách giáo lý. Nhìn chung đây đều là văn xuôi, ngoại trừ một số phần là kinh cầu nguyện viết theo các thể văn vần. Cố phiên dịch, phóng tác hoặc sáng tác dựa trên nhiều nguồn khác nhau: các văn thư chính thức của Giáo hội (như Kinh thánh Vulgata, Sách lễ Rôma), công trình của các Giáo Phụ, cuốn Tổng luận Thần học của Thánh Tôma Aquinô, tác phẩm của các tu sĩ Dòng Tên, và các sách cùng với truyền khẩu về hạnh thánh.
Linh mục Maiorica thiên về từ vựng đơn giản, dễ hiểu hơn từ vựng Hán-Việt, ngay cả trong trường hợp mà từ vựng sau này phù hợp với các thuật ngữ được sử dụng bởi các đồng nghiệp Dòng Tên của ông ở Trung Quốc. Chẳng hạn, ông gọi Thiên Chúa là Đức Chúa Trời Đất (nghĩa đen là Chúa tể trời đất; 德主 坦) thay vì Thiên Địa Chân Chúa 天地眞主 và gọi Bí tích Thánh Thể là Mình Thánh135 [135] (命聖) thay vì Thánh Thể 聖體. Ngày nay, Thiên Chúa 天主 và Thánh Thể 聖體 lần lượt là những thuật ngữ được ưa chuộng. Nhiều thuật ngữ Cố đặt ra sau này trở nên phổ biến, chẳng hạn như sự thương khó 事傷 (đam mê), thích linh hồn 磊靈魂 (sự cứu rỗi linh hồn), tin kính 信敬 (tin tưởng, xuất hiện trong tín điều), khiêm tốn liên 謙讓召累 (khiêm tốn và phục tùng), vĩnh viễn 恒 (sự sống vĩnh cửu), cả sáng 奇創 (thánh hóa, xuất hiện trong Kinh Lạy Cha).

Do đó ta thường thấy nói, quốc ngữ một phần khai triển từ Tiếng Nôm; công trình của Cố Maiorica đã rõ ràng chứng thực điều đó.
Tác giả E. Ostrowski xác định một số sách của Cố Girolamo Maiorica: Thiên Chúa Thánh Giáo Khaỉ Mông, Đức Chúa Giê-su (Chi-Thu, Chi-Su), Doṇ Mình Trước Chiụ Cô-mô-nhong, Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tôị Kinh, Qua-da-giê-si-ma Mùa Ăn Chay Ca,̉ Những Điều Ngắm Trong Những Ngày Lễ Trong̣ Quyên̉ Chi Nhất, Ông Thánh I-na-xu Truyên,̣ … Và môṭ số chủ đề và tựa đề các tác phâm̉ cuả cha Girolamo Maiorica nhưng chưa được tìm thấy: Kicḥ về cuôc̣ đời thánh Alêxù, suy gẫm về tình yêu Đức Kitô, về các tôị cuả lưỡi, về đức khiết tinh,̣ về tử đao,̣ Sách Gương Phúc Gương Tôi,̣ Kinh Đoc̣ Sớm Tối [136].
Sách Thiên Chúa Thánh Giáo Khaỉ Mông rất có thể là cuốn sách đầu tay cuả cha Girolamo Maiorica, hoàn thành vào khoảng trước năm 1634, được soaṇ dựa trên tác phẩm cuả thánh Rôbertô Bellarminô, viết theo lênḥ cuả Giáo Hoàng Clêmentê VIII, vào năm 1597-1598 cho giới bình dân và trẻem. Ở đây xin tìm hiểu thời Cố Maiorica, rồi đến thời Đắc Lộ, Kinh Lạy Cha, có những thể dạng như thế nào. Và đi đến bản 1905. Đây là những dữ kiện lịch sử của chữ Quốc ngữ lúc bình minh.
Để có một ý niệm khá tiêu chuẩn về sinh hoạt của Quốc ngữ, tưởng không có gì chính đáng hơn là tìm hiểu Kinh Lạy Cha trong Cơ Đốc giáo, từ thuở khai sinh của kinh ấy. Kinh Lạy Ca trong Lịch sử ngôn ngữ, có từ năm 1632, tiến hoá đến năm 1905, thì văn bản trở thành giống như Kinh hiện nay của Giáo Hội Ky Tô Việt Nam. Khởi từ Thiên Chúa Thánh Giáo Khaỉ Mông của Linh mục Girolamo Maiorica, rồi hiện diện qua từ ngữ có trong ba tác phẩm của Cố Đắc Lộ, Phép Giảng Tám Ngày, Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng Annam hay Đông kinh, Từ điển Annam-Lusitan-Latinh [137] hay thường biết qua cụm từ Việt-Bồ-La.
Dòng Tên đã có ước lệ trong việc soạn thảo từ điển dùng La mã tự để chuyển tiếng nói thổ địa Nhật Bản và Trung hoa; điều này cho thấy ảnh hưởng quan trọng của tiếng Bồ-Đào-Nha trong giai đoạn đầu của quá trình truyền đạo ở Đông Á. Hai nhà truyền đạo dòng Tên tiên phong ở xứ Trung là Michele Ruggieri (1543-1607) và Matteo Ricci (1552-1610) đều là người Ý cho ra đời Bồ Hán Từ Điển 葡漢辭典, cuốn tự điển đầu tiên dùng chữ La Tinh một cách có hệ thống để phiên âm chữ Hán. Các tài liệu về Bồ Hán Từ Điển có thể tìm thấy từ Viện Ricci, Đại Học San Francisco – Courtesy of the Ricci Institute, University of San Francisco.
Trong bài Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes – Kinh Lạy Cha (phần 5A), nhà ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông [138], phân tích Kinh với nhiều khả năng nhận xét rất cao. Xin theo Ông dưới đây.
Tiếng Trung gọi Kinh Lạy Cha là Thiên Chúa Kinh 天主經 hay Chúa/Chủ Đảo Văn 主禱文, tiếng Việt, Kinh Tại Thiên, Kinh Lạy Cha. Để truyền giáo, dịch là một trong những công việc chuyển ngữ đầu tiên và cần thiết ngay cả trước Kinh Thánh. Kinh tóm tắt hầu như tất cả nội dung của Kinh Thánh, các yếu tố thần học quan trọng như tin/xin/giữ/chịu/làm, cũng như là lời cầu nguyện của chính Chúa Giê Su truyền lại. Dịch từ bản gốc tiếng Latinh, dịch từ Bản Hy Lạp cổ, (Vulgate): Pater noster, qui es in caelis, sanctificetur nomen tuum, adveniat regnum tuum, fiat voluntas tua, sicut in caelo, et in terra. Panem nostrum supersubstantialem da nobis hodie; et dimitte nobis debita nostra, sicut et nos dimittimus debitoribus nostris; et ne inducas nos in tentationem; sed libera nos a Malo.
Bản kinh Latinh có 49 chữ [139] và dùng vài từ nguyên bản Hi Lạp cổ; như supersubstantialem hàng ngày, debita (nợ); debita (debitum) quq quốc ngữ thành nợ (tiền bạc), nhưng phải hiểu thêm, debita có thể chỉ tội lỗi/sai trái dựa vào các ngôn ngữ cổ, tỷ dụ như tiếng Aramaic. Tiếng Anh có lúc dùng trespass vi phạm so với debt (nợ), tiếng Pháp dùng chữ offense (xúc phạm).

Từ giữa thế kỷ XVI, Kinh Lạy Cha đã được xuất bản qua 22 ngôn ngữ, theo ghi chép trong cuốn (1555) Mithridates. De differentiis linguarum, Về sự khác biệt của ngôn ngữ, của học giả Thụy Sĩ Conrad Gessner (1516-1565). Học giả người Anh Dan Brown (1713) viết cuốn The Lord’s Prayer in above 100 Languages, Versions and Characters, Kinh Lạy Cha bằng hơn 100 ngôn ngữ, phiên bản và ký tự.

Trong sách Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội công giáo Việt Nam, Roland Jacques có ghi liên quan đến Kinh Lạy Cha bản 1632.
Cách viết ciúm ~ chúng dùng tám lần trong kinh cũng giống như cách kí âm trong Bồ Hán Từ Điển 葡漢辭典 (1579) của các Linh mục Michele Ruggieri / Matteo Ricci.
Do đó, ta có thể giải thích được các tương quan bum ~ vâng (liên hệ bồ – việt vào thời Việt Bồ La khá rõ nét trong tiếng Việt – xem thêm chữ bẽi ~ vậy), sám ~ sáng, bum ~ vâng (liên hệ bồ -việt), bàm ~ bằng (dùng hai lần), cium ~ chưng (dùng bốn lần), tlom ~ trông, hàm ~ hằng/hàng, dum ~ dùng.
Cách viết cia ~ cha cũng từ thời Ruggieri, Ricci đổi ci- thành ch-. Việt Bồ La hoàn toàn dùng ch- thay vì ci-; và vẫn còn dùng dạng bl- như blời ~ trời, và cả hai dạng tlên và trên.
Cách dùng chữ ít khá lạ, theo Việt Bồ La, nghĩa là cũng là (etiam/Latinh).
Bản Kinh Lạy Cha năm 1632 có 70 chữ. Tất nhiên, không thấy de Rhodes đề cập trực tiếp đến nội dung kinh trong các tác phẩm của ông, nhưng lại ghi tất cả các từ liên hệ đến kinh; như cha/chưng/danh/chúng tôi/kẻ/tai/dữ … nhất là các đoạn quan trọng; Việt Bồ La VBL, Phép Giảng Tám Ngày PGTN, Bản Báo Cáo BBC:
– Ở trên trời (mục trên/tlên VBL 809)
– Cha chúng tôi ở trên trời, Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (BBC trang 19)
– Danh cha cả sáng (danh Đức Chúa Trời cả sáng PGTN trang 319)
– Hàng ngày dùng đủ (ghi lại hai lần: mục dùng và mục đủ – VBL)
– Mà tha nợ chúng tôi (mục nợ VBL trang 564)
– Ít (nghĩa là cũng như – một cách dùng đặc biệt vào thời LM de Rhodes – VBL trang 352)
Từ Danh dùng thay cho Tên vì nét nghĩa rộng hàm ý tiếng tăm, cách sống/đạo đức.
Từ Chưng xuất hiện bốn lần trong Kinh Lạy Cha 1632: VBL giải thích là một phụ từ làm cho câu thêm đầy đủ (particula expletiva/Latinh), cũng như giải thích của Béhaine/Taberd (particula auxiliaris/Latinh ~ phụ từ). Chưng có một dạng chữ Nôm là trưng 徵 hay 烝 蒸 (một trong nhiều nét nghĩa của chưng là cất, hấp/chưng): Bằng tôi nào thửa ích chưng dân Nguyễn Trãi, ỨcTrai Thi Tập, Tôi bỗng một mình lạc đến chưng đây Thiên Nam Ngữ Lục … Kí ức tập thể của dân gian qua câu ca dao sau đây cho thấy chưng đã từng được dùng thường: Tôi đi tìm bạn tôi đây / Bạn thấy tôi khó chưng nay chẳng chào.
Từ điển chữ Nôm hiện đại: 徵 chưng [chuỷ, rưng, trâng, trưng] U+5FB5, bộ xích 彳, phồn thể, hình thanh & hội ý. Từ điển Hồ Lê, vì chưng; chưng diện; chưng bày. Hai chữ chưng 烝 蒸 bộ hoả, dùng trong chưng thịt hay bánh chưng.

Bản Kinh Lạy Cha 1603 chuẩn hoá theo từ điển VBL có từ quốc (cuốc/VBL) nghĩa là nước (quốc gia) trong cách dùng quốc (cuốc) cha trị đến, cả hai chữ nước và quốc Hán Việt U+570B 國 đều hiện diện vào thời VBL, nhưng nước dùng nhiều hơn, như trong Phép Giảng Tám Ngày: nước Ngô (trang 12, 111), nước Đại Minh (trang 104, 112,126), nước Judaea (trang 164, 144, 125, 173 …), nước Israel (trang 271), giảng tin lành sự quốc trên trời (trang 182), quốc trên trời đã đến gần (trang 177), mà chẳng có khi nào làm việc tiểu gì lành (trang 254), Thiên Trúc quốc (trang 105, 108, 109,110), Nước India (trang 105, tức là nước Thiên Trúc Ấn Độ),
Cố de Rhodes và cộng sự viên có khuynh hướng giữ nguyên dạng tiếng gốc thay vì kí âm gần đúng bằng tiếng Việt (chữ quốc ngữ) như Cố Majorica với nhiều tiếng Việt kí âm hơn. Lại có lúc dùng nước và quốc trong cùng một đoạn văn như nước Thiên Trúc trong PGTN (trang 110); so với các bản Nôm của Majorica trong Thiên Chúa thánh giáo khải mông TCTGKM; phần miệng kẻ còn ở nước Thiên Trúc (trang 109, 112, 114); quốc (cuốc) cha trị đến (trang 98, 99). – Đôi khi, quốc và nước đều hiện diện trong cùng một đoạn văn (trang 99).
Xin để ý, Từ thời vua Trần Nhân Tông (1208-1358), quốc 國 (quốc gia) đã hiện diện so với nước 渃 (chất lỏng). Tự điển Nôm, chữ quốc (như tổ quốc); 囯,囻,国,國. Trong khi nước (lỏng) viết, 匿, 渃. Nôm viết nước trong đất nước bằng ký tự U+2BB54.
Từ điển Việt Bồ La trang 575-576, chữ nước đã có 2 định nghĩa rõ rệt, nước agoa, aqua như nước lả, nước gà nấu, nước bl(tr)ái nho, vv …, có cả ngã nước hay phải nước fesche mal a agoa, aquailli nocuit. Và nước reyno, regnum như làng nước, trị nước, nước annam, …
Trang 629 và 639 VBL trong tư liệu của chúng tôi, bị bỏ trống nên không tra được chữ quốc, dừng ở quội (thằng quội, nói quội), quôn, quờn, quợn. Nhưng trang 142 cho chữ cuốc, nước, (quốc) reino, regnum.
Cụm từ Quân quốc (exercitus/Latinh) là quân lính/quân đội của nước, lại thường gặp trong các văn bản chữ Nôm/Quốc Ngữ thời Cố Đắc Lộ. Tỉ dụ trong Phép Giảng Tám ngày trang 21: có đại thần cả và nước và quân quốc đều cùng thiên hạ đi cùng; bản Latinh multa militum frequentia, sự hiện diện đông đảo của binh lính. Trong Thiên Chúa Thánh Giáo Khaỉ Mông trang làm dấu Câu-Rút trên mình cho thiên hạ được biết ta là quân quốc về vua cả trên hết các vua. Quân quốc là cách dùng để Việt hóa quốc quân Hán Việt 國軍 ở thế kỷ 17.

Các cứ liệu VBL/PGTN và TCTGKM chưa thấy dùng tên Kinh LạyCha, nhưng có những cách gọi khác như:
– Kinh Chúa (per Orationem Dominicam/L – Phép Gỉang Tám Ngày trang 306): mà quỳ gối nguyện một kinh Chúa. Lại nguyện một kinh Ave, xin cùng rất thánh đồng thân Maria, là đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi.
– Kinh Đức Chúa Giê Su (est Orationis Dominica/L – PGTN trang 133): Vì vậy thì nên trao kinh Đức Chúa Giê Su và kinh đức Chúa Bà Maria, cùng kinh mười hai đầy tớ cả, cho học thuộc lòng.
– Kinh Tại Thiên dùng 7 lần trong Thiên Chúa Thánh Giáo KhaỉMông: Khi ấy dạy tôi Kinh Tại Thiên, A-Ve cùng Kinh Tin Đức Yếu Đoan, trang 18.
Trong cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông / TCTGKM, Cố Majorica dành một số trang để giải thích căn kẽ từng câu và chữ quan trọng trong Kinh Lạy Cha, từ trang 96 đến trang
- Từ các từ vựng này, kinh này có thể được phục hồi sau khi dịch từ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ hiện đại. (Nguyễn Cung Thông). Các chữ in đậm là trích từ TCTGKM, các chữ khác là thêm vào cho rõ nghĩa dựa vào bản 1632. Dưới đây là Kinh Cố Maiorica.
Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng. Quốc cha trị đến, ý Cha vâng dưới đất bằng chưng trời vậy. Chúng tôi trông Cha rày cho hàng ngày dùng đủ, mà tha nợ chúng tôi bằng chúng tôi cùng tha nợ (kẻ có nợ chúng tôi vậy). Lại chớ để chúng tôi sa chưng cám dỗ, bèn chữa chưng sự dữ. A-men.
Trong văn bản Nôm, Linh Mục Majorica thường viết Kinh Tại Thiên 經在天, có thể do ảnh hưởng tài liệu của các giáo sĩ dòng Tên tiên phong như Matteo Ricci (1552-1610); chẳng hạn. Cha Ricci dịch ra như sau: 在天我等父者 Tại thiên ngã đẳng phụ giả / 我等願爾名見聖 Ngã đẳng nguyện nhĩ danh kiến thánh… Thành ra, khi đọc kinh này, ta thường nhớ mấy chữ đầu, và kết quả là có tên Kinh Tại Thiên (ở trên trời). Hai câu trên theo tiếng Trung Hoa thời nay là 我們的天父 Ngã môn đích thiên phụ / 願祢的名受顯揚 Nguyện nể đích danh thụ hiển dương…

Bản Kinh Lạy Cha bằng chữ Hán (1713) trích từ cuốn The Lord’s Prayer in above 100 Languages, Versions and Characters của Dan Brown, theo Nguyễn Cung Thông, có thể dùng để dựng KLC vào khoảng những năm 1700-1750 (có tất cả 79 chữ):
Chúng tôi lậy thiên địa chân chúa ở trên blời là cha chúng tôi. Chúng tôi nguyện danh [cha] cả sáng. Cuốc cha trị đến. Vâng ý Cha [làm] dưới đất bằng trên blời vậy. Chúng tôi xin cha rày [cho] chúng tôi
hằng ngày dùng đủ. Mà tha nợ chúng tôi bằng chúng tôi cũ tha kẻ có nợ chúng tôi vậy. Xin chớ để chúng tôi sa chưng cám dỗ. Bèn chữa chúng tôi chưng sự dữ.
Để ý cách dùng tên Chúa Kinh主經 Kinh Chúa/Chủ như trong PGTN, và câu 在天我等父者 tại thiên ngã đẳng phụ giả (chép lại rất đơn giản/thiếu nét).
Tiếp theo, xin kể lịch trình tiến hoá của Kinh Lạy Cha 1632 cho đến 1905, và cuối cùng là Kinh hiện đại dùng ở Việt Nam (2017)
- Kinh Lạy Cha vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, Nguyễn Cung Thông chép lại theo nguyên bản chữ La Tinh – Nôm – quốc ngữ trong Sách Các Phép 1736 – Giám mục Bishop Hilario a Jesu Costa, O.A.D). Cha chúng tôi là kẻ ở trên trời (mlời) xin cho tên (tin) người nên thánh nước người cai trị đến (ðến) vưng ý (êý) ở dưới đất bằng trên trời (mlời) vậy hãy ban cho chúng tôi hôm nay của ăn chúng tôi quen dùng mọi ngày cùng (cũ) tha cho chúng tôi nhữn nợ (nhớ/nữa/nứa) chúng tôi bằng chúng tôi cũng tha kẻ có nợ (nữa) chúng tôi vậy xin (cũ) chớ để chúng tôi sa chưng cám dỗ (deồ) bèn chữa chúng tôi khỏi sự dữ.
- Kinh Lạy Cha trích từ tác phẩm (1787) Saggio practicco delle Lingue con prolegomeni e una raccolta di orazioni dominicali in più di trecento lingue e dialetti Giới thiệu kinh Lạy Cha qua hơn 300 các ngôn ngữ và phương ngữ trên thế giới (NCT) trang 134.Tác giả là Linh Mục dòng Tên Lorenzo Hervás y Panduro (1735-1809), một nhà ngôn ngữ nổi tiếng với nhiều tác phẩm có giá trị.
- Kinh Lạy Cha trích từ cuốn Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ”/TGYLQN của Cố Pigneau de Béhaine (Bá-Đa-Lộc), xuất bản năm 1774 (Quảng Đông) và tái bản (Đàng Trong, 1837): Lạy Cha chúng tôi ở trên trời, chúng tôi nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến, vâng ý Cha làm dưới đất bằng trên trời vậy chúng tôi xin rày hằng ngày dùng đủ, và tha nợ chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi, lại chớ để chúng tôi phải sa cám dỗ, bèn chữa chúng tôi cho khỏi sự dữ. A-men.
- Kinh Lạy Cha năm 1855, bản chữ Nôm trong Notice sur le langue annamique, tác giả Léon de Rosny (1855), Nguyễn Cung Thông chuyển qua chữ quốc ngữ hiện đại. Chữ hay dấu hiệu o chỉ cách ngắt câu vào thời bấy giờ. Để ý là có tất cả 49 chữ. Năm xuất bản KLC này (1855) là thời kỳ bang giao giữa Pháp và Đại Nam rất căng thẳng. Lạy cha chúng tôi ở trên trời o danh cha cả sáng o ý cha làm dưới đất bằng trời vậy o xin hàng ngày dùng đủ o cùng tha nợ chúng tôi như chúng tôi tha kẻ có nợ chúng tôi chớ để sa cám dỗ bèn cứu cho khỏi sự dữ o. Nguyên cả câu Quốc Cha trị đến, cắt bỏ trong kinh này.
- Kinh Lạy Cha năm 1870 trích từ cuốn The Lord’s Prayer in 250 Languages and 180 Forms of Writing Chủ biên Pietro Marietti, Wendell Jordan S. Krieg – NXB Brain Books (1870). Có tất cả 77 chữ.
- Kinh Lạy Cha năm 1891 (có tất cả 63 chữ) trong cuốn The Lord’s Prayer in Five Hundred Languages (KLC dịch ra 500 ngôn ngữ/NCT) của nhà Đông phương học Reinhold Rost (1822-1896).
- Kinh Lạy Cha vào năm 1905 trích từ trang https://antontruongthang.com/suy-ni%E1%BB%87m/abba-b%E1%BB%91- %C6%A1i-kinh-l%E1%BA%A1y-cha-pater-noster/ có tất cả 70 chữ.
- Và, Kinh Lạy Cha tiếng Việt hiện đại (2017) có tất cả 71 chữ hay 72 chữ. Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi (mọi) sự dữ.
Nguyễn Cung Thông viết: Kinh Lạy Cha là cánh cửa sổ hé mở cho ta xem lại quá trình hình thành của chữ quốc ngữ, từ cách viết thời sơ khai cho đến bây giờ, cũng như cách dùng (phạm trù nghĩa) của tiếng Việt theo trục thời gian và không gian (tiếng địa phương). Trước đây ba thế kỷ, không ai hiểu Kinh Lạy Cha là kinh gì, cũng như không ai dùng phụ từ chưng trong tiếng Việt hiện đại. Tuy vỏn vẹn chỉ có vài chục chữ, mà một số lại là lặp lại (như cách dùng chúng tôi, chưng), nhưng KLC không thiếu chiều sâu lịch sử cũng như tư tưởng.
Đây không phải để phát biểu chỉ có Kinh Lạy Cha trong Kinh thư Gia Tô, làm gốc mối và
tiêu biểu cho phát triển quốc ngữ. Bản

Kinh Kính Mừng bằng chữ Nôm có từ tiền bán thế kỷ 17. Linh Mục Majorica đã dịch ra chữ Nôm bản kinh trong Thiên Chúa Thánh Giáo Khaỉ Mông và giải thích rất chi tiết từ trang 109 đến trang 116. Từ Nôm tự, Nguyễn Cung Thông, tạm phục nguyên Kinh A Ve thời Majorica như sau: A Ve Ma Ri A, đầy ga ra sa, Chúa Dêu ở cùng Bà, nữ trung Bà có phúc lạ, Bà thai tử Giê Su, Người là Mẹ Đức Chúa Trời, thì xin cầu cho chúng tôi vì là kẻ có tội , lại xin phù hộ khi còn sống và khi rình qua đời.
Nhận xét về các bản Nôm Maiorica và chữ quốc ngữ de Rhodes: Kinh Kính Mừng có tên là kinh Ave (so với cách gọi Kinh Lạy Cha là kinh Thiên Chúa / kinh Tại Thiên vào cùng thời kì. Ghi âm các tiếng La Tinh trực tiếp như Ave, Maria, gratia, Giê Su (~ Da Tô), Deo (hay Dêu ~ Chúa trời), A Men – không có dịch ra ngôn ngữ bản địa như bây giờ.
Trong Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ (thư viện tòa thánh La Mã), có hình chụp bản Nôm Kinh Ave, gồm 56 chữ. Nguyễn Cung Thông dịch: Kinh o A Ve Ma Ri A o đầy ga ra sa o đức Chúa Trời ở cùng bà o có phúc lạ hơn mọi nữ o và Giê Su con lòng bà gồm phúc lạ o Sang Ta Ma Ri A o đức Mẹ Chúa Trời o khi nay cầu cho chúng tôi o là kẻ có tội o đến khi chết lại cầu giữ o A Miên (Men)”. Đầy ga ra sa (gratia), đầy ân phúc. Sang Ta, không có chữ Nôm tương đương.

Cho đến giữa thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân Pháp, các nhà xuất bản Công giáo ở Việt Nam cũng đã cung cấp cho người theo đạo Thiên chúa nhiều sách bằng chữ Nôm và chữ Hán Việt.
Tại sao Francisco de Pina và những người kế nhiệm ông lại dành nhiều công sức và bí quyết như vậy để tạo ra và sau đó phát triển chữ viết La Mã, quốc ngữ nổi tiếng? Thực tế là nó được thiết kế trước hết cho, và nhằm mục đích sử dụng của các nhà truyền giáo. Nó cung cấp cho họ một giao diện rất thuận tiện với ngôn ngữ nói. Ngoài ra, nó còn cung cấp cho họ một phương tiện trao đổi trí tuệ và giao tiếp bằng văn bản với các nhà lãnh đạo chính của cộng đồng Thiên chúa giáo người Việt, những người được yêu cầu học chữ viết mới vì mục đích này. Tình trạng đó, đặc trưng bởi sự phổ biến rất hạn chế của chữ quốc ngữ khi mới bắt đầu, sẽ phát triển chậm từ giữa thế kỷ 17. Chỉ khi đó việc viết theo thứ tự bảng chữ cái mới bắt đầu trở nên phổ biến hơn trong cộng đồng Cơ đốc giáo; điều này sẽ vì lý do an ninh khi đối mặt với chế độ thẩm tra, và có lẽ cũng vì tính dễ sử dụng của nó.
Xin đọc André Marillier, Cha chúng ta trong đức tin. Ghi chú về giáo sĩ Công giáo Bắc Kỳ từ 1666 đến 1765, tập. 3, [Paris], Các Giáo Hội Châu Á, [1995], tr. 170-172, Nos pères dans la foi. Notes sur le clergé catholique du Tonkin de 1666 à 1765. Tác giả đã ghi chú một cách có hệ thống trong kho lưu trữ của Hội Truyền Giáo Paris những ám chỉ liên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ và hai chữ viết Nôm và Quốc ngữ; những kết luận ông rút ra hoàn toàn phù hợp với những gì được trình bày ở đây. Điều này đòi hỏi phải sửa lại những quan niệm thành kiến đã có trước ; xin đưa ra một ví dụ, một quan điểm rất ôn hòa, của Jean Comby: Alexandre de Rhodes không phải là người phát minh ra quốc ngữ, nhưng ông đã góp phần vào việc khái quát hóa nó (Alexandre de Rhodes n’est pas l’inventeur du quốc ngữ, mais il a contribué à sa généralisation, Deux mille ans d’évangélisation, Tournai, Desclée, 1992, p. 165-166).
Nói về sự khái quát hóa Quốc ngữ ở thế kỷ 17 là hoàn toàn lỗi thời, vì quốc ngữ chưa phôi thai hoàn toàn. Điều tương tự cũng xảy ra với khẳng định của Henri Bernard-Maître: Alexandre de Rhodes phải được coi là người truyền bá chính cho phát minh xuất sắc này,
Alexandre de Rhodes doit être considéré comme le principal propagateur de cette géniale invention (Le P. de Rhodes et les Missions d’Indochine 1615-1645 », in Simon Delacroix (dir.), Histoire universelle des Missions catholiques, t. II, Paris, Grund, [1957], p. 53-69 : p. 57.
Quả thực, các tác phẩm in của Rhodes rất ít được truyền bá khi ấy! Chỉ được xử dụng vào những năm 1651 trong phạm vi và môi trường truyền giáo Propaganda Fides.
Trong bài báo Khảo về chữ Quốc Ngữ đăng trên tạp chí Nam phong số 122, năm 1927, học giả Phạm Quỳnh đã cho rằng: chữ Quốc Ngữ là do các cố Tây sang giảng đạo bên Việt Nam đặt ra vào đầu thế kỷ XVII; các cố đó, người Bồ Đào Nha có, người Ý Đại Lợi có, người Pháp Lan Tây có, chắc cùng nhau nghĩ đặt, châm chước, sửa sang trong lâu năm, chứ không phải một người nào làm ra một mình vậy.
La ngữ âm hóa Tiếng Việt đáng ghi nhớ là những Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar do Amaral, António de Barbosa, Girolarmo Majorica và Onofre Borgès, mà trong số đó người đầu tiên đáng được ghi nhớ nhất, và lẽ tất nhiên, là Francisco de Pina đáng phải được tôn vinh như là người khai sinh ra chữ Quốc Ngữ.
Và hôm nay để suy gẫm: Francisco de Pina là cha đẻ của quốc ngữ và Alexandre de Rhodes là Bố đỡ đầu [140], Godfather!
La Farigoule tháng 9 năm 2024
Bất Tiếu Nguyễn Quốc Bảo
Ngoài những sách đã dẫn ở đầu bài, dưới đây là các tài liệu tham khảo khác.
- Léonard Aurousseau “Sur le nom de Cochinchine” – Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, Année 1924, Tome XXIV, pp. 563-579.
- Nguyễn Đình Đầu: “Chữ Nôm và vai trò của nó trong văn học Việt Nam”: Tác phẩm này phân tích sự phát triển của chữ Nôm và những khó khăn mà nó gặp phải trong việc phổ biến.
- Trần Duy Nhiên: Nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các giáo sĩ Dòng Tên tại Việt Nam: Tác phẩm này đưa ra cái nhìn tổng quan về hoạt động truyền giáo của Dòng Tên và ảnh hưởng của họ đến văn hóa Việt Nam.
- Bùi Kha: Phê bình các tác phẩm về lịch sử truyền giáo / “Lịch sử truyền giáo và các giáo sĩ tại Việt Nam”
- Antôn Bùi Kim Phong: “Một số suy nghĩ về sự hiện diện của Công giáo ở Việt Nam”
- Trần Đức Anh Sơn: “Cochinchina với ý nghĩa là Nam Kỳ (giai đoạn 1862 – 1883) trên một bản đồ vẽ 3 kỳ của Việt Nam thời Pháp thuộc”
- Nguyễn Duy Chính:”A Voyage to Madagascar and the East Indies” – Tác phẩm dịch từ Alexis Rochon, có phần chú thích về tên gọi Cochinchina trong bối cảnh lịch sử Việt Nam.
- Tomé Pires: “Suma Oriental” – Tác phẩm ghi chép về các chuyến thám hiểm, trong đó có đề cập đến tên gọi Cauchy Chyna để chỉ nước Đại Việt.
- Peter C. Phan:”Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes & Inculturation in Seventeenth-Century Vietnam” – Tác phẩm phân tích vai trò của Alexandre de Rhodes trong bối cảnh truyền giáo tại Việt Nam.
- G. Ferrand: “Le K’ouen-louen et les anciennes navigations interocéaniques dans les mers du sud”
- Fernão Mendes Pinto: “Peregrinação”: Tác phẩm ghi chép về các cuộc phiêu lưu của tác giả, trong đó có những trải nghiệm dọc theo bờ biển Bán đảo Đông Dương vào năm 1540. Ông đã mô tả các mối quan hệ thương mại và văn hóa giữa người Bồ Đào Nha và các vùng đất châu Á.
- Alphons Mulders: “Les Missions Jésuites au Vietnam”
- Manuel Teixeira: “Os Portugueses na Ásia”: Tác phẩm đề cập đến sự hiện diện của người Bồ Đào Nha ở châu Á, trong đó có cả Việt Nam và mối liên hệ thương mại.
- Cố Thảo Poncet: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (1941): Cố Poncet đã viết về những
người An Nam đầu tiên theo đạo Công giáo, và ông đề cập đến các sự kiện lịch sử liên quan đến các nhà truyền giáo ở Việt Nam, cùng với những thông tin trong gia phả họ Đỗ.
Sách chữ Nôm của Cố Maiôrica
Ngày nay, chỉ còn lại 15 tác phẩm chữ Nôm trong số 48 của Cố Maiorica, tổng cộng 4,200 trang và 1,2 triệu chữ Nôm. Phần lớn được lưu trữ tại Thư viện quốc gia Pháp ở Paris. Hầu hết các tác phẩm của Ngài đều có tựa đề bằng chữ Hán, mặc dù nội dung được viết bằng chữ Nôm. Một số văn bản được cho là của Cố được xác định bằng cụm từ Nôm xuất hiện ở phần đầu, Giê-su hội sĩ Giê-rô-ni-mô Mai-ô-ri-ca thuật 技秋㑹士支由尼謨梅烏移(X)哥述.Trên đây thiếu chữ ca (X) Nôm nguyên bản, tôi không có Unicode để gõ. Tôi thế bằng Nôm tự U+54E5 哥 ca như trong đại ca. Nếu viết theo dạng Hán ngữ, thì bính âm sẽ đọc, Jì qiū huì shì zhī yóu ní mó méi wū yí (X) gē shù.
Dưới đây danh sách một số tác phẩm chữ Nôm của Cố Maiorca. Ngoài ra, Linh mục Philipphê Bỉnh SJ. còn nêu ra trong một bài viết, Giáo sĩ Thừa sai Maiorica cũng tham gia vào nỗ lực dịch các lời cầu nguyện trong Thánh lễ sang tiếng Việt (Nôm).Xin lưu ý, đọc các sách tiếng Việt chữ Nôm này, cũng như đọc văn bản Nôm của Kim Vân Kiều truyện.
- Đức Chúa Giê-su 德主支秋 [The Virtuous Lord Jesus] – dựa trên Phúc âm, based on the Gospels.
- Dọn mình trước chịu Cô-mô-nhong 扽命略召姑模戎 [Preparing Oneself Before Receiving Communion]
- Thiên Chúa thánh giáo hối tội kinh 天主聖教悔罪經 [The Classic of Repentance (theo Thánh Giáo lý của Chúa trên trời, according to the Holy Teaching of the Heavenly Lord)].
- Thiên Chúa thánh giáo khải mông 天主聖教啟蒙 [Enlightenment in the Holy Teaching of the Heavenly Lord] (1623) – dựa trên Sách Giáo lý tiếng Ý của Robert Bellarmine, based on the Italian-language catechism by Robert Bellarmine.
- Kinh những lễ mùa Phục sinh 經仍禮務復生 [The Classic of Masses of the Easter Season]
- Qua-da-giê-si-ma, Mùa ăn chay cả 戈椰支差嗎務咹齋奇 [Quadragesima, The Great Season of Fasting]
- Những điều ngắm trong các ngày lễ trọng 仍調吟 各 禮重 [Things to Ponder on the Solemnities]
- Thiên Chúa thánh mẫu 天主聖母 [The Holy Mother of the Heavenly Lord]
- Các Thánh truyện 各聖傳 [Stories of the Saints] (1646)
- Ông Thánh I-na-xu truyện 翁聖衣那樞傳 [The Story of St. Ignatius] (1634)
- Ông Thánh Phan-chi-cô Xa-vi-e truyện 翁聖幡支姑車為 傳 [The Story of Saint Francis Xavier]
- Truyện Bà Thánh I-sa-ve 傳妑聖衣沙蟡 [The Story of Saint Elizabeth]
- Sách gương phúc gương tội 冊 福 罪 [Book of Models of Happiness and of Sins] (thất lạc)
- Kinh đọc sớm tối 經讀 最 [Matins and Vigil Prayers] (thất lạc)
———————
Chú thích:
[124] Xin xem, tỉ dụ như Nicole-Dominique LE, Les Missions Étrangères et la pénétration française au Viêt-Nam, Paris / La Haye, Mouton, 1975 ; THE Hâng, « L’Église catholique et la colonisation française », in Les Catholiques et le mouvement national, Études Vietnamiennes (Hà Nôi)n°53, 1978, p. 9-81 ; Trần Tam Tỉnh, Dieu et César : les catholiques dans l’histoire du Viêt Nam, Paris, Sudestasie, 1978 ; [Collectif] Một số vấn đề lịch sử Đạo Thiên Chúa trong Lịch sử dân tộc Việt Nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11 và 12-3-1988. Sự di dân qua đạo Kitô của người Việt trên thực tế đang bị chia rẽ. Nhiều người Công giáo tuyên xưng sùng kính Alexandre de Rhodes, điều này không phải lúc nào cũng an toàn trước phản ứng cường điệu quá khích. Các giới khác, tự xưng là theo chủ nghĩa dân tộc, thì sự sùng bái dành cho Rhodes một người Pháp, như một nhà hảo tâm lỗi lạc của Việt Nam, đối với họ, dường như là một nỗ lực nhằm biện minh cho việc thuộc địa hóa Việt Nam và bị lên án như vậy.
[125] Accord de Bangkok du 5 décembre 1786 » Pierre-Yves Manguin, dans Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802), Paris, EFEO, 1984, p. 55-73 ; ainsi que le texte p. 62-67.
[126] Đối với các tài liệu lưu trữ có liên quan của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, hãy xem các tài liệu Josef Franz SchûTTE, El ‘Archivo de Japon’, Vicisitudes del Archivo jesuitico del Extremo Oriente y del fondo existente en la Real Academia de la Historia de Madrid, Madrid, Real Academia de la Historia, 1964 ; et Antonio da Silva Rego, « Jesuitas na Âsia », in Biblioteca da Ajuda. Revista de Divulgaçâo, 1/1, 5.1980, p. 95-112 ; Maria Augusta da Veiga e Sousa, Roteiro e descriçâo sumâria dos documentos que existent, em microfilmes, na filmoteca do Centra de Estudos de Historia e Cartografia antiga [= BFUP n° 47], Lisbonne, 1986. Về tài liệu của Rôma, là Kho lưu trữ của Hiệp hội Chúa Giêsu (ARSI), nhất là tài liệu Jap.-Sin. et Fondo GESumco; ở mức độ thấp hơn, từ Thư viện Trung ương Quốc gia, Fondo GESUmco và Kho lưu trữ Truyền Giáo Fide. Tất cả các tổ chức này đều mở cửa cho các nhà nghiên cứu và cung cấp các công cụ nghiên cứu cần thiết.
[127] Vương Lộc (ed.), Annam dịch ngữ [Bản dịch thuật ngữ (tiếng Trung) cho An Nam], Hà Nội, Trung tâm Từ điển học, 1995. Đây là một bản chú giải thuật ngữ sử dụng của chính quyền Trung Quốc (Đế quốc Minh) chịu trách nhiệm trong quan hệ với các nước chư hầu.
[128] Alexandre de Rhodes, Histoire de la vie et de la glorieuse mort de cinq pères de la compagnie de Jésus, qui ont souffert au Japon. Avectrois séculiers, en l’année 1643, Paris, 1653. Lịch sử cuộc đời và cái chết vinh quang của năm vị linh mục của Dòng Chúa Giêsu, những người đã chịu đau khổ ở Nhật Bản. Với ba người thế tục, vào năm 1643
[129] Metelle Saccano, Relation des progrèz de la Foy au royaume de la Cochinchine es années 1646, et 1647, Paris, Sébastien et Gabriel Cramoisy, 1653, p. 129.
[130] Xem báo cáo thường niên của Gaspar do Amaral le 31.12.1632: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection Jesuitas na Âsia, volume 49/V/31, fol. 219V.
[131] Kenneth J. Gregerson, A Study of Middle Vietnamese Phonology , in Bulletin de la Société des études indochinoises, nouv. série 44/2, 1969, p. 131-193. Hoàng Thị Châu, Tiếng Việt trên các miền Đất nước (Phương ngữ học) Hà nội, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1989.
[132] Minh họa cho điều này được cung cấp bởi Phạm Xuân Hy, Ba bản Kinh Tin Kính bằng chữ Nôm, Trần Anh Dũng, Hàng Gíao phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995, Paris, tác giả xuất bản, 1996, tr. 487-503. Về chữ Nôm thì có rất nhiều thư mục bằng tiếng Việt. Roland Jacques chỉ trích dẫn: Trần Nghĩa, Giới thiệu chung, trong Danh mục sách Hán Nôm / Di sản Hán Nôm Việt Nam thiết mục Đề yếu, hướng dẫn của Trần Nghĩa và François Gros, Hà Nội, Ed. Khoa học xã hội, 1993, 1. 1, tr. 15-47; Nguyễn Đình Hòa, Chữ Nôm Hệ thống chữ viết bình dân ở Việt Nam, trong Journal of the American Oriental Society Tạp chí của Hiệp hội Đông phương Hoa Kỳ, 1959.
[133] Lê Thành Khôi, Histoire du Viêt Nam des origines à 1858, Paris, Sudestasie, 1982, p. 290.
[134] Uma copiosa liuraria de 48 volumes, que compos, ou uerteo nesta lingoa, e letra natiua » : Francisco Rangel, Annua du Tonkin 1659, ARSI, Jap.-Sin. 64, fol. 366V. Girolamo Maiorica một giáo sĩ Dòng Tên nười Ý ở Bắc Bộ. Xem Hoàng Xuân Hãn, « Girolamo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque nationale de Paris », in Archivum Historicum Societatis Iesu, 22, 1953, p. 203-214, Girolamo Majorica. Tác phẩm bằng tiếng Việt của ông được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Paris.
[135] Thế hệ tôi, lúc đi tu tại Chủng viện Thanh Hoá năm 1949, chỉ biết dùng từ Mình Thánh, tiếng Hán 命聖 mìngshèng.
[136] NGÔN NGỮ BIỂU TRƯNG TRONG GIÁO LÝ: SÁCH GIÁO LÝ CUẢ CHA GIROLAMO MAIORICA VÀ SÁNG KIẾN HÔỊ NHÂP̣ VĂN HOÁ – Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Hai Tính, S.J.
[137] Một trong những mạng để tra khảo là University Microfims International Michigan Uni. Google Book, Iniversithttps://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false
[138] Nghiên cứu tiếng Việt độc lập ở Melbourne (Úc) – địa chỉ nguyencungthong@yahoo.com. http://chimvie3.free.fr/baivo/nguyencungthong/ncthong_TiengVietDeRhodes_P05A_KinhLayCha.pdf
[139] So với bản dịch 49 chữ tiến Latinh, tiếng Anh thường dùng khoảng 55 chữ, tiếng Pháp khoảng 58 chữ, tiếng Bồ-Đào-Nha khoảng 59 chữ, tiếng Hán khoảng 55 chữ vào thời LM Matteo Ricci so với khoảng 80 chữ hiện nay; khôngkể A-men hay đoạn kinh vinh danh Đức Chúa Trời, thêm vào sau này (Doxology).
[140] Tiếng Trung Godfather gọi là Bọ.
*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 1)
*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 2).
*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 3)
*Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 4)
* Bất tiếu Nguyễn Quốc Bảo: A Lịch Sơn Đắc Lộ & chữ Quốc ngữ (Kỳ 5)