Đọc lại thơ Vũ Hoàng Chương

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương (1916-1976)
(ảnh: Cao Lĩnh)

Sau 50 năm theo đúng quy định, Viện Hàn lâm Thụy Điển đã công bố danh sách đề cử Giải Nobel Văn học năm 1972. 101 nhà văn đã được đề cử, trong đó có tên một nhà thơ Việt Nam: thi sĩ Vũ Hoàng Chương (1915-1976). Cuối cùng chủ nhân giải Nobel Văn học năm đó là nhà văn người Đức, Heinrich Böll (1917–1985). Một số tác phẩm của Heinrich Böll đã được xuất bản ở Việt Nam. Mặc dù vậy, chuyện này đã làm cho nhiều người Việt trong, ngoài nước cảm thấy tự hào và hy vọng một ngày nào đó, sau chính trị gia, nhà văn, nhà báo Hồ Hữu Tường (1910–1980, được đề cử giải Nobel Văn học năm 1969) và nhà thơ Vũ Hoàng Chương, Việt Nam sẽ lại có người được đề cử vào giải thưởng văn chương lâu đời này.

Báo chí trong nước cũng đưa tin về việc này, nhưng tất nhiên, là lờ đi chi tiết cả hai ông đều bị tù dưới chế độ cộng sản và đều chết vì điều kiện giam giữ hà khắc, tàn bạo của nhà tù cộng sản.

Nhân dịp này, DĐTK xin đăng một số bài viết cũ và mới, về nhà thơ, từng được xưng tụng là thi bá, Vũ Hoàng Chương.

*******

ĐỖ TRƯỜNG: VŨ HOÀNG CHƯƠNG, LẠC LOÀI TRONG CÕI NHÂN SINH

(Đỗ Trường viết nhân một trăm năm ngày sinh của thi sĩ Vũ Hoàng Chương 1915-2015)

Khi tiếng kêu đớn đau của thi sĩ Hàn Mặc Tử ở phương Nam chợt vụt tắt, thì vòm trời thi ca đất Việt dường như chỉ còn một Vũ Hoàng Chương đang quằn quại với những vết thương xé nát tâm hồn. Thì kỳ lạ thay, từ chính vết thương đang rỉ máu ấy lại vẽ ra một lối đi riêng, một con đường cho thi ca ngay từ buổi đầu đến với thơ mới. Nếu ai đó đã nói, thơ là tiếng nói hồn nhiên trong trẻo của tâm hồn, là tuổi thơ của loài người còn sót lại…thì quả thật với Vũ Hoàng Chương, nó lại là tiếng bi ai được cất lên từ nỗi đau rách nát của linh hồn. Chính vì vậy, thơ ông đã chạm đến tận cùng nỗi đau và sự cảm thông của con người. Để rồi thơ văn Vũ Hoàng Chương không chỉ đóng đinh vào lòng người, mà còn dán chặt tên tuổi ông vào nền văn học nước nhà. Ông viết nhiều thể loại, từ thơ, văn đến cả kịch thơ…Hơn hai chục tác phẩm tuy chưa hẳn đã là nhiều, nhưng chính tư tưởng, hình tượng nghệ thuật mới làm nên chân dung và sự nghiệp sáng tác đồ sộ Vũ Hoàng Chương.

Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 tại Nam Định, trong một gia đình nho giáo. Cha ông là quan tri huyện, mẹ ông cũng hay chữ, yêu văn học và âm nhạc, nên ông được học và tiếp cận với Hán văn từ nhỏ. Sau đó, Vũ Hoàng Chương học tiếp tiếng Pháp và vào học trung học, đỗ tú tài Pháp tại Hà Nội năm 1938. Đang học luật ông bỏ đi làm ngành hỏa xa và in tập Thơ Say đầu tay vào năm 1940. Năm 1941 ông theo học khoa toán, Đại học khoa học Hà Nội. Rồi một lần nữa ông lại bỏ xuống Hải Phòng dạy học và cùng với Chu Ngọc, Nguyễn Bính lập ra Ban Kịch Hà Nội. Năm 1943 ông in tập thơ Mây, rồi theo kháng chiến. Một thời gian sau ông bỏ kháng chiến về thành, rồi di cư vào Nam. Từ đây ông theo nghề dạy học và viết văn làm thơ. Thời gian này, ông viết nhiều, được dịch và in ra nhiều thứ tiếng. Do vậy, tên tuổi ông đến gần hơn với bạn đọc nước ngoài cũng như văn bút quốc tế.

Sau biến cố 30-4-1975 ông bị bắt vào tù và mất ngay sau đó vào tháng 9 năm 1976.

Có thể nói, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn của dân tộc. Nếu nhìn lại văn học sử, ta có thể thấy: Sau sự cổ vũ của các cụ Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh… Vũ Hoàng Chương góp phần không nhỏ, cùng với những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận…mở đường, tiên phong cho phong trào thơ mới từ những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi. Thơ ông sang trọng, giàu nhạc tính, tuy cách tân mà vẫn mang mang hoài cổ.

Tập Mây (in năm 1943) và Lửa Từ Bi (năm 1963) có thể chưa phải là những thi tập hay nhất của Vũ Hoàng Chương, nhưng với tôi, nó là hai tập thơ tiêu biểu nhất cho từng giai đoạn, tư tưởng cũng như thi pháp sáng tác của ông.

*Men khói “ba mươi năm” sầu dựng mộ.

Vũ Hoàng Chương xuất hiện vào thời kỳ cuối của phong trào thơ mới bằng tập Thơ Say. Nhưng phải đến thi tập Mây (năm 1943) tên tuổi ông mới được khẳng định trên thi đàn. Và tập thơ này đã làm rung động giới thưởng ngoạn, bởi giọng điệu thơ khác hẳn với những thi sĩ cùng thời.

Thật vậy, khi đọc và và nghiên cứu sâu về thơ Vũ Hoàng Chương, tôi mới chợt nhận ra cái tôi, cái riêng biệt trong thiên tình sử của ông, sao mà nó khác với những tuyên ngôn tình yêu, dành cho hội trường, đọc nơi đông người như trong thơ tình Xuân Diệu đến vậy. Với khoảng cách, sự trái ngược này, chỉ có cảm thụ của cá nhân người đọc mới có thể tự so sánh rạch ròi. Nếu được phép gắn ông hoàng, bà chúa cho thơ (tình) như người ta vẫn thường làm, với tôi chắc chắn vương miện đó phải được trao cho Vũ Hoàng Chương.

Sinh ra, lớn lên trong gia đình quyền quí, nhưng cuộc sống, tình yêu Vũ Hoàng Chương luôn tuyệt vọng, chán chường. Để tự thoát ra khỏi cuộc sống bơ vơ nơi địa ngục: “Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa/ Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh” ông đã treo hồn mình lơ lửng giữa vòm trời thi ca. Và Vũ Hoàng Chương không chỉ lạc loài giữa cõi nhân sinh hiện hữu này, mà chính linh hồn ông cũng lạc khỏi thân xác mình. Do vậy, đọc Vũ Hoàng Chương, ta có cảm giác thơ ông được chiết ra từ khói thuốc, men rượu trong những cơn chao đảo, thất tình điên loạn.

Vâng! Chỉ có những cơn say ấy mới có thể nhập linh hồn vào với thể xác, để thi nhân đủ can đảm đi đến tận cùng sự thật đắng cay. Và những tiếng kêu bi thảm đó, làm ta ngỡ trái tim người thi sĩ tựa hồ vỡ vụn. Biết bao đêm trường như vậy, nấm mồ sầu thảm đó vẫn được đong bằng nước mắt của thi nhân:

“Là thế là thôi là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyện ước
Tố của Hoàng ơi Tố của Anh

———————————–

Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của Ai”

(Mười hai tháng sáu)

Có lẽ, không có nỗi đau nào bằng sự đổ vỡ, phụ bạc của tình yêu, nhất là trái tim dễ vỡ của thi nhân. Và Vũ Hoàng Chương cũng không nằm ngoài cái qui luật đó “Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp/ Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”. Đứng trước sự bế tắc của xã hội và tình yêu nhà thơ luôn cảm thấy lạc loài, bơ vơ với cuộc sống đang hiện hữu, nên luôn luôn muốn từ bỏ, thoát ly nó, tìm đến cõi mộng ảo địa đàng. Thật vậy! Vũ Hoàng Chương đang trốn chạy, tìm nơi ẩn nấp. Và cứ tưởng rằng, trốn vào men say và khói thuốc, thì sẽ mất đi nỗi đau, sầu nhớ đó, nhưng rượu đã cạn, thuốc đã tàn càng buốt lạnh thêm tâm hồn thi nhân:

“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc
Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa
Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa
Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.

(Lá thư ngày trước)

Có thể nói, Mây là tập thơ hay và tiêu biểu về sự bế tắc tình yêu, cuộc sống của Vũ Hoàng Chương. Trong đó, có một số bài, một số câu thơ mới táo bạo đã đạt đến độ toàn bích. Có lẽ, ở thời điểm đó, ngoài Vũ Hoàng Chương không ai dám viết và viết hay được như vậy. Có một điều đặc biệt, đa phần những bài thơ hay của ông đều thuộc thể thất ngôn. Ta hãy đọc lại đoạn trích trong bài Đời Vắng Em Rồi, để thấy rõ sự chia ly và tình yêu đắng chát như vậy, nhưng lời thơ rất đẹp, nhẹ nhàng và trau chuốt:

“…Em ơi lửa tắt bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai”

———————————-

Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.”

Trong cuộc sống đầy thị phi này, có rất nhiều người có những mối tình đầu đổ vỡ, đắng cay. Nhưng thất vọng sầu thảm, gục mặt vào bồng bềnh men khói, tìm đam mê, khoái cảm, quên đi nỗi buồn dằng dặc như Vũ Hoàng Chương, thì quả thật trong văn học sử đất Việt, (ngoài Hàn Mặc Tử cùng thời) dường như chỉ có nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ (có thể) coi là hậu nhân của ông mà thôi.

Vũ Hoàng Chương là người giỏi Hán Văn và chịu nhiều ảnh hưởng Đường thi.

Mỗi lần đọc ông, ta lại thấy hồn cốt của Bạch Cư Dị, Lý Bạch… chợt hiện về. Những Đà Giang, Nghe Hát…đã nối dài thêm mạch chảy Tỳ Bà Hành, một thi phẩm gắn liền với tên tuổi Bạch Cư Dị. Và khi viết, ông sử dụng nhiều từ Hán Việt cũng như hình tượng điển tích, làm cho lời thơ sang trọng ẩn chứa thiền triết hoài cổ. Những nét phương đông cổ kính ấy cho ta cảm giác gần gũi lạ thường.

Tuy sâu sắc như vậy, nhưng thơ ông lại kén người đọc, nhất là tầng lớp bình dân và những người ít am hiểu văn học cũng như (tích tuồng) lịch sử. Đoạn trích trong bài Chân Hứng dưới đây, cho ta thấy rõ điều đó:

“Từ thuở chàng say ôm vũ trụ
Thu trong bầu rượu một đêm trăng.
Nhảy xuống muôn trùng sông quạnh quẽ
Đem theo chân hứng gửi cô Hằng.

————————————-

Ngựa ơi hãy nghỉ chân cuồng khấu
Cho thoả lòng ta nỗi khát khao
Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch
Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao…
Tình hoa thuở trước xô về đọng
Ơi phiến gương vàng một tối nay.
Ta lặng buông thân trời lảo đảo,
Mơ hồ sông nước choáng men say…”

Cũng là người yêu thích thơ Đường, nên tôi hay tìm đọc những bài cổ thi qua bản dịch của các nhà thơ, dịch giả tên tuổi. Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, tôi đã được đọc từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường qua bản dịch của Tản Đà, sau đó là những bản dịch Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng và một số người khác. Tuy nhiên bản dịch của Tản Đà hay và nhiều người biết hơn cả. Nhưng gần đây tôi mới tìm được bản dịch của Vũ Hoàng Chương. Đọc xong, tôi lặng người, bởi lời thơ thoát, thoáng đạt giữ nguyên thể thơ Đường, nhưng vẫn kéo tâm trạng sầu nhớ nao nao đi đến tận cùng trong lòng người lữ khách. Qủa thật, bản dịch của Vũ Hoàng Chương tôi khoái hơn so với bản dịch theo thể lục bát của Tản Đà. Với tôi, đây là tác phẩm (dịch) tuyệt bút của ông. Chúng ta đọc lại dịch phẩm cuả Tản Đà và của Vũ Hoàng Chương, để nhìn nhận so sánh:

“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

(Tản Đà)

“Xưa hạc vàng bay vút bóng người,
Đây Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi mất,
Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu,
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi.
Gần xa chiều xuống đâu quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”

(Vũ Hoàng Chương)

*Sự giải thoát linh hồn.

Nếu thi phẩm Mây chỉ là những tiếng than trong sự bế tắc cuộc sống, tình yêu, thì đến Lửa Từ Bi là sự giải thoát linh hồn. Điều mà trước đây Vũ Hoàng Chương đã thử nghiệm và kiếm tìm trong kháng chiến. Nhưng con đường giải thoát ấy, không chỉ đắng cay thêm mà còn giết chết cả hồn thơ ông. Những bài thơ, câu thơ ông viết trong thời gian này không hồn vía, nặng tính tụng ca, hò vè hô khẩu hiệu. Có những câu thơ tối nghĩa và mất gốc ”Vì giang sơn quyết bỏ gia đình”. Nhớ Về Hà Nội Vàng Son được Vũ Hoàng Chương viết vào năm 1947, là một bài thơ điển hình như vậy:

“…Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô (…)
Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm người lính già tiêu biểu
Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.
Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước mong dồn một ước mong!
Ôi mùa thu ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.”

Nhát dao cắt đôi đất nước và cuộc di cư năm 1954 là bước ngoặt lớn nhất không chỉ cho riêng Vũ Hoàng Chương, mà cho cả dân tộc. Ông thực sự hoang mang trước sự bi đát ấy. Và với ông, lúc này bàn đèn khói thuốc dường như không còn là nơi trú ngụ cho thể xác lẫn tâm hồn. Sự dằn vặt làm ông thao thức và luôn tự hỏi về thân phận con người trong loạn ly. Bài Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương ra đời trong hoàn cảnh, tâm trạng như vậy. Bài thơ mang hương vị thiền ở thể lục bát. Khi viết bài này, dường như thi sĩ muốn bỏ cái tham, sân, si của con người để đến gần nơi cửa phật. Cả bài thơ như một câu hỏi tu từ: “Ta còn để lại gì không?” nhằm răn mình, răn đời vậy. Đây là bài thơ không chỉ hay nhất trong thi tập Rừng Phong, mà còn là trong số (ít) những bài hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông:

“Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi.
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.”

Đến với Lửa Từ Bi, Vũ Hoàng Chương đã bốc được ngôi mộ sầu thảm ba mươi năm dài dằng dặc (1933-1963) ra khỏi linh hồn. Ông hoàn toàn trở thành con người khác lạ. Ngòi bút của ông đã chọc thẳng vào cuộc sống xã hội. Đứng trước sự đàn áp bắt bớ tù đày của chế độ đương thời, ông đã đứng hẳn về phía công lý và sự thật. Thi sĩ tìm ra con đường tự giải thoát mình, giải thoát đời. Và ông đang đi từ hiện hữu đến với cái vô thường:

“Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro
lụa tre dần mục nát
Với Thời-Gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.”

Ngọn đuốc sống (Bồ Tát) Quảng Đức đã cháy vào lòng thi sĩ, để Vũ Hoàng Chương viết nên (Ngọn) Lửa Từ Bi gửi tình yêu thương con người đến với con người. Bài thơ được chảy ra từ cảm xúc tự nhiên của người thi sĩ, mang một chút hơi hưởng Tế Ca, không phải sở trường viết của Vũ Hoàng Chương. Nhưng nó làm xúc động hàng triệu con tim, không chỉ đóng khung trong đất Việt. Bởi, ngoài giá trị thi ca và thông điệp chỉ có tình yêu mới xóa bỏ được hận thù, khổ đau, nó còn là một lời cảnh tỉnh cho cả chế độ độc tài, độc đảng, gia đình trị, phe nhóm trị. Với tôi, đây là một trong những bài thơ hay nhất, nhân bản nhất trong thơ ca Việt từ một trăm năm nay:

“Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
Tám chín phương nhục thể trần tâm
hiện thành Thơ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng Sáng rưng rưng
Đông Tây nhoà lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc,
Ánh Đạo Vàng phơi phới
đang bừng lên, dâng lên…

————————————–

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi!
Chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.”

Trong cái bi thương ấy, cũng thật may mắn thay, chiến tranh, bom đạn bắt bớ tù đày, thi sĩ Vũ Hoàng Chương chợt nhận ra ngọn Lửa Từ Bi đang ngùn ngụt cháy là nơi ẩn nấp, che chắn duy nhất cho những linh hồn bơ vơ. Sự giải thoát ấy đã phá bỏ cái vòng tròn ba mươi năm luẩn quẩn, từ đó con đường lên cõi Niết Bàn được mở ra trong ông.

Thật vậy, không có chủ thuyết nào, chế độ nào giải thoát được linh hồn con người, ngoài Đạo Giáo:

“…Nghe được từ lâu cá thở than
Hôm nay mới sõi tiếng cây ngàn
Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất
Là thấy đường lên cõi Niết Bàn…”.

(Nhị thập bát tú 2)

Trong cái xã hội nhá nhem điên loạn và sự bấp bênh của thân phận con người, tết Bính thìn 1976 Vũ Hoàng Chương trải lòng mình vào Vịnh Bức Tranh Gà Lợn. Đây là bài thơ hay và lạ. Lạ bởi có lẽ ít ai dám đưa tục ngữ, thành ngữ vào trong thơ như ông một cách dân dã, châm biếm như vậy. Và bài thơ có tính thời sự cao, dễ thuộc đi vào mọi tầng lớp trong xã hội và lan truyền nhanh ở trong nước cũng như ra hải ngoại. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, vì bài thơ này Vũ Hoàng Chương đã phải vào tù. Tuy nhiên, tôi không nghĩ như vậy, mà đây chỉ là cái cớ, nếu không có bài thơ trên, họ cũng sẽ tìm ra muôn vàn lý do khác để bắt ông. Bởi cái Bóng của Vũ Hoàng Chương quá rộng, quá dày đối với một chế độ nhìn đâu cũng thấy vi trùng sợ hãi, dẫn đến việc ông phải nhập kho là điều không thể tránh:

“Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh“

Tôi không rõ bài thất ngôn tứ tuyệt: Dấu Hỏi Vây Quanh Kiếp Người, được thi sĩ Vũ Hoàng sáng tác từ khi nào? Đây là bài thơ có tính thiền triết, đầy hình tượng ám ảnh, cho ta cảm giác rờn rợn khi đọc. Cả kiếp người là một câu hỏi, một câu hỏi trong vòng luẩn quẩn, đến lúc nhắm mắt xuôi tay không lời giải đáp, mà chỉ có tiếng vọng lại khi nắp quan tài sập lại:

“Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thầm rơi
Chiều nay một dấu than buông dứt
Đinh đóng vào săng tiếng trả lời.”

Bài thơ này, tiếng vọng kia, phải chăng là câu kết hay lời khép lại của chính cuộc đời thi sĩ Vũ Hoàng Chương?

Leipzig 16-4-2015

Đỗ Trường

*****

ĐẶNG TIẾN: THƠ XUÂN VŨ HOÀNG CHƯƠNG

 
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã … đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.  Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang. Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân. Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ:   Xuân đời chưa kịp hưởng
Mây mùa thu đã sang? Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự Xuân có sang mà hoa không tươi
ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
Nằm say ngõ lạnh
Buồn nghe mưa rơi
Tuôn châu oà bật lên cười
Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
Hoạ điệu chiều nay xác rã rời Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là: Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay Ðã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian; và thơ Ðường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Ðiều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.
Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.   Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
Hương sắc thanh bình ngập lối quê. Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi Thơ Say gồm có nhiều phần: Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng … Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Ðã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần:   Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
Ðã nghe dồn cả tới đài xuân
Ðã nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin hương với cõi trần
Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần … … Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
Chưa từng hoen ố vết trầm luân
Ðêm nay xuống một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho đời nở ái Ân Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Ðạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Ðạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.

***
Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay … là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân. Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955; mùa xuân đầu tiên xa xứ: Mười năm qua, đến bây giờ
Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thưở nào…
(…)
Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
Cành mai gượng ánh mặt hoa đào Mười phần xuân có gầy hao
Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
Mấy phen biếc đón hồng đưa
Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền
Ðây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng “cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này:   Có nghĩa gì đâu một chữ “về”
Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
Nếu không ngược cả mười năm ấy
Về tận kinh đô của ước thề Theo Chế Lan Viên, chữ “Về ” là  “cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa”  Ðây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ “về”, trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về: Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
                        Nguyện Cầu, 1950
Còn mấy chữ “có nghĩa gì đâu“, là phỏng theo Xuân Diệu: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu: việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư – phần nào đó hoang tưởng – “có nghĩa gì đâu” . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến: “Mười năm thôi nhé mộng tan tành ” … , ” Tình mười năm còn lại mấy tờ thư “….  Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm: ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.
Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung:   Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
Sầu xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc “hát ngao” hơn là một anh hùng ca. Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng Chín giao thừa, tám năm dư
Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
(…)
Khói đâu mờ tím căn buồng
Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
Cố đô lửa cháy gan nào
Sài đô son sắt như bào, như nung Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Ðục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt:   Chợ Tết mai lan cúc
Ðắm mình trong bụi đục
Từng phiên nép mặt hoa
Thẹn không bằng khóm trúc
(…)
Liên miên khói lửa này,
Dám đâu mơ hạnh phúc
Lần lượt tre rồi măng
Ðã tơi bời cốt nhục
Ðoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận:
Thân càng xót cho thân
Uổng gây hình ngọc đúc
Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột:  
Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
E khi chiều xế, tuyết thay tơ
Không cả chút tình thương nắng quái Kẻ vô-hạn-hận không là gió
Xuân đến trà mi đời tự bỏ
Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
Cùng ai gửi chút hương vò võ? Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân: 
thiều quang ngập máu đổ quyên hồng…
Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương:
Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
Người thơ giữa lúc mở bầu men,
Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
Ðạn rót trời cao đã nổ rền
Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài: “loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân ” (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc):  
Lăng miếu gần kề lưng chó sói
Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
(…)
Ðạn réo vang vang lửa bốn bề
Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
Sốt dâng mạch loạn càng u uất
Máu chảy ruồi bâu thật não nề
Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện:  
Mong người một nước soi gương cũ
Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều …
                                       (Huế Cảm)
Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi:
Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
Ðủ thấy điềm lành hai nửa nước
Một nhà trong ấm với ngoài êm
                    (Mở Bút ghi Ðiềm)
Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên:
Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
Ðèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
Hỏi chúa xuân  rằng: ai có ngôi?
                         (Hạnh phúc nào hơn)
Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán:  
Kỷ Dậu hồi thanh
Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên
Ông tự dịch:  
Tiếng vang lịch sử
Ðất xưa gà gáy mặt trời lên
Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên
Ðặng Tiến dịch ké:
Gà thúc bình minh sông núi xưa
Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
Sườn non lưng núi lời hoa mở
Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa
Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão 1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn … Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc:
Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong
(…)
Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Ðể ngấn vàng gieo chợt rối vòng
Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài ” Xúc Ðộng Cuối Năm ” thật buồn:  
Chơi xuân đất này không cỏ non
Thơ không vàng nữa, ấn không son
Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn
Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Ðông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Ðông Hồ: câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành: “xuân du thử địa vô phương thảo”, câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa:  
Mùa vàng hoa mai hoa cúc
Mùa son hoa phượng hoa vông
(…)
Mùa vàng giàu thật giàu
Mùa son sang  rất sang
                       (Ðông Hồ)
Một nụ cười xuân cũng chẳng còn“, là nhắc tên tập thơ “Cô Gái Xuân” (1935) của Ðông Hồ. Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc:
Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
Phá vỡ vòng sao tự giải vây

Mách cho Lã Vọng về đây
Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi

Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
Thà đợi một mùa Xuân Ðích Thực
Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
                               (Xuân Ðối Diện)
Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời: 
Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
Vừa uống sông xuân một bụng đầy
                              (Nhâm Tý khai bút)
Tác giả tự dịch ra Hán Văn:
Trường chinh mộng hậu tức phong yên
Thiên lý long câu vạn lý thuyền
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên
Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài “Xuân Quạn ”   Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
Ngõ hẹp … Thôi rồi vẫn tịch liêu
Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
Ðắng cay thế vị lòng vương giả
Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm
Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài “Ðón Xuân Mười Chín” làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973):  
Bấm đốt từ di cư đến nay
Ðón xuân vừa vặn hết bàn tay,
Sang sông Ngựa đã hai lần hí
Vạch đất Trâu thêm một luống cày
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
Tết đến buồn không chịu vẽ mày

Xưa rồi lửa phóng tên bay
Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
Bóng ai trên đá ngồi gan
Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
Trời xuân chẳng én đưa thoi
Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
Nghé kêu đầy bến vàng hoa                                       
(dẫn trọn bài)
Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm:
Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
Câu thơ ngụ ý: lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Ðây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ “chống cộng” để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội. Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác: bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé. Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu:
Ma là Người … kiếp khác
Người là Trời … đêm nay
Nghe chừng lửa đã tắt
Hai bờ Con-Sông này
ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
Sao lòng ai vẫn chưa hay?
Nằm kia, người nín bặt
Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
                                        (Tin Xuân)
Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế: đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân. Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Ðoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :
Cỏ Bồ ôm đá ngủ
Trong tranh từ bao giờ
Cho đến bây giờ
Còn say trong thơ
Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
Ðèn xanh nến biếc đêm giao thừa
Nét bút gầy theo mực úa
Bao năm rồi tiêu sơ
Có phải xuân đang từ đáy lụa
Một chiều sâu không ai ngờ
Truyền tin về giấc mơ
ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
Nghe lòng trời đất ươm tơ
Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
Cành đơn hoa trắng tương tư
Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
Mối manh gì nữa còn ai nữa
Ðành kết vào hương Thuý vũ từ
Tác giả giải thích: Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa: hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai. Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết “ta đành mất hết để còn nhau” (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).

***
Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn:
Vịnh tranh Gà Lợn
Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn, om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có hoạ
Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh
Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú:
Thơ có hoạ có ba nghĩa: thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ: thơ phản nghịch là tai hoạ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác: thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Ðặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ: “dừng có mạch, vách có tai”; “xanh vỏ đỏ lòng”. Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như: “tranh  tối tranh sáng”, “mắt xanh”, “mắt quáng gà”, “gà cùng một mẹ”, “lợn âm dương”, “con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi”. “Khúc tân thanh” ngụ ý “đoạn trường”. Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ. Chỉ mong văn giới ghi nhận: đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, “tam sao”, được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.

***
Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu. Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu. Quý vị nào biết xin vui lòng mách, hoặc công bố, để đóng góp vào việc hoàn thành Toàn Tập Thơ Văn Vũ Hoàng Chương sau này. Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là: Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát. Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.
 Ðặng Tiến
Paris, Tết dương lịch, 1/1/2001

*****

NGUYỄN HỮU NGHĨA: NGỒI BUỒN ĐỌC LẠI THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Trong những bài thơ Vũ Hoàng Chương lưu lại, tôi xúc động nhất với “Mười hai tháng sáu”.

Thấy cụ đấm ngực thùm thụp thở than thảm thiết, có “sầu dựng mộ”, có “bia đề tháng sáu ghi mười hai”, “Mười năm thôi thế mộng tan tành”, rồi thì “tay vỗ vào bia mười ngón giập”, chuyển từ thơ bảy chữ mạnh mẽ, xung động, sang lục bát trôi xuôi, nhẹ nhàng như thôi khóc chỉ còn lại tiếng nấc ngậm ngùi, bi thương,.. tôi tưởng cụ khóc cho cụ bà sau mười năm hương lửa bỗng nhiên dọn ra nghĩa địa. Không phải! Mà là cụ “rủa” người yêu của cụ đi… lấy chồng. Thằng tôi ngẩng tò te… Mấy ông thi sĩ, … ngộ thiệt!

Mười hai tháng Sáu

Riêng gửi Kiều Thu

Trăng của nhà ai? trăng một phương!
Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường
Ờ, đêm tháng sáu mười hai nhỉ
Tố của Hoàng ơi! Hỡi nhớ thương.

Là thế, là thôi, là thế đó
Mười năm thôi thế mộng tan tành
Mười năm trăng cũ ai nguyền ước?
Tố của Hoàng ơi! Tố của anh.

Tháng sáu mười hai – từ đấy nhé
Chung đôi – từ đấy nhé lìa đôi
Em xa lạ quá đâu còn phải
Tố của Hoàng xưa, Tố của tôi.

Men khói đêm nay sầu dựng mộ
Bia đề tháng sáu, ghi mười hai
Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc
Tố của Hoàng nay Tố của ai!

Tay gõ vào bia mười ngón giập
Mười năm theo máu hận trào rơi
Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
Khúc Cổ Bồn Ca gõ hát chơi.

Kiều Thu hề Tố em ơi!
Ta đương lửa đốt tơi bời mái Tây
Hàm ca nhịp gõ khói bay
Hồ Xừ Xang Xế bàn tay điên cuồng

Kiều Thu hề trọn kiếp thương!
Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô
Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ
Bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên

Kiều Thu hề Tố hỡi em!
Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng
Xế Hồ Xang khói mờ rung
Nhịp vương sầu tỏa năm cung ngút ngàn…

Vũ Hoàng Chương

*

Tôi không bao giờ có thể là thi sĩ. Có làm thêm ngàn bài nữa, in thêm chục tập nữa cũng vẫn cứ không phải là thi sĩ. Đã nói vậy rồi mà. In cả ra giấy nữa. Nói có sách mách có chứng: trang 9, tập Cỏ Biếc:

“Anh bảo chữ tròn như cái kẹo
Bỏ lọ lắc ra xếp mấy hàng”

Bỏ chữ vô lọ, lắc lắc xốc xốc như xin xăm, chữ nào rớt ra thì lượm xếp lại cho có vần có vè. Gọi nó là “thơ”, cũng được, nhưng đừng gọi người lắc xăm là thi sĩ!

Thi sĩ thời nay như thế, còn thời xưa thì sao?

Lại nhớ Cổ Bồn Ca, là bài Trang Tử đã hát ê a khi vợ chết.

Chương Chí Lạc trong Nam Hoa Kinh chép rằng vợ Trang Tử chết, Huệ Tử đến điếu, thấy Trang Tử ngồi xoạc hai chân vừa gõ bồn (盆: cái chậu) vừa ca.

Huệ Tử hỏi: “Vợ chết không khóc đã là quá lắm rồi! Lại còn vỗ bồn ca hát, không thái quá sao?”

Trang Tử đáp: “Lúc nàng mới chết, tôi cũng động lòng. Nhưng nghĩ lại, thuở trước nàng vốn không sanh, không hình, chẳng qua là tạp chất ở trong hư không biến ra mà có khí có hình, có sanh có tử. Khí, hình, sanh, tử, có khác nào xuân, hạ, thu, đông bốn mùa hành vận. Người ta đã nghỉ yên nơi cự thất (1) mà tôi còn than khóc tức là tôi không thông mệnh (không hiểu Đạo). Thế nên tôi không khóc.”

Từ chương sách mang tính triết lý vô vi này, đời sau thêu dệt thành chuyện Trang Tử giả chết thử vợ như sau:

Trang Tử đi đường, thấy một chị ngồi quạt nấm mồ đất chưa khô. Ông hỏi thì chị ấy cho biết là mộ chồng. Chồng chị trối rằng phải đợi mộ khô mới được lấy chồng khác. Vì vậy chị phải quạt cho đất mau khô, để sớm tái giá.

Trang Tử về nhà kể chuyện cho vợ. Vợ chê trách chị kia không chung thủy.

Trang Tử đột ngột chết. Linh cữu còn quàn trong nhà thì một thanh niên trẻ đẹp ghé vào, xưng là học trò cũ, xin ở lại lo ma chay cho trọn tình sư đệ.

Vợ Trang Tử sớm đem lòng yêu thương kẻ ấy. Đột ngột đêm đến, anh ta đau bụng quằn quại, nói rằng chỉ có sọ người mới chết đem mài uống thì khỏi ngay.

Vợ Trang Tử mau mắn đem chày vồ ra đập vỡ nắp hòm (săng), để lấy sọ chồng làm thuốc cứu tình nhân. Nắp hòm bật lên thì Trang Tử ngồi nhổm dậy, chàng trai biến mất.

Biết chồng dùng phép, giả chết thử lòng mình, người vợ xấu hổ, bèn tự tử.

Vợ chết rồi, Trang Tử vừa vỗ bồn vừa hát:

堪嘆浮世事,Kham thán phù thế sự,

有如花開謝。Hữu như hoa khai tạ.

妻死我必埋,Thê tử ngã tất mai,

我死妻必嫁。Ngã tử thê tất giá.

我若先死時,Ngã nhược tiên tử thời,

一場大笑話。Nhất trường đại tiếu thoại.

田被他人耕,Điền bị tha nhân canh,

馬被他人跨。Mã bị tha nhân khóa.

妻被他人戀,Thê bị tha nhân luyến,

子被他人罵。Tử bị tha nhân mạ.

以此動傷心,Dĩ thử động thương tâm,

相看淚不下。Tương khán lệ bất hạ.

世人笑我不悲傷,Thế nhân tiếu ngã bất bi thương,

我笑世人空斷腸。Ngã tiếu thế nhân không đoạn trường.

世事若還哭得轉,Thế sự nhược hoàn khốc đắc chuyển,

我亦千秋淚萬行。Ngã diệc thiên thu lệ vạn hàng.

Bản chữ Hán trên có thể có vài dị bản. Một người khuyết danh đã khéo léo dịch bài hát của Trang Tử sang tiếng Việt như sau:

Nên than ôi, thế sự,
Dường hoa đơm lại rã.
Vợ chết ắt ta chôn,
Ta chết vợ cải giá.
Ví bằng ta chết trước,
Một cuộc cười ha hả.
Ruộng phải người khác cày,
Ngựa phải người khác cưỡi.
Vợ phải người khác lấy,
Con phải người khác mắng.
Nghĩ lại chạnh tấm lòng,
Nhìn nhau khôn tuôn lệ.
Ðời cười ta chẳng bi thương,
Ta cười đời luống đoạn trường.
Việc đời khóc mà chuyển biến được,
Ta cũng ngàn thu khóc vạn hàng.


Từ chuyện thêu dệt trên, dân gian Việt Nam có câu:
Quạt mồ còn hơn bổ quan tài.

Hay là:

Thương thay cho kẻ quạt mồ
Ghét thay cho kẻ cầm vồ bửa săng.

Tích Trang Tử vỗ bồn mà hát, ngầm chỉ người vợ không chung thủy, thiếu tiết hạnh.

Mấy ông thi sĩ thời xưa, cũng ngộ thiệt!

Nguyễn Hữu Nghĩa

*****

PHẠM LƯU VŨ: THƠ VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Mấy hôm nay dân mạng ngậm ngùi trước tin thi sĩ Vũ Hoàng Chương từng được đề cử giải Noben. Tôi không cho rằng Vũ Hoàng Chương không đủ duyên với giải Noben, mà chính giải Noben không đủ duyên với thiên tài Vũ Hoàng Chương. Học trò xứ Bắc sau đại tam tai Tố Hữu, Sóng Hồng, hậu Tố Hữu… tức sau Cách Mạng Tháng Tám, ít người (may ra) còn biết giọng “tráng ca” của Quang Dũng với “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Tây Tiến”… Mà không biết rằng Quang Dũng, nếu đem so với Vũ Hoàng Chương, thì chỉ là:

“Cành liễu cố vươn thành cổ thụ
Có hay bên cạnh gốc Bồ Đề”.

Vũ Hoàng Chương với những câu thơ mang khẩu khí của một bậc quân vương trong làng… thơ:

“Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây…
Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
Nhìn nhau: chuột nhỏ tung tăng dạo,
Vừa uống sông xuân một bụng đầy.

Bản dịch sang chữ Hán của chính Ngài:

Trường chinh mộng hậu tức phong yên,
Thiên lý long câu vạn lý thuyền.
Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử,
Ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên.

Ngay cả “Tống biệt hành” hay nổi tiếng của Thâm Tâm, nếu không là học theo Vũ Hoàng Chương, thì cũng không thể so sánh với ông được:

“Đò chiều sông lạ tiễn đưa nhau
Gió nấc từng cơn, sóng vật đầu
Hai ngả lênh đênh trời ngụt khói
Người đi, ta biết trở về đâu
Cánh rượu thu dần vạn dặm khơi,
Nẻo say hư thực bóng muôn đời,
Ai đem sáo trộn sầu kim cổ?
Trăng nước Đà giang, mộng Liễu Trai…”

Đến thơ tình thì tuyệt tác, chữ nghĩa lồng lộng như mây trời, mà sức hiểu của con người, cùng lắm cũng chỉ như những cánh diều vật vờ mà thôi:

“Do dự mãi đêm nay rời xứ Mộng
Ta chiều em, bỏ lại cánh cung Trăng
Lén bước xuống thuyền mây chờ cửa động
Vội vàng đi, quên giã biệt cô Hằng…
Thôi hết nhé, thỏa đi niềm rạo rực
Từ cung trăng rơi ngã xuống trần gian
Ta sắp uống bùn nhơ và sự thực
Sẽ mai đây giày xéo giấc mơ tàn”…

Đặc biệt, khí phách của trai thời loạn, thì cộng cả nền “thi ca cách mạng” lại, suốt hai cuộc kháng chiến, cũng không sánh được mảy may:

“Trả ta sông núi! từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha.
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ
Không đòi, ai trả núi sông ta!”…

Và:

“Lò phiếu trưng cầu, một hiển linh
Đốt lò hương, gửi mộng bình sinh
Từ nay trăm họ câu an lạc
Đàn khúc đầm Dao, rượu chén Quỳnh!
Có một ngày ta trở lại cố đô
Lưỡi lê no máu rửa Tây Hồ
Trên tầng Chí Sĩ bàn tay vẫy
Đại định Thăng Long, một bóng cờ”.

Thơ Vũ Hoàng Chương thực sự là những tượng đài ngôn ngữ kì vĩ. Thật tiếc cho giải Nobel, chứ không phải tiếc cho người Việt chúng ta, càng không phải tiếc cho Vũ Hoàng Chương.

Phạm Lưu Vũ