Han Kang: Ánh Sáng và sợi chỉ

Nữ văn sĩ Han Kang tại buổi họp báo trong tuần lễ trao giải Nobel năm 2024 tại Stockholm, Thụy Điển

(Diễn từ nhận giải Nobel Văn chương của nữ văn sĩ Han Kang, đọc tại Viện Hàn lâm Thuỵ Điển ngày 7/12/2024)

Tháng 1 năm ngoái, khi lục lọi nhà kho trước khi chuyển nhà, tôi tình cờ thấy một hộp giày cũ. Tôi mở hộp ra và thấy một số cuốn nhật ký hồi nhỏ của mình. Trong đó có một cuốn vở ghi hai chữ “Sổ thơ” bằng bút chì ở mặt trước. Cuốn vở mỏng: chỉ có năm tờ giấy thô khổ A5 được gấp đôi và đóng bằng ghim bấm. Dưới tiêu đề tôi có viết thêm hai dòng chữ ngoằn ngoèo kiểu bậc thang, một dòng gồm sáu bậc kéo lên bên trái, dòng còn lại gồm bảy bậc kéo xuống bên phải. Đó có phải là một kiểu minh họa bìa sách không? Hay chỉ là một bức vẽ nguệch ngoạc? Thời gian là năm 1979 và tên tôi được viết ở mặt sau của cuốn vở, với tổng cộng tám bài thơ được ghi trên các trang bên trong bằng cùng một nét bút chì gọn gàng như trên bìa trước và bìa sau. Tám ngày tháng khác nhau được đánh dấu ở cuối mỗi trang theo thứ tự thời gian. Những dòng chữ do tôi khi đó tám tuổi viết ra khá ngây thơ và không trau chuốt, nhưng có một bài thơ ghi tháng 4 đã thu hút sự chú ý của tôi. Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ sau:

Tình yêu ở đâu?

Nó ở trong lồng ngực đập thình thịch của tôi.

Tình yêu là gì?

Nó là sợi chỉ vàng kết nối giữa những trái tim chúng ta.

Trong chớp mắt, tôi quay ngược về bốn mươi năm trước, khi những ký ức về cái buổi chiều đóng cuốn vở nhỏ ùa về. Chiếc bút chì ngắn cụt của tôi với phần nối dài bằng nắp bút bi, cục tẩy, chiếc máy bấm ghim to bằng thép mà tôi lén lấy từ phòng của bố ra. Tôi nhớ lại sau khi biết cả nhà sẽ chuyển đến Seoul, tôi đã có ý muốn gom những bài thơ mình đã viết nguệch ngoạc trên những mẩu giấy, hoặc bên lề những cuốn sổ tay và sách bài tập, hoặc giữa các đoạn nhật ký, lại thành một tập duy nhất. Tôi cũng nhớ lại cảm giác khó hiểu khi đó là không muốn cho bất kỳ ai xem “Sổ thơ” của mình sau khi hoàn thành.

Trước khi đặt lại các tập nhật ký và cuốn vở như lúc tôi tìm thấy và đóng nắp hộp giày lại, tôi đã lấy điện thoại chụp một bức ảnh bài thơ đó. Tôi làm điều này vì cảm thấy có sự liên tục giữa một số từ tôi đã viết khi đó và con người tôi hiện tại. Bên trong lồng ngực tôi, trong trái tim đang đập của tôi. Giữa những trái tim chúng ta. Sợi chỉ vàng nối lại – một sợi chỉ tỏa ra ánh sáng.

*

Mười bốn năm sau, với việc xuất bản bài thơ đầu tiên và sau đó là truyện ngắn đầu tiên của tôi vào năm sau, tôi đã trở thành một Nhà Văn. Thêm năm năm nữa, tôi sẽ xuất bản cuốn truyện dài đầu tiên của mình mà tôi đã viết trong khoảng ba năm. Tôi đã và vẫn bị hấp dẫn bởi quá trình viết thơ và truyện ngắn, nhưng viết tiểu thuyết có sức hút đặc biệt đối với tôi. Những cuốn sách đã lấy mất của tôi từ một đến bảy năm để hoàn thành, tôi đã phải đánh đổi một phần đáng kể cuộc sống cá nhân để viết chúng. Đấy là điều lôi cuốn tôi đến tác phẩm. Là cách tôi có thể đào sâu và suy ngẫm về những câu hỏi mà tôi cảm thấy có tính mệnh lệnh và cấp bách, đến mức tôi quyết định chấp nhận sự đánh đổi.

Mỗi lần viết một cuốn tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng. Khi tôi đi đến hồi kết của những câu hỏi này – không giống như khi tôi tìm ra câu trả lời cho chúng – là lúc tôi đi đến hồi kết của quá trình viết. Đến lúc đó, tôi không còn là chính mình khi mới bắt đầu nữa, và từ trạng thái thay đổi đó, tôi lại bắt đầu lại. Những câu hỏi tiếp theo cứ thế nối tiếp nhau, như những mắt xích trong một chuỗi, hoặc như những quân cờ domino, chồng chéo lên nhau, nối lại và tiếp tục, và tôi bị thúc đẩy để viết một cái gì đó mới.

Khi viết cuốn tiểu thuyết thứ ba của mình, “Người ăn chay” (bản tiếng Việt do Hoàng Hải Vân dịch – ND) từ năm 2003 đến năm 2005, tôi đã trăn trở với một số câu hỏi đau đớn: Liệu một người có bao giờ hoàn toàn vô tội không? Chúng ta có thể từ chối bạo lực đến mức nào? Điều gì sẽ xảy ra với kẻ từ chối thuộc về loài người?

Chọn không ăn thịt để từ chối bạo lực, và cuối cùng từ chối mọi thức ăn và đồ uống ngoại trừ nước với niềm tin rằng cô đã biến thành một loài thực vật, Yeong-hye, nhân vật chính của “Người ăn chay”, thấy mình trong tình huống trớ trêu là nhanh chóng tiến đến cái chết trong nỗ lực cứu lấy bản thân. Yeong-hye và chị gái In-hye, những người thực chất là đồng nhân vật chính, hét lên không thành tiếng trong những cơn ác mộng và sự tan vỡ tàn khốc, nhưng cuối cùng lại ở bên nhau. Tôi dựng cảnh cuối cùng trong một chiếc xe cấp cứu, vì tôi hy vọng Yeong-hye sẽ vẫn sống trong thế giới của câu truyện này. Chiếc xe lao xuống con đường núi bên dưới những chiếc lá xanh rực rỡ trong khi người chị gái cảnh giác nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Có lẽ đang chờ đợi một phản hồi, hoặc có lẽ là phản đối. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết nằm trong trạng thái nghi vấn. Nhìn chằm chằm và thách thức. Chờ đợi một phản hồi.

Sau Người ăn chay, cuốn tiểu thuyết “Gió đã nổi, đi thôi” (bản tiếng Anh dịch là “Mực và Máu” – ND) tiếp tục những câu hỏi này. Từ chối cuộc sống và thế giới để từ chối bạo lực là điều không thể. Rốt cuộc, chúng ta không thể biến thành thực vật. Vậy thì làm sao chúng ta có thể tiếp tục? Trong cuốn tiểu thuyết bí ẩn này, các câu chữ kiểu La Mã và kiểu in nghiêng chen chúc và va chạm nhau, khi nhân vật chính, người đã vật lộn lâu dài với cái bóng của tử thần, liều mạng để chứng minh rằng cái chết đột ngột của bạn mình không thể là do tự tử. Khi tôi viết cảnh kết thúc, khi tôi mô tả cảnh cô ấy lê mình trên sàn để bò ra khỏi cái chết và sự hủy diệt, tôi tự hỏi mình những câu hỏi này: Chẳng phải rốt cuộc chúng ta phải sống sót sao? Chẳng phải chúng ta phải lấy sinh mạng của mình làm chứng cho sự thật sao?

Với cuốn tiểu thuyết thứ năm, “Bài học tiếng Hy Lạp”, tôi đã tiến xa hơn nữa. Nếu chúng ta phải sống trên thế giới này, những khoảnh khắc nào khiến điều đó trở nên khả thi? Một người phụ nữ mất khả năng nói và một người đàn ông mất khả năng nhìn đang bước đi trong sự tĩnh lặng và bóng tối khi con đường đơn độc của họ giao nhau. Tôi muốn chú ý đến những khoảnh khắc xúc giác trong câu chuyện này. Cuốn tiểu thuyết tiến triển theo tốc độ chậm rãi của riêng nó qua sự tĩnh lặng và bóng tối cho đến khi bàn tay của người phụ nữ vươn ra và viết một vài từ vào lòng bàn tay của người đàn ông. Trong khoảnh khắc sáng ngời kéo dài thành vĩnh hằng đó, hai nhân vật này bộc lộ những phần mềm mại dịu dàng hơn của chính họ. Câu hỏi tôi muốn hỏi ở đây là: Bằng cách nhìn sâu vào phần mềm mại dịu dàng nhất của con người, bằng cách vuốt ve hơi ấm không thể phủ nhận ở đó, liệu chúng ta có thể tiếp tục sống trong thế giới phù du và bạo lực này không?

Khi đã đi đến cuối câu hỏi này, tôi bắt đầu nghĩ về cuốn sách tiếp theo của mình. Lúc đó là vào mùa xuân năm 2012, không lâu sau khi “Bài học tiếng Hy Lạp” được xuất bản. Tôi tự nhủ rằng mình sẽ viết một cuốn tiểu thuyết tiến thêm một bước nữa đến với ánh sáng và sự ấm áp. Tôi sẽ truyền tải tác phẩm bao trùm cả cuộc sống và thế giới này bằng những cảm giác tươi sáng, trong suốt. Tôi sớm tìm được một đầu đề và đã viết được hai mươi trang bản thảo đầu tiên, khi tôi buộc phải dừng lại. Tôi nhận ra rằng có điều gì đó bên trong đang ngăn cản tôi viết cuốn tiểu thuyết này.

*

Cho đến khi đó, tôi chưa từng nghĩ đến việc viết về Gwangju.

Tôi mới chín tuổi khi gia đình tôi rời Gwangju vào tháng 1 năm 1980, khoảng bốn tháng trước khi vụ thảm sát bắt đầu. Khi tôi tình cờ nhìn thấy gáy sách ngược của “Sách ảnh Gwangju” trên giá sách vài năm sau đó và mở xem qua nhân lúc không có người lớn nào xung quanh, tôi đã mười hai tuổi. Cuốn sách này in những bức ảnh về cư dân và sinh viên Gwangju bị giết bằng dùi cui, lưỡi lê và súng trong khi chống lại các thế lực quân sự mới đã dàn dựng cuộc đảo chính. Được xuất bản và phân phối bí mật bởi những người sống sót và gia đình của những người đã chết, cuốn sách đã chứng minh sự thật vào thời điểm sự thật bị bóp méo vì các phương tiện truyền thông đại chúng bị trấn áp khắc nghiệt. Khi còn nhỏ, tôi đã không nắm bắt được ý nghĩa chính trị của những hình ảnh đó, và những khuôn mặt bị tàn phá đã khắc sâu trong tâm trí tôi như một câu hỏi cơ bản về con người: Đây có phải là hành động của một con người đối với một người khác không? Và sau đó, khi nhìn thấy một bức ảnh về hàng người dài vô tận đang chờ hiến máu bên ngoài một bệnh viện đại học: Đây có phải là hành động của một con người đối với một người khác không? Hai câu hỏi này xung đột và có vẻ không thể hòa giải, sự không tương thích của chúng là một nút thắt mà tôi không thể gỡ ra.

Vì vậy, vào một ngày xuân năm 2012, khi tôi thử sức viết một cuốn tiểu thuyết rạng rỡ, khẳng định cuộc sống, một lần nữa tôi phải đối mặt với vấn đề chưa được giải quyết này. Từ lâu tôi đã mất niềm tin gốc rễ vào con người. Vậy thì làm sao tôi có thể chấp nhận thế giới này? Tôi nhận ra rằng nếu muốn tiến về phía trước, tôi phải đối mặt với vấn đề hóc búa đó. Tôi hiểu rằng viết là cách duy nhất để tôi băng qua và vượt qua nó.

Tôi đã dành phần lớn thời gian trong năm đó để phác thảo cuốn tiểu thuyết của mình, hình dung tháng 5 năm 1980 ở Gwangju sẽ là một lớp của cuốn sách. Vào tháng 12, tôi đã đến thăm nghĩa trang ở Mangwol-dong. Lúc đó đã quá trưa và một trận tuyết rơi dày vừa mới rơi vào ngày hôm trước. Sau đó, khi trời tối dần, tôi bước ra khỏi nghĩa trang lạnh giá với bàn tay đặt trên ngực, gần trái tim mình. Tôi tự nhủ rằng cuốn tiểu thuyết tiếp theo này sẽ tập trung vào Gwangju, thay vì chỉ xếp nó vào một lớp duy nhất. Tôi đã tìm được một cuốn sách chứa hơn 900 lời chứng thực, và trong suốt một tháng tôi đã dành ra chín giờ mỗi ngày để đọc từng câu chuyện được ghi lại trong sách. Sau đó, tôi đọc thêm không chỉ về Gwangju mà còn về các trường hợp bạo lực nhà nước khác. Rồi nhìn xa hơn và ngược về quá khứ, tôi đọc về các vụ giết người hàng loạt mà con người đã nhiều lần gây ra trên khắp thế giới và trong suốt lịch sử.

Trong suốt thời gian tìm kiếm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết này, có hai câu hỏi thường trực trong đầu tôi. Đó là hai câu tôi đã ghi lên trang đầu mỗi cuốn nhật ký mới khi ở độ tuổi hai mươi:

Hiện tại có thể giúp ích cho quá khứ không?

Người sống có thể cứu người chết không?

Càng đọc tôi càng thấy rõ những câu hỏi đó không thể có câu trả lời. Qua cuộc chạm trán dai dẳng này với những khía cạnh ảm đạm nhất của loài người, tôi cảm thấy những tàn dư của niềm tin lâu đời của mình vào nhân loại đã tan vỡ hoàn toàn. Tôi gần như từ bỏ cuốn tiểu thuyết. Sau đó, tôi đọc được những đoạn nhật ký của một giáo viên trẻ tuổi dạy trường đêm. Là một thanh niên nhút nhát, ít nói, Park Yong-jun đã tham gia vào ‘cộng đồng tuyệt đối’ của những công dân tự quản hình thành ở Gwangju trong cuộc nổi dậy kéo dài mười ngày vào tháng 5 năm 1980. Anh đã bị bắn chết tại tòa nhà YWCA (tên một tổ chức giúp đỡ phụ nữ trẻ theo đạo Thiên Chúa – ND) gần trụ sở chính quyền tỉnh, nơi anh đã chọn ở lại, mặc dù biết rằng quân lính sẽ quay trở lại vào sáng sớm. Vào đêm cuối cùng đó, anh đã viết vào nhật ký: “Tại sao, Chúa ơi, con phải có một lương tâm cắn rứt và đau đớn đến vậy? Con muốn sống.”

Đọc những câu này, tôi như được ánh chớp soi rọi, biết rõ cuốn tiểu thuyết phải đi theo hướng nào. Và biết rằng hai câu hỏi ở trên phải đảo ngược lại.

Quá khứ có thể giúp ích cho hiện tại không?

Người chết có thể cứu người sống không?

Về sau, khi tôi viết những cái sẽ trở thành tiểu thuyết “Bản chất của người” (bản tiếng Việt do Kim Ngân dịch – ND) vào những lúc nhất định tôi cảm thấy quá khứ thực sự đang giúp ích cho hiện tại, và người chết đang cứu người sống. Thỉnh thoảng tôi lại đến thăm nghĩa trang, và chẳng hiểu sao những lúc đó thời tiết luôn quang đãng. Tôi nhắm mắt lại, và những tia nắng màu cam của mặt trời sẽ tràn ngập mí mắt tôi. Tôi cảm thấy nó như ánh sáng của chính cuộc sống. Tôi cảm thấy ánh sáng và không khí bao trùm tôi trong sự ấm áp khó tả.

Những câu hỏi vẫn còn mãi trong tôi sau khi tôi nhìn thấy cuốn sách ảnh đó là: Làm sao con người có thể hung dữ đến thế? Và đồng thời – làm sao họ có thể đối chọi lại được bạo lực khủng khiếp như vậy? Việc thuộc về loài người có nghĩa là gì? Để tìm ra con đường bất khả băng qua khoảng trống giữa sự tàn bạo và phẩm giá con người, tôi cần sự trợ giúp của người chết. Giống như trong cuốn tiểu thuyết Bản chất của người, đứa trẻ Dong-ho kéo tay mẹ mình đi về phía mặt trời.

Tất nhiên, tôi chẳng thể thay đổi được những gì đã xảy ra cho người chết, cho gia đình họ, hoặc cho những người sống sót. Tất cả những gì tôi có thể làm là đem cho họ những cảm giác, cảm xúc và sự sống đang phập phồng trong chính cơ thể tôi. Muốn thắp lên một ngọn nến ở đầu và cuối cuốn tiểu thuyết, tôi đã đặt bối cảnh mở đầu trong phòng tập thể dục của thành phố, nơi đặt thi thể của những người chết để làm tang lễ. Ở đó, chúng ta chứng kiến cậu bé Dong-ho mười lăm tuổi trải những tấm vải trắng lên các thi thể và thắp nến. Nhìn chằm chằm vào trái tim màu xanh nhạt của mỗi ngọn lửa.

Đầu đề tiếng Hàn của tiểu thuyết này là Sonyeon-i onda. Chữ ‘onda’ ở cuối là thì hiện tại của động từ ‘oda’, đến. Tên sách nghĩa là “Cậu bé đang đến”. Lúc soyeon, cậu bé, được gọi ở ngôi thứ hai là cậu, dù thân hay sơ, là lúc cậu thức dậy trong ánh sáng mờ mờ và bước về phía hiện tại. Những bước chân của cậu bé là những bước chân của một linh hồn. Cậu bé ngày càng tiến đến gần hơn và trở thành bây giờ. Khi thời gian và địa điểm trong đó sự tàn ác và phẩm giá của con người bị đẩy đến cực điểm cùng tồn tại song song được gọi tên là Gwangju, thì cái tên đó không còn là danh từ riêng chỉ một thành phố nữa mà thay vào đó trở thành danh từ chung, như tôi đã học được khi viết cuốn sách này. Nó đến với chúng ta – hết lần này đến lần khác qua thời gian và không gian, và luôn ở thì hiện tại. Ngay cả bây giờ.

Khi cuốn sách cuối cùng được hoàn thành và xuất bản vào mùa xuân năm 2014, tôi đã rất ngạc nhiên trước nỗi đau mà độc giả thú nhận rằng họ cảm thấy khi đọc nó. Tôi đã phải dành thời gian để suy nghĩ về cách mà nỗi đau mà tôi cảm thấy trong suốt quá trình viết và nỗi đau mà độc giả đã bày tỏ với tôi có liên quan như thế nào. Điều gì ẩn sau nỗi đau đó? Có phải chúng ta muốn đặt niềm tin vào nhân loại, và khi niềm tin đó bị lung lay, chúng ta cảm thấy như thể chính bản thân mình đang bị hủy hoại? Có phải chúng ta muốn yêu nhân loại, và đây là nỗi đau mà chúng ta cảm thấy khi tình yêu đó tan vỡ? Tình yêu có sinh ra nỗi đau không, và nỗi đau có phải là bằng chứng của tình yêu không?

Cùng năm đó vào tháng 6, tôi đã có một giấc mơ. Một giấc mơ mà trong đó tôi đang đi bộ qua một cánh đồng rộng lớn khi tuyết rơi thưa thớt. Hàng ngàn, hàng ngàn gốc cây đen nằm rải rác trên đồng, và đằng sau mỗi gốc cây là một gò mả. Có lúc, tôi đang bước xuống nước, và khi nhìn lại, tôi thấy đại dương đang ập vào từ phía rìa cánh đồng, mà tôi đã nhầm là đường chân trời. Tại sao lại có những ngôi mộ ở một nơi như thế này? Tôi tự hỏi. Có phải tất cả xương ở những ngôi mộ thấp hơn sát biển đều đã bị cuốn trôi? Tôi có nên ít ra cũng di dời những bộ xương ở những ngôi mộ cao hơn, ngay bây giờ, trước khi quá muộn? Nhưng làm sao đây? Tôi thậm chí còn không có một cái xẻng. Nước đã ngập đến mắt cá chân của tôi. Tôi tỉnh dậy, và khi nhìn ra ngoài cửa sổ vẫn còn tối, tôi trực giác rằng giấc mơ này đang nói với tôi điều gì đó quan trọng. Sau khi viết giấc mơ ra, tôi nhớ mình đã nghĩ rằng đây có thể là khởi đầu cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình.

Tuy nhiên, tôi không có ý tưởng rõ ràng nó sẽ dẫn mình tới đâu, và thấy mình khi thì viết ra khi thì loại bỏ phần đầu một số câu truyện tôi tưởng tượng ra từ giấc mơ đó. Cuối cùng, vào tháng 12 năm 2017, tôi đã thuê một căn phòng trên đảo Jeju và dành hai năm tiếp theo để chia thời gian đi về giữa Jeju và Seoul. Đi bộ trong rừng, dọc bờ biển và trên những con đường làng, cảm nhận thời tiết khắc nghiệt của Jeju ở mọi khoảnh khắc – gió và ánh sáng, tuyết và mưa – tôi cảm thấy phác thảo của cuốn tiểu thuyết trở nên rõ nét. Cũng giống như khi viết “Bản chất của người”, tôi đọc lời khai của những người sống sót sau vụ thảm sát, nghiền ngẫm tài liệu, và sau đó, theo cách kiềm chế nhất có thể mà không rời mắt khỏi những chi tiết tàn khốc mà tôi cảm thấy gần như không thể diễn tả thành lời, tôi đã viết nên tác phẩm “Chúng tôi không từ biệt”. Cuốn sách được xuất bản gần bảy năm sau khi tôi mơ thấy những gốc cây đen, biển cả dữ dội đó.

Trong cuốn sổ tay tôi giữ khi viết cuốn sách, tôi đã viết những ghi chú sau:

Cuộc sống tìm kiếm sự sống. Cuộc sống ấm áp.

Chết là trở nên lạnh lẽo. Để tuyết đọng trên mặt thay vì tan chảy.

Giết là làm lạnh.

Con người trong lịch sử và con người trong vũ trụ.

Gió và dòng hải lưu. Dòng chảy tuần hoàn của nước và không khí kết nối toàn bộ thế giới. Chúng ta được kết nối. Tôi cầu nguyện rằng chúng ta được kết nối.

Cuốn tiểu thuyết gồm ba phần. Nếu phần đầu là hành trình chiều ngang theo chân người kể chuyện, Kyungha, từ Seoul đến nhà của người bạn Inseon ở vùng cao Jeju qua lớp tuyết dày hướng đến chú chim cưng mà cô được giao nhiệm vụ cứu, thì phần thứ hai theo một con đường thẳng đứng dẫn Kyungha và Inseon xuống một trong những đêm đen tối nhất của nhân loại – đến mùa đông năm 1948 khi thường dân trên đảo Jeju bị tàn sát – và xuống tận đáy đại dương. Trong phần thứ ba và cũng là phần cuối cùng, hai người thắp một ngọn nến dưới đáy biển.

Mặc dù cuốn tiểu thuyết được hai người bạn kéo về phía trước, ngay khi họ thay phiên nhau cầm nến, nhân vật chính thực sự của nó và người có liên quan đến cả Kyungha và Inseon là mẹ của Inseon, bà Jeongsim. Bà là người đã sống sót sau vụ thảm sát ở Jeju, đã chiến đấu để lấy lại dù chỉ một mảnh xương của người thân yêu để có thể làm một đám tang tử tế. Bà là người từ chối ngừng than khóc. Bà là người chịu đựng nỗi đau và chống lại sự lãng quên. Người không nói lời tạm biệt. Khi chăm sóc cuộc sống của bà, vốn đã sôi sục trong nỗi đau và tình yêu với mật độ và sức nóng ngang nhau, tôi nghĩ những câu hỏi mà tôi đang tự hỏi là: Chúng ta có thể yêu đến mức nào? Giới hạn của chúng ta ở đâu? Chúng ta phải yêu đến mức nào để rốt cuộc vẫn là con người?

*

Ba năm sau khi công bố bản tiếng Hàn của “Chúng tôi không từ biệt”, tôi vẫn chưa hoàn thành cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình. Và cuốn sách mà tôi hình dung sẽ theo sau cuốn tiếp theo đã chờ đợi tôi trong một thời gian dài. Đó là một cuốn tiểu thuyết thực sự có kết nối với cuốn “Trắng” là cuốn sách mà tôi đã viết với mong muốn được dành cuộc đời mình, trong một thời gian ngắn, cho người chị gái đã rời bỏ thế giới chỉ hai giờ sau khi chào đời, và cũng để nhìn sâu vào những phần trong con người chúng ta không thể nào bị phá hủy bất kể điều gì xảy ra. Như thường lệ, không thể dự đoán khi nào thì mọi sự sẽ hoàn thành, nhưng tôi sẽ vẫn tiếp tục viết, dù chậm đến đâu. Tôi sẽ để lại phía sau những cuốn sách đã viết và tiếp tục đi tới. Cho đến khi rẽ vào một khúc quanh và thấy rằng chúng không còn nằm trong tầm mắt của tôi nữa. Đi thật xa mà cuộc sống của tôi cho phép.

Khi tôi rời xa chúng, những cuốn sách của tôi sẽ tiếp tục cuộc sống của chúng độc lập với tôi và đi theo số phận của riêng chúng. Cũng như hai chị em đó, luôn mãi bên nhau ở trong chiếc xe cứu thương khi ngọn lửa xanh bùng cháy bên ngoài kính chắn gió. Cũng như người phụ nữ, sắp lấy lại được giọng nói của mình, lấy ngón tay viết vào lòng bàn tay người đàn ông trong sự tĩnh lặng, trong bóng tối. Cũng như chị gái tôi đã qua đời chỉ sau hai giờ ra đời, và người mẹ còn trẻ của tôi đã cầu xin đứa con của mình, “Đừng chết, xin đừng chết”, cho đến tận cùng. Những linh hồn đó sẽ đi xa đến đâu – những linh hồn đã tụ lại trong sắc cam đậm màu sau mí mắt khép chặt của tôi, bao bọc tôi trong một thứ ánh sáng ấm áp khôn tả? Những ngọn nến đó sẽ đi xa đến đâu – những ngọn nến được thắp lên tại nơi mỗi vụ giết người diễn ra, ở trong những thời gian và không gian bị bạo lực khôn lường tàn phá, những ngọn nến trong tay những người thề sẽ không bao giờ nói lời từ biệt? Liệu chúng có truyền từ ngọn bấc này sang ngọn bấc khác, từ trái tim này sang trái tim khác, trên một sợi chỉ vàng không?

*

Trong tập vở nhỏ mà tôi tìm thấy trong hộp giày cũ hồi tháng 1 năm ngoái, bản thân tôi trong quá khứ, khi viết vào tháng 4 năm 1979, đã tự hỏi:

Tình yêu ở đâu?

Tình yêu là gì?

Trong khi đó, cho đến mùa thu năm 2021, khi Chúng tôi không giã từ được xuất bản, tôi đã coi hai vấn đề này là cốt lõi của mình:

Tại sao thế giới lại bạo lực và đau đớn đến vậy?

Nhưng làm sao thế giới có thể đẹp đến thế?

Trong một thời gian dài, tôi tin rằng sự căng thẳng và đấu tranh nội tâm giữa hai câu này là động lực thúc đẩy tôi viết. Từ tiểu thuyết đầu tiên đến tiểu thuyết gần đây nhất, những câu hỏi mà tôi luôn ghi nhớ vẫn liên tục thay đổi và mở ra, nhưng đây là hai câu hỏi duy nhất không đổi. Nhưng hai hoặc ba năm trước, tôi bắt đầu nghi ngờ. Liệu tôi thực sự chỉ bắt đầu tự hỏi về tình yêu – về nỗi đau gắn kết chúng ta – sau khi Bản chất của người được xuất bản tại Hàn Quốc vào mùa xuân năm 2014? Từ tiểu thuyết đầu tiên đến tiểu thuyết mới nhất, chẳng phải tầng sâu nhất trong những câu hỏi của tôi luôn hướng đến tình yêu sao? Có phải tình yêu thực sự là ẩn ý lâu đời và cơ bản nhất trong cuộc đời tôi không?

Tình yêu nằm ở một nơi riêng tư được gọi là ‘trái tim tôi’, đứa trẻ đã viết vào tháng 4 năm 1979. (Nó nằm bên trong lồng ngực đập thình thịch của tôi.) Và về tình yêu là gì, đây là câu trả lời của cô bé. (Đó là sợi chỉ vàng kết nối giữa những trái tim chúng ta.)

Khi viết, tôi sử dụng cơ thể mình. Tôi sử dụng tất cả các chi tiết giác quan của việc nhìn, nghe, ngửi, nếm, của việc trải nghiệm sự dịu dàng, ấm áp, lạnh lẽo và đau đớn, của sự nhận thấy tim mình đập nhanh và cơ thể cần thức ăn và nước uống, của việc đi bộ và chạy bộ, của sự cảm nhận gió, mưa và tuyết trên da thịt mình, của bàn tay nắm lại. Tôi cố gắng truyền tải những cảm giác sống động mà tôi cảm thấy như một người phàm với dòng máu chảy qua cơ thể vào các câu văn của mình. Như thể tôi đang truyền một luồng điện.

Và khi tôi cảm thấy luồng điện này được truyền đến người đọc, tôi vô cùng kinh ngạc và xúc động. Trong những khoảnh khắc đó, tôi lại trải nghiệm sợi dây ngôn ngữ kết nối chúng ta, cách những câu hỏi của tôi liên quan đến độc giả thông qua thứ điện dẫn sống động đó. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất của mình đến tất cả những người đã kết nối với tôi thông qua sợi dây đó, cũng như tất cả những người có thể đến để cũng kết nối như vậy.

Han Kang

Ngân Xuyên dịch từ bản tiếng Anh