Inrasara: Đám thiêu Cham & Nỗi niềm Ma Hời hiện đại

Sáng 21-8-2024, một tút (status) ngắn trên Facebook của một bạn trẻ khiến cộng đồng Cham xôn xao. Xôn xao, bởi nó quá thật. Rằng phong tục Cham sao mà dã man, anh trai tôi mất đã đau một lần, nay phải chịu đau thêm lần nữa.

Bà con Cham cắt ảnh gửi đến tôi, và “Cei Sara cần lên tiếng về vụ này”. Đọc, tôi tin nick này nghĩ thật, đau thật, và viết thật – thật cả mấy lỗi chính tả trong chưa tới trăm từ. Là điều quý. Tiếc, bạn không hiểu sự vụ, càng không hiểu minh triết Cham, nên mới thế. Xin tuần tự…

[1] Ở Pangdurangga gồm hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, dân số Cham khoảng 120.000 người. Cham theo hai tôn giáo chính: Bà-la-môn và Bà-ni, cùng bộ phận nhỏ theo Islam và đạo Chúa. Cham Bà-la-môn có tập tục hỏa táng, còn Bà-ni địa táng. Người Cham Bà-la-môn hay Cham Ahiêr trưởng thành khi mất đi, dù gia cảnh thế nào cũng cần nhận được đặc ân tối thiểu: đám thiêu. Họ nghĩ, nếu không qua đám thiêu, sinh linh ấy sẽ thành Ma Hời, là điều Cham hãi nhất trần đời.

Suốt chiều dài lịch sử, đã có hàng triệu Ma Hời tồn tại. Bởi đâu? – Người sống sót vội vã chạy loạn, không kịp làm đám thiêu cho người thân mất, hồn oan không được giải để lìa trần đúng nghĩa, để họ mãi mãi ở lại với đất.

“Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi” [Chế Lan Viên].

Thời cận đại, tình trạng này vẫn còn. Chú Mưdwơn Hán Phải tôi kể, thập niên 1940 dịch tả tràn lan, dân chết, bà con rời làng dắt díu nhau trốn lên rừng, xác người bỏ lại. Khi giặc tan, người của dòng họ không còn, hoặc đã bỏ đi luôn, sinh linh thiếu may mắn kia thành… Ma Hời. Nỗi này cứ ám ảnh Cham đến nỗi lúc chú bệnh nặng, khi ấy tôi đã dân Sài Gòn, chú vẫn gượng nằm chờ… tôi, chỉ để trăn trối: Trạm can thiệp giúp đừng để chú phải chịu chôn cho đất ăn ‘haluk bbang’ nhé. Nhưng rồi chú cũng đành tuân thủ phép làng: chôn! Tại sao?

2. Chính từ nỗi sợ ở lại đất để thành Ma Hời mà thời hiện đại, người Cham Ahiêr được ưu tiên cho đám thiêu ngay khi mất, gọi là Đám tươi ‘Đam that’. Câu hỏi: Cớ sao lại nẩy ra vụ “chôn” tạm như hiện nay? Sự thể xuất phát từ dân Chakleng vốn mang tiếng là “sanh sự”, qua mấy nguyên do:

Thứ nhất, khi ấy cộng đồng Cham còn rất nghèo, không chuẩn bị đồ đạc, tiền của kịp cho Đám. Thứ hai, từ ngày mất đến ngày được cho là “lành” để làm đám, có khi kéo dài đến vài tuần, khá mất vệ sinh. Cuối cùng, một sự cố xảy ra. Ở đám thiêu nọ, đoạn “phim” lạc đi xa cho dân Tây xem mà khiếp: Phong tục Cham dã man quá đỗi, chặt đầu người chết! Tiếng “xấu” đồn về khiến thế hệ mới cảm nghe xấu hổ, và quyết cải cách!

Dân Chakleng bày nhau, rồi đi đến quyết định. Người mất, cứ gửi thân cho Thần Đất giữ tạm [‘ba nau paywa’: mang đi gửi] cho đến khi nó được tiêu hết (khoảng 2-3 năm), mới được giở lên làm đám thiêu, gọi là ‘Đam thu’ Đám khô.

Đồng dao Cham:

Ciim dak ciim din/ Kauh nhjuh amil/ Ơm Cam mưtai

Paxeh rok nau rok mai/ Jiơng grwak jiơng đang

Palei Yok Yang/ Thuw ngap ratak…

“Chim dak chim din/ Chặt củi me/ Thiêu người Chăm chết

Ông thầy Xế giở qua giở lại/ Lật ngửa lật nghiêng

Làng Thanh Hiếu/ Biết trồng đậu…”

Đám thiêu một người dì của Inrasara.

3. Bạn trẻ đăng tút ấy, do không hiểu diễn biến sự vụ, nữa: do hiểu sai tập tục và quan niệm của dân tộc mình về cái chết.

Người Cham nhận ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. Ở Ấn, người mất được làm đám thiêu ngay, xong tất cả tro cốt cho xuống Sông Hằng và nhờ sông mang lên thiên đường, siêu thoát. Người ở lại không còn gì để phụng tự, thế thì hư vô quá! Cham nghĩ khác và chọn cánh làm siêu hơn: Ở hôm hỏa táng, người mất được giữ lại 9 miếng xương trán, cho vào ‘Klong’ (lọ nhỏ) đợi ngày vào Kut, thời gian có khi kéo dài 20 năm. Vậy là mọi người được sum vầy trong “nghĩa trang” tộc họ, đời đời tồn tại. Tôi nhiều lần ca tụng Kut Cham Ahiêr thuộc dạng văn minh hàng đầu thế giới.

Kut, nghĩa trang tộc họ mẫu của Cham Ahiêr. Ảnh tư liệu Inrasara.

Và đây là quan niệm của người Cham về sống chết. Người thân mất, buồn và đau, ai mà chẳng. Còn khi sinh linh ấy được hưởng Đám thiêu, thì là ngày vui. Vui, vì ta sắp về “nhà” gặp ông bà tổ tiên.

Ta về cố quận tình ơi

Cuộc buôn đã mãn nhà ai nấy về

(Trường ca Ariya Nau Ikak)  

Ngay cả khi làm Đám tươi, tay chân thò ra khỏi giàn lửa cũng chả sao. Người đến xem đông đen, thợ phụ trách đẩy nó vào giàn cho lửa tiêu tiếp. Để người sống thấy tận mắt và hiểu, rồi một ngày bất chợt nhưng chắc chắn, hình hài bạn hôm nay dù ngon lành đến đâu rồi cũng sẽ rã tan như thế như thế. Vậy hà cớ hôm nay ta không SỐNG ĐẸP với nhau?!

4. Thời đại thay đổi, cách nghĩ đã khác, và ta cũng nên khác. Giải quyết vấn đề thế nào? Năm 2017 ở serie “Đi tìm Sinh lộ cho Cham Ahiêr Awal” trên website Inrasara.com, tôi đã bàn thấu đáo, nay tóm:

Bởi ba nguyên do đã nêu, từ đầu thập niên 1980, Chakleng buộc “đứa con của Đất” mất đi phải chịu qua ở phần đất tạm, sau đó mới được “giở lên” làm Đám khô, từ đó các palei khác noi theo, riêng chức sắc Bà-la-môn là ngoại lệ. Dẫu sao ở hiện tại, các trở ngại cũ đã bị thời đại vượt qua: Điều kiện kinh tế tốt hơn, vệ sinh được bảo đảm, dân số đông kéo theo nhiều người “đi xa” hơn khiến phần đất tạm thành chật chội. Làm gì?

Tôi đề nghị hai hướng: Hướng thứ nhất, người mất được cho vào hòm [dù trái với phong tục Cham nhưng bảo đảm vệ sinh], hành lễ ngay như tập tục xưa nay. Thứ hai, người mất, hành lễ rồi đưa vào lò thiêu ngay trong ngày, rồi trở về làm đám. Đây là cách hiện đại mà vẫn truyền thống. Người Cham Bà-ni xưa nay đều thế: Nội nhật trong ngày, người mất được đưa vào Ghur chôn, rồi về làm đám tang Padhi.

Riêng về chọn ngày “lành”, mươi năm qua Cham cũng đã linh động, ngoài vài ngày tối kị thì ngày nào cũng được cho là lành, miễn lễ đủ 3 ngày 1 buổi cho đám tang. Ngay cả thời gian cũng cần rút lại còn 2 ngày lễ 1 buổi thiêu, bỏ qua ngày “Ở không” ‘Dok thoh’, vì không cần thiết nữa.

Tạm kết. Cách nghĩ của thế hệ trẻ cũng cần được tiếp nhận và xét đến, bởi họ là của tương lai. Bạn viết tút thượng dẫn, dẫu phát ngôn chưa chuẩn mực, nhưng đó là cách nghĩ thật của họ. Bởi việc ta làm hôm nay để làm gì, nếu không phải cho thế hệ mới! Cho con cháu hãnh diện về Cham, hãnh diện về truyền thống văn hóa dân tộc, và không để bị bật gốc giữa cuồng lưu thời đại.

P.S.

MA HỜI

Vất vưởng ở đường biên đêm và

ngày những con ma Hời giữa sống

và chết sự thật và huyền thoại

mù mờ lồ lộ trên lằn ranh

vắng mặt và có mặt. Những con

ma Hời tưởng đã mất hôm qua

vẫn còn hôm nay lầm lụi giữa

quen và lạ xa lánh hay gọi

mời. Những con ma Hời vật vờ

giữa âm và dương trên đường biên

thế kỉ cũ và mới. Những con

ma Hời đã mất thân xác nhưng

chưa hóa linh hồn Cham Hroi chối

từ Cham Jat không nhận dắt nhau

đi và về dọc đường ranh duyên

hải và đồi núi miền Trung vào

giấc đêm chưa qua ngày chưa tới.

Những con ma Hời hết làm người

nhưng chưa thành ma lấp lửng khu

lều trại trước cửa thiên đường và

địa ngục không đói rét cũng chẳng

no đủ. Những con ma Hời căn

cước tên người họ ma quá khứ

đã xóa sổ tương lai chưa ghi

tên tạm trú dài hạn đường biên

hai thế giới. Những con ma Hời

Năm thế kỉ qua.

(Inrasara, Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài thơ tân hình thức, 2006)

Inrasara.