Inrasara: Làng & Văn hóa Làng Cham
Twai tamư paga yuw ba mưda tamư sang
Khách bước vào cổng nhà như mang cái giàu vào nhà
Câu tục ngữ nói lên đầy đủ tính hiếu khách của Cham. Giàu hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này. ‘Mưda’ là giàu nói chung, ‘ginup’: giàu bạn, giàu tình, giàu của cải, “giàu” con cháu, còn ‘kaya mưda’ là vừa giàu vừa sang…
Cham hiếu khách, sẵn sàng mở rộng cửa, rộng lòng để đón khách thập phương. Ngược lại, người khách cần có lối ứng xử đúng điệu, để hai bên không bị phiền hà khi tiếp xúc, bịn rịn lúc chia tay, và nhất là – nở nụ cười hay vỗ vai hẹn ngày tái ngộ. Cho dù thời hiện tại, người Cham đã phần nào “văn minh” hóa theo thời, nhưng đâu phải chỉ cần ứng xử lịch thiệp như của người văn minh là xong, là ổn. Mỗi dân tộc có đặc trưng của nó. Cham không là ngoại lệ. Vậy, trước khi “bước vào cổng nhà” Cham, mời các vị khách quý tự trang bị cho mình vài “kiến thức”căn bản, gọi là nhập môn.
1. Làng palei
Palei Cham tương đương làng Việt. Vị trí tốt nhất của một làng Cham là: cổng làng hướng về Nam, phía núi. Tục ngữ Cham:
Cơk mưraung, kraung birak
Núi hướng Nam, sông hướng Bắc.
Tuy thế khác với làng người Việt mà ngõ chẹt nhỏ hẹp, nhà san sát nhau; đường sá trong palei Cham khá thoáng. Hãy tưởng tượng, một gia đình cách cổng làng trăm bước, xe trâu Cham ‘rideh kabaw’ bề rộng 3m, dài 5m làm sao xe chở củi vào được, nếu đường làng chật chội? Ngay cả chẹt giữa nhà với nhà cũng ít nhất phải mét rưỡi.
Nhà cửa được bố trí theo liên gia trong dòng họ ‘gơp’; dòng họ này lại chia ra thành chi họ ‘ciet prauk’. Dĩ nhiên trong quá trình chung sống, đôi khi xuất hiện vài gia đình khác dòng họ đột xuất xen vào. Các liên gia được bố trí theo từng dãy nằm song song.
Nhà Cham luôn được bao bọc bởi hàng rào, xưa là cây củi hay tre, nay bằng tường thành. Cổng vào nhà mở ra hướng Nam. Đi theo đường làng rẽ vào chẹt, tại đó khách chưa thấy cổng ngay mà khách còn quẹo thêm 3-4 bước nữa mới tới cổng. Đến lúc này vị khách mới thật sự bước vào cổng nhà ‘babbơng jang’. Cũng cần biết thêm, khuôn viên nhà Cham còn có “cổng phụ” được mở ra để mang thi thể ra ngoài, khi gia đình có người mất.
2. Khuôn viên nhà ‘ala paga’
Khuôn viên nhà Cham có thể có một hay vài gia đình chung sống. Tạm lấy một gia đình ăn nên làm ra làm khuôn mẫu. Nhà ‘sang’ Cham có năm căn được bố trí khác nhau, tùy công dụng của nó. Sang Yơ, là ngôi nhà được xây dựng đầu tiên, hướng đông tây, vừa để ở vừa dùng cho phong tục tập quán mang tính gia đình. Sang Mưyuw nằm song song với sang Yơ, cửa lớn mở ra hướng Nam, thông với sang Yơ. Sang Twai dùng để tiếp khách và dành cho khách lưu trú. Sang Gan (nhà Ngang), cửa mở hướng tây nối với đầu hồi sang Yơ. Sang Ging (nhà bếp) nằm biệt lập và cách quãng hẳn các nhà kia, có khi nằm khuất sau sang Gan.
Đại để như thế. Nếu khuôn viên nhà rộng hơn, người Cham làm thêm nhà tạm không che chắn để nông cụ, cối xay lúa… và dĩ nhiên không thể thiếu vài giàn mướp, bầu. Quan sát khuôn viên nhà người Cham, khách thường lấy làm lạ là hiếm khi thấy bóng cây, nhất là cây to cao, dù đây là xứ nắng nóng và ít mưa nhất nước. Có người giải thích Cham sợ ma trú hay làng xóm thường bị giông bão, nên người Cham kiêng kị trồng cây.
3. Lễ adat
Tiếng chào cao hơn mâm cỗ, người Việt nói thế.
Khách bước vào cổng, nụ cười là điều đầu tiên khách nhận ra, sau đó là: ‘Ai (wa, nai,…) mai mưng bien?’: Anh (chị, bác, cô,…) đến hồi nào?, ‘Biruw mai nan yơ: Mới tới đấy à? không phải để tìm hiểu thời gian khách đến, mà chỉ nên hiểu đó chỉ là câu chào đơn thuần!
Đời thường là vậy, còn chốn công đường, Cham có lối chào đặc trưng. Chấp hai tay đặt trước ngực, đầu hơi nghiêng thấp để chào người cùng trang lứa. Tay chấp lại đặt trước trán quá đầu một ít, để chào người lớn tuổi hay bậc cấp cao hơn mình trong xã hội. Riêng “chào” người quá cố hay nhà vua thì vẫn thao tác như trên nhưng người chào phải nằm rạp xuống đất. Lối chào này gần như đã thất truyền; bà con Cham hiếm khi biết và sử dụng nó trong sinh hoạt ngày thường, mà chỉ thực hiện trong các cuộc lễ, buổi thờ cúng.
4. Người Cham ăn mặc
Nhìn chung, như mọi người văn minh khác, nghĩa là vẫn quần dài với áo sơmi. Y phục Tây, vắn tắt thế. Chỉ có nữ giới là mặc váy, thi thoảng thoáng thấy bóng áo dài Cham, nhất là với phụ nữ có tuổi. Chỉ những ngày lễ hay khi tiếp khách, đại đa số Cham đều mang y phục dân tộc. Nam: ‘khơn’ váy, ‘aw likei’ áo ngắn tay hay ‘aw atah’ áo dài tay. Nữ thì ‘khơn’ váy (quần một ống), ‘aban’ dằn; còn áo thì có: ‘aw lwak’ áo dài không xẻ vạt với những biến thái khác nhau. Dĩ nhiên cả hai giới đều thích khăn đội (quấn) đầu mà Cham gọi là ‘khan’ hay ‘taniak’. Ngoài ra còn có dây lưng ‘talei ka-ing’ các loại.
Y phục xưa người Cham tự may mặc qua bàn tay khéo léo của người thợ dệt. Chakleng là tên Cham của làng Mỹ Nghiệp, là làng thổ cẩm nổi tiếng có mặt trên ngàn năm, là minh chứng rõ nhất. Ngày nay, người Cham dùng các loại vải hay quần áo may sẵn bán trên thị trường.
5. Chế độ mẫu hệ Cham
Đây là chế độ gia đình tồn tại từ xa xưa trong xã hội Cham. Chế độ gia đình này có mặt trong cộng đồng dân tộc sử dụng ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Mã Lai – Đa đảo tại Việt Nam như: Êđê, Raglai, Giarai… Với Cham tính cố kết cao hơn. Trong một làng Cham, khách có thể phân biệt dòng họ mẹ này với dòng họ mẹ khác qua sự hiện hữu của ‘Kut’ nghĩa trang hệ mẹ (Cham Bà-la-môn), hay ‘Ghur’ (Cham Bàni) nằm cạnh làng hay cách làng không xa.
Chính chế độ mẫu hệ lưu tồn nếp sống văn hóa lâu bền, để các nét đặc trưng Cham tồn tại đến ngày nay. Mươi năm trở về trước, xã hội Cham tuyệt không có hiện tượng đĩ điếm hay ăn xin, cũng là thành quả của chế độ xã hội này. (Nói mươi năm về trước, vì khi môi trường nông thôn bị phá vỡ, không hiểu điều gì sẽ xảy ra).
Một câu tục ngữ Cham nói lên sự phân công hai giới rất rạch ròi:
‘Kamei bơng mưnưk, likei bơng mưsuh’
Đàn ông cho chiến đấu, đàn bà cho sinh nở
Đàn ông lo chuyện xã hội, phụ nữ lo việc gia đình. Tất tần tật, từ cơm ăn nước uống đến đãi khách, chăm lo con cái hay bao quát chuyện phong tục tập quán.
6. Người Cham và tri thức
Chế độ mẫu hệ Cham đã công lớn trong việc nuôi nấng người có chữ nghĩa Cham.
‘Hadiip krah ngap hadah bbauk pathang’
Vợ sáng làm sang mặt chồng
Dù khó khăn đến đâu, người mẹ Cham vẫn cố nuôi con ăn học cho nên người. Ngày xưa, 50 năm trở về trước, có thể nói không có đàn ông Cham nào mù chữ mẹ đẻ. Không có vài chữ trong bụng, ít ai dám ngồi gần người thiên hạ. Nông dân Cham không những chỉ cất vài chữ thôi, mà còn khả năng đọc và suy luận sành mọi văn bản cổ. Riêng cánh nữ thì rất hiếm khi sờ mó đến ciet giỏ đựng sách, đó là thiệt thòi lớn. Ngày nay đã khác, người Cham ít khi thất học, nói chi chuyện mù chữ. Dù nam giới luôn được ưu tiên hơn, nhưng đã có sự công bằng trong cách nhìn nhận giữa hai giới.
Vào làng Cham, khách có thể ngạc nhiên với người Cham qua tiếp xúc. Cho dẫu đi cùng vài bạn dân tộc khác, nhưng khi có hai, ba người Cham có mặt ở đó, họ vẫn nói tiếng Cham với nhau, như không có gì xảy ra cả.
Cham có chữ viết ngay thế kỉ thứ IV, sớm nhất Đông Nam Á, là niềm kiêu hãnh của họ. Niềm kiêu hãnh đó ăn vào máu, và vẫn còn truyền lưu đến hôm nay.
7. Vậy, khách vào nhà Cham có kiêng kị gì không? – Chắc chắn là có. Ai mà chả thế, dân tộc văn minh thì càng! Người Cham Bàni kiêng thịt heo, việc thả “heo vào trong vòng rào” cũng là điều tối kị, nói chi mang thịt heo vào nhà.
Cham nghèo thế, nhưng mang của cải cho người chết phải là “hàng thật” chứ không được đem hàng mã (dù là để đốt đi). Họ tin sinh hoạt ở cõi âm cũng hệt như cõi dương vậy. Người Cham tin có quỷ ma. Là ma, khi bạn chết “không lành”, và nhất là khi chưa làm đám thiêu. Để tránh tà ma, bà con Cham còn có lệ dùng nồi gốm trét vôi trắng treo hai bên cổng vào nhà. Trong tháng nằm lửa kiêng kị, gia đình treo nhánh xương rồng ở hai bên cổng vào nhà để làm hiệu nhà có người mới sinh. Ngoài ra người Cham còn cho đốt lửa giữa sân, vừa sáng tránh ma tà vừa giữ “vệ sinh”.
Người thuộc đẳng cấp ‘Paxeh’ tuyệt đối không vác bất kì thứ gì lên vai, cả khi làm việc đồng áng, họ chỉ xách. Hai vai là nơi trụ của thần linh: ‘Ppo dơng di dwa guk bira’: Thần ngự trên hai vai, họ nghĩ thế. Ăn các loại lòng cũng là điều tối kị. Ngay cả trong giới bình dân, đàn ông Cham kiêng chui qua dây phơi áo hay các đồ ô uế như chổi, chăn phụ nữ.
Đó là mấy sự “lớn”, ngay việc nhỏ như trải chiếu, người Cham cũng có lối kiêng kị riêng. Bạn trải chiếu sai hướng, đố có quý ông Cham nào dám ngồi. Phải là hướng đông-tây chứ không ngược lại, bởi hướng bắc-nam là hướng nằm của người chết.
Đó là triết lí về phương hướng của Cham. Đại bộ phận tháp Cham cửa hướng mặt trời mọc, là nơi cư trú của các thần linh. Hướng nam dành cho người chết, thế nên đầu giường ngủ tuyệt tránh hướng này. Cửa ‘Kut’ mở về hướng bắc, chớ tháp với cổng nhà thì kiêng.
Rủi ro con mang ‘njrwah’ đâu lạc vào làng thì làng cũng phải làm lễ tẩy uế. Kể rằng sự thể có nguyên do từ đời thực, xưa loài này chạy vào làng được đám thanh niên bắt làm thịt xơi thế nào ấy bị ngộ độc chết cả chục. Từ đó dân làng kiêng luôn, kiêng thành kị.
Người chết ở ngoài làng thì thi thế không được đưa vào làng, là điều đầu tiên bạn cần biết đến. Thế, nhỡ người Kinh sống cộng cư thì sao? Một thời gian, gia đình ém nhẹm mãi sau khi vỡ ra thì làm lễ tẩy uế làng. Sau này dân làng Chakleng giải quyết tình lí vui cả làng. Người Việt vẫn được phép mang thi hài vào, với điều kiện sau đó làm lễ tẩy uế làng.
Hiểu đại khái vậy thôi mà có thể chung sống, hài hòa và yêu thương – không sướng sao!
Inrasara