Lê Học Lãnh Vân: Nhà văn Hoài Thanh và tấm lòng thể tất bị đứt gãy

Tác giả Lê Thị Thanh Tâm, trong bài viết “Sự Thể Tất Của Trí Tuệ”, cho rằng trong câu chuyện “nên hay không nên để tác phẩm Chí Phèo trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11” (1) có hai phe tranh luận nhau trên hai logic khác nhau. Người cho rằng nên bỏ tác phẩm Chí Phèo khỏi chương trình đang theo logic về mặt giáo dục, còn người cho rằng nên để thì đang theo logic về mặt cảm thụ văn học. Hai phe dấn vào một cuộc tranh cãi không khoan nhượng “mà ai cũng thấy bị tổn thương”.

Theo tác giả, nguyên nhân của việc này là do khi tranh luận, người ta không “Thể Tất” cho nhau. Nghĩa là người bên này không chịu hiểu rằng bên kia đang nhìn sự việc từ một góc độ khác, bên kia cũng có cơ sở cho lý luận của họ. Chỉ cần có sự Thể Tất này là thay vì đối đầu nhau, người ta có thể cầm tay làm bạn song hành. Để lắng nghe nhau, học lẫn nhau, bổ sung cho nhau, tiếp nối nhau… làm giàu thêm cho học thuật chung của xã hội.

Tác giả đưa ra thí dụ về nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh qua tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” của ông, trong đó ông thể tất cái dở về làm thơ mới của Phan Khôi và Manh Manh nữ sĩ để tôn vinh họ như những nhà khai sơn phá thạch cho phong trào Thơ Mới đầu thế kỷ 20.

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh (1909 –  1982) 

Trong khi đồng ý với Lê Thị Thanh Tâm về thí dụ nói trên, tôi cũng xin được nhận xét rằng tấm lòng Thể Tất được thể hiện trong rất nhiều bài viết của Hoài Thanh, vốn là người ủng hộ nhiệt tình Thơ Mới và làn gió văn hóa phương Tây. “Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta”, “Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy”. Thật khó tìm những câu văn nhiệt thành hơn với Thơ Mới như những câu của Hoài Thanh trích từ bài “Một Thời Đại Trong Thi Ca” (2). Vậy mà, có tiếng khóc và lời tôn vinh nào dành cho Tản Đà, một nhà Thơ Cũ, thống thiết hơn bài “Cung Chiêu Anh Hồn Tản Đà” của Hoài Thanh? Dù vẫn biết các giới hạn trong Thơ Cũ của Tản Đà, Hoài Thanh vẫn thấy cái hay, cái tài tình, cao thoát của những bài thơ “sông Đà, núi Tản” đã “dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa” (3).

Tấm lòng Thể Tất cũng được Hoài Thanh nhỏ to tâm sự cuối quyển Thi Nhân Việt Nam: những xấu xa của một người chỉ là bề ngoài, phần tốt đẹp nhất, sâu sắc nhất của người đó mới đáng xem, đáng học… 

Lê Thị Thanh Tâm cho rằng “Sự thể tất có tính trí tuệ và trí thức của Hoài Thanh cắt nghĩa nền tảng học thuật trước 1945. Đó là sự thể tất rất tự nhiên, bởi khi có thể nhìn trực diện vấn đề và không cần phải bảo vệ một điều gì đó theo thói quen, thì người ta sẵn sàng thể tất. Đó là thứ phóng khoáng có được từ một tinh thần tự do nhận biết, chịu trách nhiệm về sự nhận biết của mình” (1). Khi xem lại các bài bình luận, phê bình của những tác giả như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, hay thậm chí những bài bút chiến quyết liệt của Phan Khôi trong thời kỳ này, tôi có cùng cảm nhận với tác giả.

Tuy nhiên, trong giai đoạn sau năm 1945, Hoài Thanh đã khiến nhiều người cảm nhận ông không còn giữ được thanh danh của người biết Thể Tất. Đọc những bài viết của ông sau đó, đã thấy vắng đi tính phóng khoáng trong tư tưởng, tính đa chiều trong lập luận. Từ một nhà phê bình văn học của một nền văn hóa, văn chương chung, ông đã tự chuyên môn hóa thành một nhà phê bình của một hệ tư tưởng, một giai cấp, một cuộc cách mạng… 

Trong một buổi nói chuyện về thơ Hồ chủ tịch tại trường Đại Học Tổng Hợp TpHCM những năm đầu tiên sau năm 1975, ông Hoài Thanh nói về một bài thơ chữ Hán của ông Hồ Chí Minh trong đó có trò chơi chữ chiết tự. Ông nói bác Hồ làm thơ chữ Hán hay và rành chữ Hán hơn người Hán. Sau buổi nói chuyện, tôi gặp riêng và hỏi ông rằng trước bài thơ chiết tự của chủ tịch Hồ Chí Minh hơn nửa thế kỷ, Nguyễn Công Trứ đã có các câu “Thị tại môn tiền náo / Nguyệt lai môn hạ nhàn”, và một trăm năm trước đã có “Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc / Phận liễu sao đà nẩy nét ngang” mà người ta truyền rằng của bà Hồ Xuân Hương. Đều là những cách chiết tự tinh tế và kẻ hậu sinh mong được học hỏi. Ông có vẻ không vui, còn tôi dư biết một người kiến văn rộng rãi như ông sao lại không biết những điều sơ đẳng kia! Người Thể Tất cần Bao Dung, bao dung cần Trung Dung. E rằng tấm lòng Thể Tất đã ít nhiều nhạt đi nơi ông Hoài Thanh… 

Những lần nói chuyện khác của ông tại các trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học Tổng Hợp TpHCM, Liên Hiệp Các Hội Văn Nghệ Tp HCM những năm sau 1975, có khi câu chuyện dẫn tới phải liên tưởng, so sánh với các nhà thơ tiền chiến di cư năm 1954, các nhà thơ có mặt trong Thi Nhân Việt Nam, càng tạo nơi tôi cảm nhận ông là một người lính dùng vũ khí văn hóa, chứ không là một nhà văn hóa có tính chất người lính. Có người cho rằng hai con người đó có thể là một, tôi lại không nghĩ vậy, hai người đó có hai nhiệm vụ khác nhau. Người lính nghe theo mệnh lệnh của cấp trên, dùng văn hóa làm vũ khí xông tới, cho dù có khi trái với yêu cầu chân thiện mỹ của văn hóa, học thuật. Nhà văn hóa, trái lại, nghe theo học thuật, khoa học để thảo luận, truyền bá những tính chất tốt đẹp, hướng thượng của văn hóa…

Nửa đầu thập niên 1980, anh em văn nghệ sĩ tại Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Tp HCM chuyền tay nhau một tập giấy xấu, khổ A4, màu nâu sẫm, đánh máy chữ nhỏ khó đọc. Tập thơ này của nhà thơ Xuân Sách vẽ chân dung đồng nghiệp, bạn bè nhà văn của ông, rất được tán thưởng và bàn luận quanh bàn trà. Thời đó những dòng thơ động tới các “quan lớn văn nghệ” như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… là điều cấm kỵ. Nhà thơ Xuân Sách nhận xét về Hoài Thanh một cách phạm thượng bằng tám câu lục bát theo lối lẩy Kiều…

“Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan”

Trong tám câu trên, câu thứ sáu điểm nhãn cho toàn bộ bài thơ, tóm tắt và giải thích thái độ của Hoài Thanh trong bốn câu trước đó: “vị người ngồi trên” và “lại lèn cho đau”! Đó là do Hoài Thanh “vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình”! Lời phê bình của Xuân Sách hẳn phải là nỗi đau theo đuổi Hoài Thanh tới cuối đời. Đọc những giòng cảm động của Từ Sơn viết về người cha Hoài Thanh của mình, tôi cảm được và kính trọng nỗi đau buồn đó! Tôi tin sự chân thật của hai cha con Hoài Thanh – Từ Sơn khi cho rằng Hoài Thanh đã sống và viết một cách trung thực (4). 

Có dịp ngồi nghe Hoài Thanh đàm đạo với những người đồng vai vế với ông trong lãnh vực văn học nghệ thuật, tôi cảm nhận mình được nghe một nhà trí thức tiền bối nổi tiếng đang trăn trở. Nhà trí thức đó lại cho tôi thấy mâu thuẫn nội tại của mình. Một mặt ông hiểu rõ những tính chất quan trọng nhất của người trí thức là tinh thần hoài nghi, tinh thần phản biện, dấn thân, là lòng Thể Tất, Bao Dung tôn trọng tính đa chiều trong học thuật, tôn trọng lập luận của người tranh luận. Một mặt, ông có những tượng đài của riêng ông mà ông luôn bày tỏ lòng khâm phục, ngưỡng mộ tới mức gần như thần thánh hóa, không thể đem ra luận bàn trái chiều, có những lãnh vực không thể đặt câu hỏi phê phán! Hoài Nghi, Thể Tất, Bao Dung… không có đất đứng những nơi này!

Có phải chăng, một thời, phần do tâm lý bị đè nén bởi tình trạng đất nước bị Pháp đô hộ, phần do ánh sáng hứa hẹn chói chang của chế độ mới còn đang ở chân trời, nhiều người Việt Nam lao mình theo con đường giành độc lập với tư tưởng một chiều, ra đi “đầu không không ngoảnh lại” (5).

Hoài Thanh, cũng như nhiều nhà trí thức cùng thời, hăng hái dấn thân, lao vào cuộc chiến khốc liệt “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mà chưa lường hết hậu quả! Không cần cân nhắc những con đường khác, tin rằng chỉ có bạo lực mới cởi được gông xiềng, họ chấp nhận bỏ hết, quên hết. Bỏ và quên hết nhiều thứ trong quá khứ, cả quá khứ và thành tựu của riêng mình cũng như những tính chất căn bản của một người trí thức, trong đó có tính Thể Tất, Bao Dung. Bỏ và quên hết cả một nền văn minh mang trong nó những giá trị Nhân Ái, Bình Đẳng, Tự Do cùng nhiều giá trị nhân bản khác! Trong hoàn cảnh của khí thế ào ạt đại chúng, người trí thức bình thường khó giữ mình để “thể tất nổi câu nhân tình”! Bao nhiêu máu xương đổ xuống, bao nhiêu cơ hội lớn của quốc gia bị phí phạm vì sự cực đoan một chiều của cuộc phiêu lưu bạo lực quá lớn!

Từ góc nhìn của công cuộc giải phóng dân tộc, đó là sự hy sinh đau đớn! Sự hy sinh đó khiến nhà trí thức đọc nhiều Hoài Thanh cuối đời phản tỉnh, chấp nhận bài thơ của Xuân Sách phê phán mình:

“Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan”

Để về sau và cho tới bây giờ, ông và các bạn cùng thời, và nhiều thế hệ sau nữa, phải thiết lập lại các giá trị đó, thay vì đứng trên chúng mà thiết lập những giá trị cao hơn… 

Trong lúc đất nước vẫn còn lay hoay với những chuyện “Chí Phèo”!

Lê Học Lãnh Vân 

(ngày 28 tháng 01 năm 2018)

===========

THAM KHẢO

(1) Lê Thị Thanh Tâm, Đề xuất đưa “Chí Phèo” ra khỏi chương trình lớp 11: Sự thể tất của trí tuệ. Viet Nam Net, 11/12/2017

(2) Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam. tr. 17, Nxb Văn Học, 2000. 

(3) Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam. tr. 12, Nxb Văn Học, 2000. 

(4) Từ Sơn sưu tầm và giới thiệu, Hoài Thanh trên báo Tràng An, Nxb. Hội nhà văn, 2009

(5) Trích trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Đình Thi.