Ngự Thuyết: Ngày Xuân đọc Thơ (P.1)

Tranh Nguyễn Thị Dung

Tôi thích thơ.

Khi nói thích, cái thích rất chủ quan, nhất là trong lãnh vực thơ. Trong một bài viết ngắn, không thể nào kể ra cho hết những bài thơ ưa thích. Và có thể một số bài được ưa thích hơn lại bị bỏ quên. Ngoài ra có nhà thơ được đề cập nhiều hơn nhà thơ khác, nhưng tất nhiên không thể dựa vào sự “nhiều ít” đó để bảo rằng ai được ưa thích hơn ai, hoặc ai có giá trị hơn ai. Bài viết này chỉ mong nêu lên một phần nào cái hay, cái đẹp của những vần thơ được trích dẫn.

Thơ, thật ra, xuất hiện bàng bạc khắp nơi. Trên màn sương, trong ráng chiều, trên ánh mắt, trong nụ cười, trong lời nói, trên chữ viết … Ở đây ta thử tìm thơ trong hò ru em, trong ca dao, và trong những bài thơ cũ, mới.

Tranh Nguyễn Thanh Bình

Hò ru em nghe từ thuở nhỏ, lớn lên tình cờ nghe lại, vẫn thấy bồi hồi. Đây là “Chị ru em”:

Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao thẳng tao dùi tao nhớ tao thương

Hay:

Hai tay cầm bốn tao nôi
Em nín chị ngồi em khóc chị đưa
Em ngủ thì chị thêu thùa
Mẹ cha lặn lội nắng mưa dãi dầu

Và đây, “Bà ru cháu”: 

Cái ngủ mày ngủ cho sâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về

Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay ngoài đồng

Dân quê không chỉ sinh sống với đồng ruộng, với sông nước nữa chứ. Một cảnh tượng thật sinh động: một con đò nhỏ có tay chống tay chèo đang đi ngược dòng một

con hói hay con sông nước chảy xiết:

Ru hời ru hỡi là ru
Bên cạn thì chống bên su (sâu) thì chèo
Bên cạn thì chống cheo leo
Bên su thì chèo hò hụi hò khoan

Đến ca dao, hồn thơ lai láng. Đời sống dân quê, tình cảm dân quê, được diễn tả trong những vần thơ êm đềm, mộc mạc.

Một người đi xa lâu ngày trở lại quê hương:

Ngày đi trúc chửa ra măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chia vè
Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã tay bồng tay mang

Một cô gái quê tương tư. 

Thuở ấy chưa được phép cha mẹ mà đã yêu đương là trái luân thường đạo lý. Thì phải thầm yêu trộm nhớ. Một mình giọt ngắn giọt dài trong đêm khuya với chiếc khăn. Và “đổ hô” (vu oan) khăn thương nhớ chứ cô gái quê đâu dám tương tư:

Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai khăn chùi nước mắt …

Thuở ấy người và loài vật sống quanh nhau, hiểu biết nhau. Như trong chuyện thần tiên, loài vật biết nghe, biết nói tiếng người:

Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò
Không không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi
Chẳng tin thì ông đi đôi
Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia

Hơn thế nữa, vật dụng cũng được đối xử như con người. 4 câu ngắn dưới đây có đủ bộ ba là con người, thú vật, và vật dụng, cùng nhau chung sống: 

Cám ơn cái cối cái chày
Nửa đêm gà gáy có mày có tao
Cám ơn cái cọc cầu ao
Nửa đêm gà gáy có tao có mày

Tuy nhiên bức tranh quê không phải luôn luôn chỉ gồm những hình ảnh êm đềm. Rải rác đây đó cũng có những màu sắc u ám. Đấy mới là hiện thực.   

Chẳng hạn cảnh mẹ chồng nàng dâu:

Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp cho đau lòng chàng

Chẳng hạn cảnh mẹ góa con côi. Người mẹ muốn đi một bước nữa, đứa con cay đắng chịu đựng:

Dượng chưa qua mần gà chi mạ
Dượng qua rồi bắc trạ lên hon
Miếng mô ngon ngon để dành cho dượng
Miếng mô sượng sượng mạ con mình ăn

Chẳng hạn người mẹ bị sa cơ thất thế vẫn cố gắng bảo toàn cho con cái  khỏi bị vạ lây:

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con

Trước khi bước vào lãnh vực Thơ Mới, một cuộc cách mạng thi ca, xin đọc lại vài bài thơ cũ theo thể Đường luật.

Vào hè (không rõ tác giả):    

Ai xui con cuốc gọi vào hè
Cái nóng nung người nóng nóng ghê
Ngõ trước vườn sau um những cỏ
Vàng phai thắm nhạt ngán cho huê
Đầu cành kiếm bạn oanh xao xác
Trong tối đua bay đóm lập lòe
May được nồm nam cơn gió thổi
Đàn ta ta gảy khúc Nam nghe

Đây là lời than thở vì cái khắc nghiệt của thời tiết mùa hè? Có lẽ không phải chỉ đơn giản có thế. Cái nóng nung người, vàng phai thắm nhạt, oanh xao xác, đóm lập lòe … có tác dụng như hạt tiêu, lát ớt, múi chanh, củ hành, củ tỏi, những  gia vị cay chua, nhằm giúp cho món ăn chính thêm phần thơm tho, đậm đà. Món ăn đó là cái thú gảy đàn. Bài thơ chấm dứt bằng một câu thật bất ngờ và sảng khoái:

Đàn ta ta gảy khúc Nam nghe     

Bài Đường luật tiếp theo là Thu Điếu của Nguyễn Khuyến. Nhan đề dùng từ Hán Việt nhưng toàn bài tổng cộng là 56 từ chỉ 3 từ có gốc chữ Hán – thu, thuyền, trúc.  Đây là một trường hợp lạ lùng. Một bài thơ cổ theo Đường luật của một vị đại nho lại  chứa đầy thứ ngôn ngữ  rất “nôm na”. Cũng thế, tựa đề là Thu Điếu (Mùa thu câu cá) nhưng chuyện câu cá không hề được quan tâm. Trái lại ngư ông ngồi trên chiếc thuyền con mải trầm tư theo gợn sóng, lá vàng, từng mây, ngõ trúc, vắng teo — phải chăng trầm tư về thân phận “bé tẻo teo” của con người giữa trời đất bao la — cho đến khi cá đớp động dưới chân bèo như nhắc nhở mới sực nhớ công việc của mình là ngồi câu:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Như đã nói trên, Thơ Mới là một cuộc cách mạng thi ca. Trong vòng 10 năm của thập  niên 1930, Thơ Mới đã bước đi bằng đôi hia bảy dặm trong thần thoại. Nhiều nhà thơ có tài  xuất hiện. Dưới đây là sơ lược về một số nhà thơ tiêu biểu. 

Hàn Mặc Tử.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912-1940)

Hàn Mặc Tử chánh quán làng Thanh Tân, huyện Phong Điền, Thừa Thiên – Huế, sinh quán tại Quảng Trị lúc thân sinh làm chủ sự sở Thương Chánh  ngoài đó. Ông có nhiều bút hiệu. Bút hiệu thường dùng là Lệ Thanh (lấy chữ đầu sinh quán Lệ Mỹ ở Quảng Trị và chữ đầu chánh quán Thanh Tân ở Huế), rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng đổi thành Hàn Mặc Tử. Đời sống của ông quá ngắn ngủi, chỉ 28 năm (1912 – 1940). Mới 15 tuổi, ông đã làm thơ, 28 tuổi qua đời vì chứng bệnh nan y.  Ông lâm bệnh cuối năm 1936, mất vào năm 1940.

Hàn Mặc Tử là một trường hợp hết sức đặc biệt. Khác với phần lớn các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới, trong 13 năm sống với thơ, ông không ngừng chuyển biến. Thơ ông, về mặt thể loại, khởi đầu bằng thơ Đường luật, rồi qua thơ mới; về mặt nhận thức, từ lãng mạn qua hiện thực, tượng trưng, và đi đến cả địa hạt siêu thực. Loại nào cũng hay. Vào những năm cuối đời, khi bệnh tình ông đã trầm trọng, ông vẫn không thôi làm thơ, và thơ ông càng đặc sắc.

Bài thơ dưới đây, theo thể thơ Đường, được viết lúc ông 15 tuổi, nhưng đã khá già dặn: 

Vội vàng chi lắm

Vội vàng chi lắm nhạn lưng mây

Chầm chậm cho mình giữ mối dây

Về đến Thần Kinh khoan nghỉ đã

Ghé miền Gia Hội tỏ tình ngay

Suốt năm canh mộng hồn mê mỏi

Chỉ một lòng son muốn giãi bày  

Này nhạn ta còn quên chút nữa

Con tim non nớt tặng nàng đây

Bài kế tiếp, tất nhiên vẫn bị gò ép trong niêm luật chặt chẽ của thơ Đường, nhưng rất phóng túng với nhiều hình ảnh linh động, chữ nghĩa mạnh bạo, mới mẻ, gợi ý:

Thức khuya

Non sông bốn mặt ngủ mơ màng

Thức chỉ mình ta dạ chẳng an

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn

Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ

Buồn giúp công danh dế dạo đàn

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ

Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn [1]

Bước qua lãnh vực thơ mới, ông để lại nhiều bài thơ tuyệt hay. Đây thôn Vỹ là một. Thôn Vỹ Dạ ở Huế xưa vốn thơ mộng, nhờ bài thơ của ông lại càng quyến rũ hơn. Chữ nghĩa trong veo, tình ý ngập ngừng, e ấp, êm đềm, tưởng chừng như đó là tiếng nói thỏ thẻ của một tình yêu mới chớm nở:

Thôn Vỹ Dạ, Huế. Ảnh: internet.

Đây thôn Vỹ

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn hiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Bài Tình Quê thì tình ý dâng lên rào rạt, cảm xúc kéo dài liên miên bất tận, trong cảnh trí của quê hương man mác chập chờn kỷ niệm, với lời thơ  nhẹ nhàng, đằm thắm mà thiết tha, như tiếng suối reo, tiếng lá rơi, tiếng chim vỗ cánh, “tiếng buồn, tiếng hờn trong sương đục, trong lũy tre”.  

Tình Quê

Trước sân anh thơ thẩn

Đăm đăm trông nhạn về

Mây chiều còn phiêu bạt

Lang thang trên đồi quê

Gió chiều quên ngừng lại

Dòng nước luôn trôi đi

Ngàn lau không tiếng nói

Lòng anh dường đê mê

Cách nhau ngàn vạn dặm

Nhớ chi đến trăng thề

Dầu ai không mong đợi

Dầu ai không lắng nghe

Tiếng buồn trong sương đục

Tiếng hờn trong lũy tre

Dưới trời thu man mác

Bàng bạc khắp sơn khê

Dầu ai trên bờ liễu

Dầu ai dưới cành lê

Với ngày xanh hờ hững

Cố quên tình phu thê

Trong khi nhìn mây nước

Lòng xuân cũng não nề

Thơ tình của ông khá nhiều mô tả những mối tình ngang trái, dang dở. Ông yêu tha thiết, mãnh liệt, và cũng đau khổ dữ dội không kém. Trong Trường Tương Tư, một bài thơ dài có nhiều câu hay, ông băn khoăn, “Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ/Và tình yêu sao lại dở dang chi”. Rồi ông lo lắng, “Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt/Ngó như gần song vẫn thiệt xa khơi”. Và đau đớn, “Một khối tình nức nở giữa âm u/Một hồn đau rã lần theo hương khói”. Tuy nhiên mối tình đó, tình yêu của đôi lứa nhưng chỉ khiến một mình ông đau khổ cùng cực, chan hòa với tình yêu văn thơ, sẽ sống mãi trong ông, “Cùng tình em tha thiết như văn thơ/ Ràng rịt mãi cho tới ngày tận thế”.  Những bài thơ gần cuối đời ông thường nhắc đến trăng, sao.

Trường tương tư 

Hiểu gì không ý nghĩa của trời thơ

Của hương hoa trong trăng lờn lợt bẩy

Của trời câm muôn vì sao áy náy

Hiểu gì không em hỡi hiểu gì không

Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng

Cho trăng xuân tràn trề say chới với

Cho nắng hường vấn vương muôn ngàn sợi

Cho em buồn trời đất ứa sương khuya

Để em buồn để em nghiệm cho ra

Cái gì kết lại mới thành tinh tú

Và uyên ương bởi đâu không đoàn tụ

Và tình yêu sao lại dở dang chi

Và vì đâu gió gọi giật lời đi

Lời đi qua một chiều trong kẽ lá

Một làn hương mới nửa lừng sa ngã

Anh nếm rồi ý vị của làn mơ

Lệ Kiều ơi em còn giữ ý thơ

Trong đôi mắt mùa thu trong leo lẻo

Ở xa xôi lặng nhìn anh khô héo

Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh

Hãy van lơn ở dưới chân Bàn Thành

Cho yêu ma muôn năm vùng trở dậy

Náo không gian cho lửa lòng bùng cháy

Và để cho kinh động đến người tiên

Đang say sưa trong thế giới Ảo Huyền

Đang trửng giỡn ở trên sông Ngân Biếc

Anh rõ trước sẽ có ngày cách biệt

Ngó như gần nhưng vẫn thiệt xa khơi

Lau mắt đi đừng cho lệ đầy vơi

Hãy mường tượng một người thơ đang sống

Trong im lìm lẻ loi trong dấy động

Cũng hình như em hỡi động Huyền Không

Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng

Ở trong phổi trong tim trong hồn nữa

Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa

Lá trên cành héo hắt gió ngừng ru

“Một khối tình nức nở giữa âm u

Một hồn đau rã lần theo hương khói

Một bài thơ cháy tan trong nắng dọi

Một lời run hồi họp giữa không trung

Cả niềm yêu ý nhớ cả một vùng

Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn”

Đấy là tất cả người anh tiêu tán

Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ

Cùng tình em tha thiết như vần thơ

Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.

Buồn khi biệt ly là chuyện thường tình. Biệt ly trong Truyện Kiều chẳng hạn gắn liền với cô đơn, “Vi lô san sát hơi may/Một trời thu để riêng ai một người”, thì biệt ly của Hàn Mặc Tử là bị ném vào chốn lưu đày, “Tôi vẫn còn đây hay ở đâu/Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu”. Biệt ly là máu me, là vĩnh biệt, là cái chết. Lời thơ bi thảm: 

Những giọt lệ   

Trời hỡi bao giờ tôi chết đi

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tợ si

Họ đã xa rồi khôn níu lại

Lòng thương chưa đã mến chưa bưa

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu

Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu

Sao bông phượng đỏ trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu

Vào mấy năm cuối đời, đau đớn vì cơn bệnh, nhưng nghèo quá, không đủ tiền để vào bệnh viện chữa trị, ông đành phải nằm một mình trong chòi tranh rách nát. Cơn đau, do đó, càng khủng khiếp. Đau đớn và nỗi khổ của ông đã được bày tỏ bằng những lời thơ thống thiết chưa từng thấy trong văn học Việt Nam. Nhưng ông vẫn không rời bỏ Nàng Thơ. Sự gắn bó của Hàn Mặc Tử đối với Thơ quả là ngoài sự tưởng tượng của loài người. Những con chữ kinh dị đó không nằm yên trên trang giấy. Nó rung rinh, khua động, quằn quại:

Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút

Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta

Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt

Như mê man chết điếng cả làn da

Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết

Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh

(Rướm Máu)

Có khi ông dìm hồn xuống trăng ngăn không cho hồn bay ra khỏi xác, để được sống thêm giây phút nào chăng? Hồn là gì để có thể bị dìm xuống, và trăng là gì để ngập lên đến ngực của hồn. Trăng là ánh sáng, hay chất lỏng? Có lẽ chất lỏng, một vũng trăng. Tưởng tượng hoang mang, đảo điên, ghê rợn, như trong cơn mộng dữ:  

Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm

Cho trăng ngập trăng dồn lên đến ngực

Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức

Rồi bay lên cho tới một hành tinh

Cùng ngã nghiêng lăn lộn giữa muôn hình

Để gào thét một hơi cho rởn ốc

Cả thiên đường trần gian và địa ngục

Hồn là ai là ai tôi không hay

Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay

Hồn mệt lả và tôi thì chết giấc

(Hồn Là Ai)

Hình minh họa: pixabay

Cuối cùng niềm tin tôn giáo, ông vốn theo đạo Ky Tô, đã giúp ông tìm thấy mùa xuân như ý.  Lời thơ thắm thiết, say sưa, vang dội, trân trọng:

Trí đương no và khí xuân đương khỏe

Nhạc đương say và rượu vẫn còn thơm

Nên muôn cánh thủy tiên chưa dám hé

Trong phút giây trân trọng của linh hồn

Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ 

Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm

Mà ta ngỡ đấng Tiên Tri muôn thuở

Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm

(Nguồn thơm)

Thâm Tâm.

 Nhà thơ Thâm Tâm (1917–1950)

Thâm Tâm làm ít thơ trong đó có một bài kiệt tác, Tống biệt hành

Tống biệt là đề tài muôn thuở của thi nhân từ xưa đến nay. Do đó người làm thơ khó tránh được sự lặp lại. Nhưng đối với nhà thơ có tài thì đấy không phải là trở ngại. 

Tống Biệt Hành ra đời vào lúc ách đô hộ Pháp đang đè nặng lên đất nước Việt Nam ta. Những tác phẩm văn chương có xu hướng chống lại cường quyền mà muốn được xuất bản, thì phải làm sao? Phải tìm cách lẩn tránh con mắt theo dõi của mật thám bủa vây khắp nơi bằng cách nói “bóng gió, xa xôi”. Người đọc trước kia cũng như bây giờ nên thấu hiểu hoàn cảnh đó. 

Chẳng hạn như Thế Lữ trong bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng  (trích đoạn) cảm đề cuốn Đoạn Tuyệt của Nhất Linh chỉ nói bâng quơ, “Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ”:

Non nước đương chờ gót lãng du

Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu

Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc

Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ

Hay như toàn bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm cũng thế.  

Nhà thơ quý người bạn sắp lên đường ấy vô cùng, luôn luôn trân trọng gọi bạn là “người”. Và cũng yêu bạn không kém, nhớ cả chi tiết nhỏ nhặt lúc chia tay, nhớ bóng chiều và đôi mắt bạn. 

Tiễn đưa diễn ra trên một con đường vắng để khỏi bị lộ bí mật vào một buổi chiều đầy hoàng hôn trong mắt trong. Trước đó, tác giả đã để ý thấy, “Người buồn chiều hôm trước, người buồn sáng hôm nay” trong khi cảnh vật quanh mình vẫn êm đềm, tươi đẹp, “Bây giờ  mùa hạ sen nở nốt/ Trời chưa mưa thu tươi lắm thay”.  Tuy thế, chỉ một mình tác giả biết người buồn mà thôi. Những người thân quyến chắc hẳn trách cứ người đã tỏ ra vô tình, dửng dưng, khinh bạc đối với họ. Nhưng ta, tức tác giả, ta biết, và ta chợt cảm thấy lo sợ. Những vướng bận thường tình – nỗi đau của mẹ, dòng lệ của chị, chiếc khăn của em — biết đâu có thể làm chùn bước người đi. 

Cuối cùng người  thực.

Bài thơ bày ra nhiều hoàn cảnh đối lập. Tiễn đưa không cần phải qua sông, nhưng lòng người ở lại vẫn dậy sóng; bóng chiều không cần phải u ám, nhưng mắt người ra đi vẫn đầy hoàng hôn. Xúc cảm, nhờ sự đối lập đó, tăng thêm gấp bội. Cũng thế, thiên nhiên càng tươi đẹp càng khiến cho nỗi buồn của người ra đi càng u ám; giã từ người thân trong dửng dưng (cố ý làm ra thế), càng cho thấy nỗi khổ tâm càng lớn lao. 

Thế Lữ trong một trích đoạn khác của Giây Phút Chạnh Lòng cũng mang tâm trạng đó:

Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng

Nhìn nhau bình thản lúc ra đi

Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy

Thấy cả muôn đời hận biệt ly

Tống Biệt Hành chan chứa buồn đau nhưng không kém phần hùng tráng. Tóm lại, một thiên bi hùng ca rút gọn.

Tống biệt hành  

Đưa người ta không đưa sang sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng

Bóng chiều không thắm không vàng vọt

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong

Đưa người ta chỉ đưa người ấy

Một biệt gia đình một dửng dưng

Ly khách ly khách con đường nhỏ

Chí lớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt

Một chị hai chị cũng như sen

Khuyên đứa em trai dòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Trời chưa mưa thu tươi lắm thay

Em bé ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương nhớ chiếc khăn tay

Người đi ừ nhỉ người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu cay

Tranh Nguyễn Thanh Bình

Đoàn Văn Cừ.

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ (1913 – 2004). Ảnh: Hội Nhà Văn Việt Nam

Trong khí hậu Thơ Mới tiền chiến lãng mạn và buồn, có một nhà thơ ngồi riêng biệt một chiếu nơi đó tiếng cười vui nhộn luôn luôn vang dội, đó là Đoàn Văn Cừ.  Tiếng cười càng rộn rã khi Tết đến.  

Chợ Tết

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi

Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh

Trên con đường viền trắng mép đồi xanh

Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết

Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc

Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon

Vài cụ già chống gậy bước lom khom

Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ

Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ

Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu

Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau

Sương trắng đổ đầu cành như giọt sữa

Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa

Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh

Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh

                                     *

Người mua bán ra vào đầy cổng chợ

Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ

Để lắng nghe người khách nói bô bô

Anh hàng tranh kĩu kịt quảy đôi bồ

Tìm đến chỗ đông người ngồi dở bán

Một thầy khóa gò lưng trên cánh phản

Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân

Cụ đồ nho đứng lại vuốt râu cằm

Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ

Bà cụ lão bán hăng bên miếu cổ

Nước thời gian gội tóc trắng phau phau

Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu

Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu

Áo cụ lý bị người chen sấn kéo

Khăn trên đầu đương chít cũng tung ra

Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà

Quên cả chị bên đuòng đang đứng gọi

Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi

Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa

Những mẹt cam đỏ choét tựa son pha

Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết

Con gà trống màu thâm như cục tiết

Một người mua cầm cẳng dốc lên xem

                                      *

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm

Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh

Trên con đường đi các làng hẻo lánh

Những người quê lũ lượt trở ra về

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

Lá đa rụng tơi bời quanh cổng chợ

 Phiên chợ Tết (Tranh minh họa trên Giadinh.net.vn)

Xuân về. Một ngày Tết muôn hồng nghìn tía, thiên hình vạn trạng. Từ thiên nhiên đến loài người, loài vật.

Buổi sáng, buổi trưa: mây trắng đỏ, sương hồng lam, sương như giọt sữa, đồi thoa son, núi xanh biếc, đường viền trắng mép đồi xanh, tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa. Buổi chiều: ánh dương vàng, lá đa rụng tơi bời, làng hẻo lánh.

Đó là thiên nhiên.

Thế người và vật? Một cuộc tập họp đủ mọi tầng lớp trong xã hội tại một phiên chợ Tết ở miền quê. Trẻ, già, lớn, bé; nam, phụ, lão, ấu; sĩ, nông, công, thương; đều có mặt. Con gà, con lợn, con bò, con trâu cũng chen chân vào cuộc hoan ca. Và nhiều hình ảnh rất ấn tượng, ngộ nghĩnh. Con trâu vờ ngủ để lắng nghe người ta nói bô bô, khăn áo cụ lý bị tung ra vì lấn kéo v.v … Cuộc sống vô cùng sinh động diễn ra từ sáng tinh mơ cho đến chiều tà. 

Người, vật, thiên nhiên, hòa điệu vào nhau tạo nên một cái Tết ở miền quê tưng bừng.   

Một ngòi bút tả chân tỉ mỉ, chu đáo, tinh tế, và chan chứa yêu thương như thế mới có thể phản ảnh được nếp sống nghèo mà vui, mới nói lên được bản sắc dân quê Việt Nam thuộc thế kỷ trước.  

Phong trào Thơ Mới, ngoài những nhà thơ vừa nêu trên đây, còn có nhiều khuôn mặt nổi tiếng khác như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Lưu Trọng Lư, Bích Khê v.v… Một bài viết ngắn không thể nào đề cập đến tất cả, chỉ xin nói đến ba nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, và Nguyễn Bính. 

Xuân Diệu

Nhà thơ Xuân Diệu (1916-1985)

Xuân Diệu rất mới, và rất “Tây”. Mới trong cảm xúc, tha thiết, nồng nàn, rạo rực; Tây trong lối diễn tả, dùng chữ. 

Nhà thơ rất sợ thời gian qua mau. Như được diễn tả trong 8 câu thơ dưới đây, niềm vui, nỗi hân hoan, con mắt nhìn, rặng mi dài, lời yêu đương, tà áo mới, mùi gió nước … của cuộc sống tưng bừng trong hiện tại, đều sẽ bị thời gian chôn vùi vào quá khứ:

Hỡi năm tháng vội đi làm quá khứ
Trở về đây. Và đem trở về đây.
Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử
Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây

Và nhạc phất dưới chân mừng sánh bước
Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngòi
Tà áo mới cũng say mùi gió nước
Rặng mi dài xao động ánh dương vui

(Xuân Đầu)

Cho nên nhà thơ hối thúc người yêu, con tim nhỏ của tôi, đừng chờ đợi nữa:

Mau với chứ vội vàng lên với chứ

Em em ơi tình non đã già rồi

Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi

Mau với chứ thời gian không đứng đợi

(Giục Giã)

Nỗi ám ảnh của thời gian càng sâu xa hơn trong Vội Vàng, một trong những bài thơ  hay nhất của Xuân Diệu. Thoạt nghe, tưởng đây là những ước muốn ngông cuồng của một người mới lớn: tắt nắng, buộc gió. Để làm gì? Để giữ lại màu sắc, hương vị, của tuổi trẻ. Nhưng liệu nhà thơ hay tất cả chúng ta có thể nào làm được việc đó hay không? Dứt khoát là không. Cho nên, phải vội vàng “đốt giai đoạn”, chạy đua với thời gian. Mà thời gian thì vô thủy vô chung, trong khi đời sống của con người hữu hạn. Không sớm thì muộn, con người sẽ bị thời gian đánh gục. Và con người trước sau gì cũng phải buộc lòng phải từ bỏ cuộc đời đầy yêu thương này.  Đó là bi kịch muôn đời của kiếp nhân sinh. Tất cả những xôn xao, tha thiết, bâng khuâng, tiếc nuối, vội vã, đau đớn đó đều được biểu lộ một cách cụ thể và sinh động trong bài thơ dưới đây. 

Vội vàng 

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong gió biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa

Mau đi thôi màu chưa ngã chiều hom

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước và cây và cỏ rạng

Cho chuếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của trơi tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi

Lộc Xuân. Tranh Phạm Ánh.

Huy Cận

Nhà thơ Huy Cận (1919 –2005)

Nếu thời gian là bi kịch của Xuân Diệu, thì không gian là mối quan tâm chính của Huy Cận. Trong hầu hết thơ Huy Cận, không gian luôn luôn có mặt. Ngay trong bài thơ nổi tiếng nói về chuyện tình của hai người yêu nhau, bài Ngậm Ngùi, bên cạnh những lời tình tự đầy yêu thương và buồn rười rượi, không gian cũng góp phần lớn lao trong cách diễn tả nỗi buồn đó:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu

Ngủ đi em mộng bình thường
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau

Tương tự như thế, Em Về Nhà, là hình ảnh của người em cô đơn một mình trên chiếc thuyền nhỏ giữa “ngã ba sông nước bốn bề”, “làng xa lặng lẽ”. Không gian dàn trải mênh mông:

Tới ngã ba sông nước bốn bề

Nửa chiều gà lạ gáy trên đê

Làng xa lặng lẽ sau tre trúc

Bến cũ thuyền em sắp ghé về

Trước cảnh sông dài, trời rộng, cái cồn bỗng như nhỏ lại, Lơ thơ cồn nhỏ; ngôi làng bỗng như mất hút chỉ còn văng vẳng lại, Tiếng vãn chợ chiều:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu

(Tràng Giang)

Đẹp Xưa càng tràn ngập không gian: mép núi quanh co, lưng đèo quán dựng, gió hút nẻo vàng, một trời thu rộng, mấy hàng mây nao, nghỉ ngựa non cao, dặm xa lữ thứ, khuất ngựa sau non, buồn lọt quán chiều, buồn theo hút người. 

Đẹp Xưa

Ngập ngừng mép núi quanh co

Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang

Vi vu gió hút nẻo vàng

Một trời thu rộng mấy hàng mây nao

Dừng cương nghỉ ngựa non cao

Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon

Đi rồi khuất ngựa sau non

Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu

Trơ vơ buồn lọt quán chiều

Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người

Nguyễn Bính 

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966)

Trong khi đó, khác với Xuân Diệu và Huy Cận, Nguyễn Bính là hiện thân của nếp sinh hoạt nông thôn, của ngôn ngữ chất phác, mộc mạc của người dân quê. Của những câu nói êm đềm, duyên dáng, man mác, dịu dàng. Nhiều câu thơ nghe chẳng khác gì ca dao: 

Sáng trăng sáng cả vườn chè
Một gian nhà nhỏ đi về có nhau
Vì tằm tôi phải chạy dâu
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay.
Chồng tôi thi đỗ khoa này
Bõ công đèn sách từ ngày lấy tôi
Kẻo không rồi chúng bạn cười
Rằng tôi nhan sắc cho người say sưa
Tôi hằng khuyên sớm khuyên trưa
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng 

(Thời Trước)

Yêu, nhớ, tương tư, là tâm lý thông thường tình của những cặp tình nhân. Nhưng tương tư trong thơ Nguyễn Bính rất đậm đà hình ảnh của quê hương, chòm xóm láng giềng, đình làng, giàn trầu nhà em và giàn cau nhà anh. Chứ đâu phải chỉ là chuyện riêng tư giữa hai người với nhau như trong những chuyện tình lãng mạn theo chủ nghĩa cá nhân. Anh nhớ em nào khác thôn Đoài nhớ thôn Đông. Hai thôn lại chung một làng, gần gũi nhau lắm,  thì lẽ ra hai người có thể gặp nhau dễ dàng hơn chứ. Tại sao lại để sâm thương cách trở. Người đang tương tư bỗng như sực tỉnh: đám cưới phải có trầu cau theo truyển thống lâu đời. Vâng, một ngày nào đó, cau vườn nhà anh sẽ hôn phối cùng trầu nhà em sau bao nhiêu thời gian nhớ nhung xa cách. 

Nỗi nhớ của người nam trong chuyện tình này rất sâu xa, tha thiết, đồng thời cũng rất đầy đặn, đôn hậu, khác hẳn cái dằn vặt, ray rứt trong Tương Tư của Hàn Mặc Tử.

Tương Tư

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của trời

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng

Hai thôn chung lại một làng

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này

Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây cách một đầu đình

Có xa xôi mấy cho tình xa xôi

Tương tư thức mấy đêm rồi

Biết cho ai hỏi ai người biết cho

Bao giờ bến mới gặp đò

Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau

Nhà em có một giàn trầu

Nhà anh có một giàn cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào

Ngày xuân chuyện trò với thơ, ta không thể không nghĩ đến cái Tết trong thơ Nguyễn Bính. Đây là cái Tết nhẹ nhàng, êm đềm, chứ hông phải là cái Tết náo nhiệt, rộn ràng của Đoàn Văn Cừ.  

Năm hết Tết đến, mọi sinh hoạt ở thôn quê đều ngừng lại. Để nghỉ ngơi sau một năm làm việc cực nhọc. Để ăn Tết. Nhà nông thì cho đàn trâu lội ngang sông tắm mát thảnh thơi. Những người sống trên sông nước thì  sắp xếp thuyền bè nằm yên nghỉ trên cát mịn. Chỉ cô thợ nhuộm là gian khổ.

Thời đó một số người ở lưu vực sông Hồng rời quê hương tới làm ăn kiếm sống tại những nhà máy dệt tại các thành phố như Nam Định, Thái Bình. Cũng không xa nhà là bao, trên dưới 100 cây số là cùng. Nhưng không phải như bây giờ có đủ xe đò, xe lửa, xe máy, đi đâu cũng dễ dàng. Muốn về quê, cô thợ nhuộm phải đi bộ. Gặp may thì  có thể đi thuyền qua vài khúc sông ngắn. Cho nên, dù phải đi bộ cho hết những quãng đường  dài trong sương gió đến rám cả má hồng, cô thợ nhuộm vẫn không chùn bước. Như con chim suốt ngày bay khắp nơi kiếm ăn, tối bay về tổ ấm, cô thợ nhuộm suốt năm đi làm ăn xa, Tết đến quay trở về quê hương yêu mến, được sống dăm ba ngày đoàn tụ với bố mẹ già, với đàn em nhỏ.

Không Đề

Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn

Có đàn trâu trắng lội ngang sông

Có cô thợ nhuộm về ăn Tết

Sương gió đường xa rám má hồng

Vừa rồi đề cập đến ba tác giả Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính. Những xu hướng rõ nét của mỗi nhà thơ được nêu lên một cách rất sơ lược. Thật ra, họ là những nhà thơ tài hoa, tâm hồn phức tạp, đa dạng. Thơ của họ còn bao gồm nhiều lãnh vực khác.

Nhìn chung, phong trào Thơ Mới đã sản xuất nhiều nhà thơ biệt tài. Và, một cách khái quát, Thơ Mới là tiếng nói lãng mạn của tình cảm, của nỗi buồn kéo dài lê thê. Dăm ba nhà thơ trong phong trào Thơ Mới sẽ sống lâu với thời gian.

(còn nữa)

Ngự Thuyết 

——————-

[1] Nhà cách mạng Phan Bội Châu, rất tán thưởng mấy bài Đường luật của Hàn Mặc Tử , đã họa lại bài Thức Khuya:

Chợ lợi trường danh tí chẳng màng
Sao ăn không ngọt ngủ không an
Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn
Cửa sấm gớm ghê người đánh trống
Tai trâu mệt mỏi khách đưa đàn
Lòng sen đằng đẵng tơ sen vướng
Mưa gió bao phen gộc chẳng tàn